1. Trang chủ >
  2. Thạc sĩ - Cao học >
  3. Kinh tế >

CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN TẠI DOANH NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 120 trang )


-2-



tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế- xã hội, tạo việc làm và nâng cao đời sống

cho mọi thành viên trong xã hội.

1.1.2 Những đặc điểm của hoạt động đầu tƣ phát triển

Có thể thấy rằng hoạt động đầu tư phát triển có những đặc điểm khác biệt với

các loại hình đầu tư khác như sau:

Thứ nhất: hoạt động đầu tư phát triển đòi hỏi một số vốn lớn và để nằm khê

đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư. Đây là chi phí khá lớn đánh đổi cho sự

đầu tư phát triển. Vì đầu tư phát triển thường gắn liền với việc xây dựng các công

trình kiến trúc, nhà xưởng, mua sắm máy móc, thiết bị và lắp đặt chúng để phục vụ

cho sản xuất hay hoạt động đào tạo nguồn nhân lực, nghiên cứu khoa học công nghệ

và ứng dụng chúng vào sản xuất…những hoạt động này thường đói hỏi số vốn đầu

tư lớn(Vốn đầu tư được hiểu là tiền và các nguồn lực khác như; các nguồn tài

nguyên và trí tuệ). Mặt khác, trong quá trình thực hiện đầu tư số vốn đầu tư đã bỏ ra

không phát huy tác dụng ngay mà phải sau khi kết thúc quá trình thực hiện đầu tư

bước vào giai đoạn vận hành, chủ đầu tư mới bắt đầu thu hồi được vốn đầu tư đã bỏ

ra ban đầu.

Thứ hai: Đầu tư phát triển mang tính lâu dài, các nguồn lực vật tư, tiền, lao

động cần được huy động lớn.

Thời gian từ lúc tiến hành đầu tư cho đến khi các thành quả đầu tư phát huy

tác dụng thường kéo dài nhiều tháng, năm và cần phải huy động một lượng rất lớn

tiền vốn, lao động và vật tư để thực hiện.

Thứ ba: Thời gian cần thiết để thực hiện một công cuộc đầu tư thường kéo

dài.

Quá trình vận hành các kết quả đầu tư cho đến khi thu hồi vốn hoặc cho đến

khi thanh lý tài sản do vốn đầu tư tạo ra cũng thường kéo dài trong nhiều năm nên

không tránh khỏi sự tác động mặt tích cực và tiêu cực của các yếu tố về tự nhiên, xã

hội, chính trị, kinh tế…



-3-



Các thành quả của hoạt động đâu tư phát triển có giá trị sử dụng lâu dài nhiều

năm, có khi hàng trăm hàng ngàn năm và thậm chí tồn tại vĩnh viễn. Điều này nói

lên giá trị lớn lao của các thành quả đầu tư phát triển. Những thành quả của hoạt

động đầu tư phát triển là các công trình xây dựng sẽ hoạt động ở ngay nơi nó được

tạo dựng nên. Do đó, các điều kiện về địa lý địa hình tại đó ảnh hưởng đến quá trình

thực hiện đầu tư cũng như tác dụng sau này của các kết quả đầu tư.

Thứ tư: Đầu tư phát triển là hoạt động mang tính rủi ro.

Hoạt động đầu tư phát triển một mặt phải sử dụng một số vốn lớn ở hiện tại,

mặt khác lại phải thực hiện hoàn vốn và hi vọng đem lại lợi ích trong một thời gian

tương đối dài. Chính vì vậy, hoạt động này chịu tác động của rất nhiều yếu tố bất

định thay đổi theo thời gian, không gian mà chủ đầu tư không thể biết trước được

một cách chắc chắn, tác động của các yếu tố này có thể có lợi hoặc bất lợi đối với

chủ đầu tư. Do đó, để tránh những yếu tố bất lợi có thể tác động đến công cuộc đầu

tư đòi hỏi chủ đầu tư phải tính toán kỹ lưỡng trước khi tiến hành công cuộc đầu tư

và có các phương án dự phòng nếu xảy ra những tình huống không thuận lợi để có

được một phương án đầu tư an toàn và có hiệu quả vững chắc. Tức là phải làm tốt

công tác chuẩn bị đầu tư và sự chuẩn bị này được thể hiện trong việc soạn thảo các

dự án đầu tư đảm bảo chất lượng tốt.

1.1.3 Phân loại đầu tƣ phát triển doanh nghiệp

Hoạt động đầu tư có nhiều tiêu thức khác nhau, mỗi tiêu thức phân loại đáp

ứng nhu cầu quản lý và nghiên cứu kinh tế, thường được sử dụng là:

Theo bản chất của đối tƣờng đầu tƣ, hoạt động đầu tư bao gồm đầu tư cho

các đối tượng vật chất (đầu tư tài sản vật chất hoặc tài sản thực như nhà xưởng, máy

móc, thiết bị ...) và đầu tư cho các đối tượng phi vật chất (đầu tư tài sản trí tuệ và

nguồn nhân lực như đào tạo, nghiên cứu khoa học, y tế, viễn thông…).

Trong các hoạt động trên đây, đầu tư đối tượng vật chất là điều kiện tiên

quyết, cơ bản làm tăng tiềm lực của doanh nghiệp, đầu tư tài chính là điều kiện quan

trọng để thu hút nguồn vốn từ ngoài doanh nghiệp cho đầu tư các đối tương vật



-4-



chất, còn đầu tư tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực là điều kiện tất yếu đảm bảo đầu tư

cho các đối tượng vật chất tiến hành thuận lợi, đạt hiệu quả kinh tế.

Theo thời gian thực hiện và phát huy tác dụng để thu hồi đủ vốn đã bỏ ra

của các kết quả đầu tƣ, có thể phân chia hoạt động đầu tư thành đầu tư ngắn hạn

(như đầu tư thương mại) và đầu tư dài hạn (các lĩnh vực đầu tư sản xuất, đầu tư phát

triển khoa học kỹ thuật, xây dựng cơ sở hạ tầng…).

Theo quan hệ quản lý của chủ đầu tƣ, hoạt động đầu tư có thể phân chia

thành đầu tư gián tiếp và đầu tư trực tiếp.

Đầu tƣ gián tiếp: Trong đó người bỏ vốn không trực tiếp tham gia điều hành

quản lý quá trình thực hiện và vận hành các kết quả đầu tư. Đó là việc các chính phủ

thông qua các chương trình tài trợ không hoàn lại hoặc có hoàn lại với lãi suất thấp

cho các chính phủ của các nước khác vay để phát triển kinh tế xã hội; là việc các cá

nhân, các tổ chức mua các chứng chỉ có giá như cổ phiếu, trái phiếu…để hưởng lợi.

Đầu tƣ trực tiếp: Trong đó người bỏ vốn trực tiếp tham gia quản lý, điều

hành quá trình thực hiện và vận hành kết quả đầu tư. Đầu tư trực tiếp lại được phân

thành hai loại đầu tư dịch chuyển và đầu tư phát triển. Đầu tư dịch chuyển là người

có tiền mua lại một số cổ phần đủ lớn để nắm quyền chi phối hoạt động của doanh

nghiệp. Trong trường hợp này việc đầu tư không làm gia tăng tài sản của doