1. Trang chủ >
  2. Luận Văn - Báo Cáo >
  3. Kinh tế - Thương mại >

I. Thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào thị trường EU từ năm 2001 đến nay.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (457.04 KB, 75 trang )


Khoá Luận Tốt Nghiệp



Lê Thị Thu Trang A2-CN9



Quan hệ thơng mại Việt Nam-EU đang ngày càng phát triển. Cơ sở pháp lý

điều chỉnh và đảm bảo cho sự phát triển ổn định của mối quan hệ này là Hiệp

định Hợp tác ký năm 1995, theo đó về thơng mại hai bên dành cho nhau đãi ngộ

tối huệ quốc (MFN), cam kết mở cửa thị trờng cho hàng hoá của nhau tới mức tối

đa có tính đến điều kiện đặc thù của mỗi bên và EU cam kết dành cho hàng hoá

xuất xứ từ Việt Nam u đãi thuế quan phổ cập (GSP); và Hiệp định buôn bán hàng

dệt may có giá trị hiệu lực từ năm 1993, đến nay đã 2 lần gia hạn và điều chỉnh

tăng hạn ngạch. Chính cơ sở pháp lý trên đã tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam

khai thác đợc lợi thế so sánh tơng đối trong hợp tác thơng mại với EU. Do đó mà

hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang EU phát triển mạnh cả về lợng và chất.

Cơ cấu hàng xuất khẩu đã có những thay đổi đáng kể và kim ngạch xuất khẩu

tăng nhanh. (xem bảng 5)

Bảng 5



Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU 1999 - 2002



Đơn vị : Triệu USD

1999

(1) Kim ngạch xuất khẩu

của Việt nam sang EU (1)

(2) Tổng kim ngạch xuất

khẩu của Việt nam (2)

Tỷ trọng (1) trong (2) (%)



2000



2001



2002



2.506,30



2.836,95



3.002,95



3.149,93



11.135,90



13.962,80



15.027,00



16.530,00



22,50



22,40



20,00



19,05



13.2



5.9



4.9



Tốc độ tăng hàng năm của (1)

Nguồn : Tổng cục Hải quan, Bộ Thơng mại



Bảng trên cho chúng ta thấy kim ngạch xuất sang EU tăng nhanh từ

năm 1999-2000 với mức tăng trởng đạt 13.2%. Tỷ trọng của xuất khẩu sang thị

trờng EU tuy có giảm so với tổng tăng chung kim nghạch xuất khẩu của ta nhng

không đáng kể và vẫn chiếm tỷ trọng cao, năm 2002 là 19,05%. Năm 2000, tỷ lệ

xuất khẩu sang EU đạt 22,4% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nớc. Nếu

năm 1999 kim ngạch xuất khẩu của nớc ta sang EU đạt 2.506,3 triệu USD thì



30



Khoá Luận Tốt Nghiệp



Lê Thị Thu Trang A2-CN9



năm 2000 đã tăng lên đến 2.837,1 triệu USD và năm 2002 đạt 3.149,9. Điều này

chứng tỏ kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU luôn luôn tăng. Đặc biệt

năm 2003 này EU đã tăng cho Việt nam thêm 250 triệu USD hạn ngạch hàng dệt

may xuất khẩu vào EU.

Rõ ràng là trị giá xuất khẩu của Việt Nam sang thị trờng EU tăng lên

nhanh chóng, nhng tốc độ tăng hàng năm lại không ổn định và có xu thế giảm

tăng so với năm trớc (Năm 2000 kim ngạch xuất khẩu tăng 13,2% so với 1999,

năm 2001 tăng 5,9% so với 2000, năm 2002 tăng 4,9% so với năm 2001).

Nguyên nhân dẫn tới tình trạng này là do giá của một số mặt hàng trên thị trờng

thế giới giảm nhiều (điển hình là cà phê) và tất cả các mặt hàng xuất khẩu quan

trọng của Việt Nam đều đang gặp trở ngại trên thị trờng EU do các qui chế quản

lý nhập khẩu của EU gây ra. Trong khi đó, đến tháng 4/2000 Việt Nam vẫn cha

đợc EU coi là nớc có nền kinh tế thị trờng nên hàng của ta phải chịu sự phân biệt

đối xử so với hàng của các nớc khác khi EU xem xét áp dụng các biện pháp

chống bán phá giá.

Mặc dù nhu cầu nhập khẩu hàng năm của EU đối với các mặt hàng xuất

khẩu chủ lực của ta là rất lớn và kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị tr ờng này tăng nhanh, thế nhng tỷ trọng của nó trong tổng kim ngạch nhập khẩu

của EU lại không đáng kể, chừng 0,12%. Vấn đề có thể lý giải một phần ở chỗ

chất lợng hàng xuất khẩu của Việt Nam cha đợc ổn định và đôi khi không đáp

ứng đợc yêu cầu của các bạn hàng EU, nh hàng vẫn còn lẫn tạp chất, một số lô

hàng tôm đông lạnh còn lẫn cả đinh và bị nhiễm khuẩn, điều kiện chế biến thuỷ

sản cha đáp ứng qui định của EU, các vết bẩn trên sản phẩm hàng dệt. Ngoài ra,

còn nhiều trờng hợp hàng xuất khẩu của Việt Nam không đảm bảo đúng các qui

định trong hợp đồng về qui cách kỹ thuật, số lợng và thời gian giao hàng. Do vậy,

làm giảm đáng kể mức lu chuyển hàng xuất khẩu của Việt Nam sang EU. Một

hiện tợng khác nữa là trong các số liệu xuất khẩu chính thức của Việt Nam sang

thị trờng này nêu trên còn thiếu một bộ phận hàng hoá đáng kể do các Công ty

thơng mại của các nớc khác có văn phòng giao dịch tại Việt Nam hoặc không có

văn phòng giao dịch tại Việt Nam đã nhập khẩu vào EU. Đó có thể là lợng hàng

31



Khoá Luận Tốt Nghiệp



Lê Thị Thu Trang A2-CN9



hoá nằm trong kênh buôn bán chính thức giữa EU với các nớc khác, nhất là các

nớc thuộc khu vực Châu á, trong trờng hợp này họ đã tái xuất khẩu hàng của

Việt Nam sang EU. Đặc biệt còn một lợng hàng hoá không nằm trong kênh buôn

bán chính thức tức là qua con đờng xuất khẩu chính ngạch nhng làm giả mạo

giấy xuất xứ của lô hàng. Cụ thể là nhiều bạn hàng phần lớn trong khu vực làm

giả giấy chứng nhận xuất xứ của Việt Nam để đợc hởng những u đãi mà EU dành

cho Việt Nam, thí dụ nh u đãi GSP (phổ biến là hàng da giày).

Khi so sánh số liệu thống kê của Việt Nam với số liệu thống kê của EU ta

dễ dàng nhận thấy kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào thị trờng EU theo số

liệu của EU lớn hơn rất nhiều so với kim ngạch tính theo số liệu của Việt Nam

(Mức chênh lệch năm 1999 là 818,8 triệu USD, mức chênh lệch giữa 2 số liệu

thống kê chiếm khoảng 35,7% kim ngạch xuất khẩu Việt Nam-EU tính theo số

liệu của EU, và chiếm 59,9% tính theo số liệu của Việt Nam).

Trớc năm 1994, EU gồm 12 nớc nhng chỉ có 6 nớc trong EU có quan hệ

buôn bán với Việt Nam là: Pháp, Bỉ, Hà Lan, Đức, Italia, Anh. Thời kỳ 19992002, cả 15 nớc thành viên EU đều có quan hệ buôn bán với Việt Nam tuy mức

độ có khác nhau. Việt Nam có 15 thị trờng xuất khẩu trong khối EU và tỷ trọng

của từng thị trờng trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU cũng

rất khác nhau (xem bảng 6).



Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU



Bảng 6



(Phân theo nớc)

Stt



Tên nớc



1999



Đơn vị: Triệu USD

2000



2001



2002



1



Đức



654,32



730,08



721,80



720,74



2



Anh



421,18



479,28



511,58



570,80



3



Pháp



354,94



379,75



467,47



438,47



4



Hà lan



342,93



390,24



364,54



404,26



32



Khoá Luận Tốt Nghiệp



Lê Thị Thu Trang A2-CN9



5



Bỉ



306,70



311,63



341,19



335,08



6



Italia



159,39



218,00



237,87



263,83



7



Tây Ban Nha



108,02



137,20



158,53



178,47



8



Đan Mạch



43,69



58,21



49,67



62,51



9



Thụy Điển



45,24



55,06



53,24



62,45



10 Hy Lạp



14,07



16,41



21,13



35,00



11 áo



34,92



23,62



28,86



29,53



12 Phần Lan



16,87



22,37



19,93



24,20



6,92



12,12



20,79



19,03



5,23



8,87



6,35



5,56



13 Ailen

14



Bồ Đào Nha và

Lúc Xăm Bua



Nguồn: Tổng cục Hải quan, Niên giám thống kê và Bộ Thơng mại



Qua số liệu ở bảng trên ta nhận thấy nhìn chung kim ngạch xuất khẩu của

Việt Nam sang các nớc trong khối EU đều tăng lên hàng năm (trừ Đức, Pháp , Bỉ,

Bồ Đào Nha và Lúc Xăm Bua giảm một chút vào năm 2001-2002). Đối với một

số thị trờng nh Anh, Hà Lan, Italia, Đan Mạch, Thụy Điển, Phần Lan có tốc độ

tăng trởng kim ngạch tơng đối đều, có một số đạt tốc độ tăng trởng cao. Năm

1999 kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Italia đạt 159,39 triệu USD nhng

đến năm 2002 đạt 263,83 triệu USD tăng 38%/năm...

Thị trờng xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam trong khối EU là Đức, chiếm

22,7% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU, tiếp đến là Anh (16,9%),

Pháp (14,8%), Hà Lan (14,7%), Bỉ (8,6%), Italia (7,1%), Tây Ban Nha (5,5%),

Đan Mạch (2,6%), Thuỵ Điển (2,4%), Phần Lan (1,2%), áo (1,2%), Ai Len

(0,7%), Hy Lạp (0,6%), Bồ Đào Nha (0,6%) và Lúc Xăm Bua (0,4%). Từ năm

1997, Anh đã vợt Pháp và Hà Lan vơn lên chiếm vị trí thứ hai sau Đức.

2.Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu.



33



Khoá Luận Tốt Nghiệp



Lê Thị Thu Trang A2-CN9



Hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là giầy dép , hàng dệt may, cà

phê, hải sản, gạo, cao su, than đá, điều nhân và rau quả. 9 mặt hàng này thờng

xuyên chiếm tới 75% kim ngạch xuất khẩu của ta vào EU, trong đó riêng giày

dép là 37%, hàng dệt may là 25%, cà phê và hải sản trên dới 14%. Nếu so với trớc đây, các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam vào EU đã phong phú và đa dạng

hơn rất nhiều. Điều đáng quan tâm là bên cạnh các mặt hàng sơ chế, nông sản,

thuỷ sản, công nghiệp nhẹ, các mặt hàng gia công, là sự xuất hiện của các sản

phẩm điện tử của Việt Nam trong nhóm hàng xuất khẩu vào EU, tuy với số lợng

không đáng kể chỉ chiếm 2,1% tổng kim ngạch xuất khẩu sang EU nhng nó cũng

đã chứng tỏ đợc khả năng của Việt Nam xuất khẩu vào thị trờng này còn rất lớn

và các mặt hàng sẽ đợc đa dạng và phong phú hơn rất nhiều. (xem bảng 7).

Bảng 7 Các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam sang EU

Đơn vị: Triệu USD

Stt



Tên hàng



1999



2000



2001



2002



1



Giầy dép các loại



936,96



1.039,33



1.163,10



1,327,87



2



Hàng dệt may



555,05



609,010



607,57



551,92



3



Cà phê



207,17



201,38



198,21



165,90



4



Hàng thủ công mỹ nghệ



59,73



111,93



119,13



143,70



5



Sản phẩm gỗ



71,52



83,24



97,210



99,80



6



Hải sản



89,11



100,26



116,73



98,02



7



Hạt điều



10,36



28,74



30,78



45,19



8



Cao su



22,41



23,85



23,94



39,73



9



Hạt tiêu



18,10



25,13



16,82



28,52



10



Sản phẩm nhựa



22,80



24,14



27,52



28,01



11



Đồ chơi trẻ em



13,23



18,54



27,42



22,83



34



Khoá Luận Tốt Nghiệp



12



Chè



13



Than đá



14



Lê Thị Thu Trang A2-CN9



Hàng rau quả



15



Máy vi tính, linhkiện điện

tử, và thiết bị đIện



3,85



2,67



13,68



21,64



16,60



21,66



15,27



17,33



8,29



9,24



11,02



13,07



18,08



16,27



12,26



10,10



16



Thiếc



2,38



7,97



3,11



1,75



17



Gạo



55,01



16,89



3,27



1,23



18



Quế



0,83



0,22



0,37



0,20



Nguồn: Vụ XNK - Bộ thơng mại

Trong cơ cấu hàng xuất khẩu sang EU, nhóm hàng chế tạo bao gồm: giầy

dép chiếm 55%, hàng may mặc chiếm 30%, máy móc thiết bị điện,...; nhóm hàng

thực phẩm thì cà phê, chè, gia vị chiếm trên 70%, thuỷ sản chiếm 20%, còn lại đồ

uống, hạt điều, rau quả,...; nhóm nguyên liệu thô gồm: các sản phẩm gỗ chiếm

khoảng 80%, cao su chiếm 14,7%,...; nhóm hàng nhiên liệu khoáng sản:than đá

chiếm 75%,....

Trong những năm tới, bên cạnh việc giữ vững và tăng cờng xuất khẩu các

mặt hàng truyền thống, chúng ta cần đẩy mạnh xuất sang EU hàng thủ công mỹ

nghệ, hạt điều, chè, than đá, rau quả nhất là các trái cây nhiệt đới nh xoài, dứa,

sầu riêng, chôm chôm, măng cụt, vú sữa...(trừ chuối, dứa) vì đây là những mặt

hàng EU có nhu cầu nhập khẩu lớn, ta có lợi thế so sánh tơng đối tốt và không

nằm trong danh sách nhóm hàng hạn chế nhập khẩu của EU. Song song với

những mặt hàng nông sản và công nghiệp nhẹ ta cũng nên đẩy mạnh xuất khẩu

các mặt hàng máy vi tính và linh kiện, động cơ diesel, chất tẩy rửa sang các thị trờng không phải là quá khó tính nh Hy Lạp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha.

3. Tình hình xuất khẩu một số mặt hàng chủ yếu của Việt Nam sang EU

trong những năm gần đây



3.1. Hàng giày dép



35



Khoá Luận Tốt Nghiệp



Lê Thị Thu Trang A2-CN9



EU là một thị trờng rộng lớn với số dân gần 400 triệu ngời có mức sống

cao vào loại nhất thế giới và có nhu cầu tiêu thụ giầy dép rất lớn, bình quân 6-7

đôi/ngời/năm. Trong đó 50% giầy dép tiêu thụ ở khu vực này là đợc nhập khẩu

theo đơn đặt hàng. Tuy nhiên thị hiếu của ngời tiêu dùng Tây Âu rất khắt khe.

Nguồn hàng thích hợp với thị trờng EU là nguồn hàng đa dạng, phong phú về

chủng loại, khối lợng lớn, cung ổn định, thoả mãn thị hiếu tiêu dùng và đáp ứng

các yêu cầu kỹ thuật của Liên minh. Có thể nói thị trờng EU hiện tại và tơng lai

là thị trờng đầy tiềm năng cũng là thị trờng đầy thách thức đối với hàng giầy dép

của Việt Nam.

Trong những năm qua ngành da giầy Việt Nam đã không ngừng nỗ lực

đầu t sản xuất , nâng cao chất lợng, cải tiến mẫu mã, tìm kiếm bạn hàng, nâng

cao kim ngạch xuất khẩu. Thực tế, năm 1995 khi kim ngạch xuất khẩu hàng dệt

may đã đạt 850 triệu USD, thì kim ngạch xuất khẩu giầy dép mới đạt 481 triệu

USD. Vì giầy dép và sản phẩm da Việt Nam trớc kia xuất khẩu vào EU phải chụi

sự giám sát (phải xin phép trớc khi nhập khẩu), nhng sau khi ký Hiệp định hợp

tác (17/7/1995) nhóm hàng này đợc nhập khẩu tự do vào EU. Chính vì vậy kim

ngạch xuất khẩu tăng lên rất nhanh: năm 1999 đạt 937 triệu USD, năm 2000 đạt

1.039,3 triệu USD, năm 2001 đạt 1.163,1, năm 2002 đạt 1.327,9 triệu USD vợt xa

mặt hàng dệt may đã từng giữ vị trí thống soái trong thời kỳ 1992-1995. Đăc biệt

năm 2002 kim ngạch xuất khẩu giầy dép của Việt nam sang EU đạt tốc độ tăng

trởng cao là 14,2%. Hàng giầy dép luôn là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu vào

EU lớn nhất của Việt nam vì mặt hàng này đợc hởng thuế u đãi GSP và Việt

Nam và EU đã ký tắt biên bản ghi nhớ về chống gian lận trong buôn bán các sản

phẩm giày dép tháng 8/1999, áp dụng từ 1/1/2000. Việc ký biên bản này tránh đợc khả năng EU áp đặt hạn ngạch đối với mặt hàng giày dép của ta.

Theo số liệu của Bộ Thơng Mại, tổng kim ngạch xuất khẩu của mặt hàng

giầy dép của Việt Nam nh sau: Năm 1999 đạt 11.135.9 triệu USD, năm 2000 đạt

13.962,8 triệu USD, năm 2001 đạt 15.027triệu USD, năm 2002 đạt 16,530,000

triệu USD. Nhng cho tới nay, có nhiều số liệu khác nhau về tỷ trọng của EU

trong tổng kim ngạch xuất khẩu giầy dép và sản phẩm da của Việt Nam. Nếu căn

36



Khoá Luận Tốt Nghiệp



Lê Thị Thu Trang A2-CN9



cứ vào số liệu của EU thì gần nh 100% sản phẩm da giầy của ta đợc xuất vào thị

trờng này. Theo số liệu của Hải quan Việt Nam thì chỉ xấp xỉ 50% (do Hải quan

thống kê thị trờng theo khách hàng, không thống kê theo điểm đến cuối cùng).

Còn theo Tổng Công Ty Da Giầy Việt Nam thì tỷ trọng của EU là trên 80%. Qua

các con số thống kê nh vậy có thể thấy hàng giầy dép của Việt Nam vào thị trờng

EU phần lớn là thông qua trung gian và hình thức gia công. Nhng dù sao thì tỷ

trọng sản phẩm xuất khẩu vào thị trờng EU cũng vẫn chiếm một tỷ trọng lớn

trong tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này của Việt Nam.

Các sản phẩm giầy dép của Việt Nam xuất sang EU chủ yếu là giầy thể

thao, chiếm trên 40% kim ngạch xuất khẩu giầy dép của Việt Nam sang thị trờng

này, giầy vải gần 20%, giầy nữ khoảng 15%, dép khoảng 17% và giầy da hơn

1,5% (theo thống kê của Bộ Thơng mại-2002).

Thị trờng nhập khẩu giày dép lớn nhất của Việt Nam trong khối EU là Đức

(25,3%), tiếp đến là Anh (21,0%), Pháp (14,3%), Bỉ (12,3%), Italia (8,1%), Hà

Lan (7,9%), Tây Ban Nha (4,6%), Thụy Điển (2,2%), Đan Mạch (1,3%), Hy Lạp

(0,8%), áo (0,8%), Phần Lan (0,8%), Ai Len (0,6%), Bồ Đào Nha và Lúc Xăm

Bua (0,3%).

Tuy kim ngạch xuất khẩu giày dép của Việt Nam sang EU tăng nhanh, nhng chúng ta chủ yếu xuất khẩu theo hình thức gia công (chiếm 70%- 80% kim

ngạch) nên hiệu quả thực tế rất nhỏ (25%-30% tổng doanh thu xuất khẩu).

Nguyên nhân dẫn tới tình trạng này là do: (1) Ngành giày không nhận đợc sự hỗ

trợ của ngành da và các ngành sản xuất nguyên phụ liệu, hiện nay ngành này

đang sống nhờ vào nguyên liệu ngoại và gần nh phụ thuộc hoàn toàn vào khách

hàng nớc ngoài trong các khâu kỹ thuật, công nghệ, thiết kế mẫu và tiếp thị; (2)

Phơng thức gia công và tốc độ tăng trởng cao đã gây tâm lý chủ quan và dễ dãi

trong ngành nên không cơ sở nào quan tâm đến việc đa dạng hoá, nâng cao

chất lợng và cải tiến mẫu mã sản phẩm xuất khẩu, do đó mà chất l ợng sản

phẩm giày dép cha cao và mẫu mã còn đơn điệu. Nếu cứ kéo dài tình trạng này

thì giày dép Việt Nam sẽ ở vào vị trí hoàn toàn bất lợi trong cạnh tranh trên thị

trờng EU khi họ xoá bỏ chế độ GSP và lúc đó các sản phẩm giày dép Việt

37



Khoá Luận Tốt Nghiệp



Lê Thị Thu Trang A2-CN9



Nam sẽ không thể giành phần thắng trong cạnh tranh với các sản phẩm cùng

loại của Trung Quốc và các nớc ASEAN khác.

3.2.Hàng dệt may.

Dệt may là ngành có tiềm năng sản xuất và xuất khẩu lớn của Việt Nam.

Thị trờng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam gồm hai loại: thị trờng có hạn

ngạch ( gồm EU, Canađa, Thổ Nhĩ Kỳ) và không có hạn ngạch (gồm Mỹ, Nhật

Bản, Đông Âu và các nớc trong khu vực). EU là thị trờng xuất khẩu theo hạn

ngạch lớn nhất của Việt Nam. Hàng năm, EU nhập khẩu trên 63 tỷ USD quần áo

các loại trong đó chỉ khoảng10-15% là tiêu dùng còn lại 85-90% là sử dụng theo

mốt.

Từ năm 1980, chúng ta đã xuất khẩu hàng dệt may sang một số nớc thành

viên EU nh Đức, Pháp, Anh,v.v... Xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang

EU đặc biệt phát triển mạnh kể từ khi có Hiệp định buôn bán hàng dệt may. Cụ

thể, sau khi Hiệp định này đợc ký ngày 15/12/1992 và có hiệu lực vào năm 1993,

từ chỗ hầu nh bị cấm vận, nhóm hàng này của Việt Nam xuất khẩu vào EU đến

năm 1999 đã đạt gần 700 triệu và triển vọng năm 2000 sẽ tăng thêm khoảng 150

triệu USD. Hiện nay, xuất khẩu hàng dệt may sang thị trờng này chiếm 34%-38%

tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may hàng năm của Việt Nam.

Nớc nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất của Việt Nam trong khối EU là Đức

(46,9%), tiếp theo là Pháp (10,8%), Hà Lan (10,3%), Anh (9,4%), Bỉ (6,1%), Tây

Ban Nha (5,1%), Italia (4,4%), Đan Mạch (2,0%), Thụy Điển (1,9%), áo (1,5%),

Phần Lan (0,6%), Ai Len (0,4%), Lúc Xăm Bua (0,3%), Hy Lạp (0,2%) và Bồ

Đào Nha (0,1%).

Sau nhiều năm thực hiện Hiệp định dệt may, EU đã trở thành thị trờng xuất

khẩu hàng dệt may lớn nhất của Việt Nam. Mặc dù kim ngạch xuất khẩu liên tục

tăng, nhng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang EU lại đang gặp rất nhiều

khó khăn: thiếu bạn hàng tiêu thụ trực tiếp, số lợng hàng hoá EU dành cho Việt

Nam còn quá thấp so với nhiều nớc và khu vực, số hạn ngạch bị chia thành nhiều



38



Khoá Luận Tốt Nghiệp



Lê Thị Thu Trang A2-CN9



nhóm hàng, những sản phẩm có yêu cầu kỹ thuật phức tạp và chất lợng cao ta vẫn

cha sản xuất đợc.

Cũng giống nh mặt hàng giày dép, hàng dệt may của Việt Nam xuất khẩu

vào thị trờng EU chủ yếu theo hình thức gia công (chiếm tỷ trọng trên 80%) nên

hiệu quả thực tế rất nhỏ. Nguyên nhân là do: (1) Ngành dệt vẫn cha đáp ứng đợc

nhu cầu về nguyên phụ liệu của ngành may; (2) Sự dễ dãi và ít rủi ro của phơng

thức gia công nên ngành may tuy phát triển rất nhanh nhng vẫn là một khu vực

sản xuất thiếu tác phong công nghiệp và thiếu khả năng cạnh tranh; (3) Phơng

thức phân bổ hạn ngạch cha hợp lý cũng đã kìm hãm tính năng động và sáng tạo

của các doanh nghiệp may; (4) Những rào cản trong thơng mại dệt may tại thị trờng EU. Để đẩy mạnh xuất khẩu sang EU trong thời gian tới, ngoài nỗ lực của

chính phủ tạo điều kiện cho ngành dệt may phát triển, các doanh nghiệp dệt may

Việt Nam cần phải cải tiến chất lợng và đa dạng hoá sản phẩm để đáp ứng yêu

cầu của thị trờng EU và có thể cạnh tranh đợc với các sản phẩm của Trung Quốc

và các nớc ASEAN khác trên thị trờng này khi EU hủy bỏ chế độ hạn ngạch.



3.3. Hàng nông sản.

Hàng nông sản xuất khẩu chủ yếu sang EU là cà phê, cao su, gạo, chè, gia

vị và một số rau quả. Các mặt hàng cao su, cà phê, chè của ta phần nào đợc tập

trung thành các khu sản xuất và chế biến lớn, mang tính công nghiệp. Do vậy,

những mặt hàng này xuất khẩu sang EU khá ổn định và có tốc độ tăng trởng cao.

Chỉ riêng mặt hàng cà phê do giá giảm trên thị trờng thế giới kể từ 1996 nên xuất

khẩu cà phê của Việt Nam sang EU có biến động song không nhiều. Gạo xuất

khẩu sang EU cha lớn lắm vì mức thuế nhập khẩu đối với gạo của ta vào thị trờng

này rất cao (100%). Gạo Việt Nam nhập khẩu vào EU chủ yếu đợc tái xuất

sang một nớc thứ ba. Rau quả Việt Nam mới thâm nhập vào thị tr ờng EU vài

năm gần đây, nhng kim ngạch xuất khẩu tăng tơng đối nhanh. Tỷ trọng kim

ngạch xuất khẩu rau quả sang thị trờng này chiếm khoảng 18% trong tổng kim

ngạch xuất khẩu rau quả của Tổng công ty rau quả Việt Nam. Các thị trờng

xuất khẩu nông sản chính của ta trong khối EU là Hà Lan, Thụy Điển, Pháp,

Anh và Bỉ.

39



Khoá Luận Tốt Nghiệp



Lê Thị Thu Trang A2-CN9



Cho đến nay, một số nông sản và thực phẩm Việt Nam vẫn ch a áp dụng

các yêu cầu mang tính kỹ thuật cao nên cha thể xuất khẩu vào EU. Động vật và

thực phẩm từ động vật là một thí dụ khá điển hình. Theo qui định của EU, n ớc

xuất khẩu phải có kế hoạch và thiết bị đầy đủ để giám sát d lợng độc tố trong

nhóm hàng này, nhng Cơ quan chức năng của ta cha đáp ứng đợc yêu cầu trên.

Điều này xẩy ra đối với thịt động vật và mật ong.

3.4. Hàng thuỷ hải sản.

EU là một trong những thị trờng xuất khẩu thuỷ sản lớn nhất của Việt Nam

(với tỷ trọng hàng năm chiếm khoảng 15%). Mỗi năm, Việt Nam xuất khẩu sang

EU hàng ngàn tấn thuỷ sản trong đó chủ yếu là các loại tôm đông, mực, cá đông,

cá hộp, thịt tôm hỗn hợp và một số loại thuỷ sản khác nh nhuyễn thể hai mảnh

vỏ. Trớc năm 1997 Việt Nam có xuất khẩu sang EU loại hàng nhuyễn thể hai

mảnh vỏ với một khối lợng khá lớn do điều kiện biển Việt Nam thích hợp cho

loại nhuyễn thể sinh sống, tuy nhiên đến tháng 7/1997 EU đã xét lại điều kiện

nhập khẩu hàng nhuyễn thể vỏ hai mảnh và bổ sung các điều kiện vệ sinh môi tr ờng cao hơn và đã tạm đình nhập khẩu loại hàng này ở hàng loạt các quốc gia

trong đó có Việt Nam, điều này gây nên rất nhiều khó khăn cho ngành thuỷ sản

Việt Nam.

Bộ Thuỷ sản Việt Nam ngay lập tức đã có các biện pháp để giải quyết tình

hình khó khăn này, tạo mối quan hệ tốt với thị trờng EU . Cụ thể, 10/1999 Việt

Nam đợc EU chấp nhận đa vào danh sách I các nớc xuất khẩu thuỷ sản của EU ;

ngày 18/11/1999, EU đã chính thức công nhận Trung tâm kiểm tra chất lợng và

vệ sinh thuỷ sản Việt Nam (thuộc Bộ Thuỷ sản) là cơ quan kiểm soát điều kiện

an toàn vệ sinh thực phẩm trong sản xuất và tiêu thụ thuỷ sản của Việt Nam đủ

điều kiện để EU uỷ quyền kiểm soát hàng thuỷ sản vào EU , đồng thời EU cũng

đã đa hàng thuỷ sản Việt Nam vào danh sách u tiên loại I với đợt đầu có 18

doanh nghiệp đủ điều kiện xuất thuỷ sản thẳng vào EU mà không cần phải có

những thoả thuận song phơng với từng nớc trong Liên minh châu Âu nh khi Việt

Nam còn ở trong danh sách II trớc đây. Năm 2000 Việt Nam là một trong số ít

những nớc đợc phép xuất khẩu nhuyễn thể hai mảnh vỏ vào EU và đến tháng

40



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

×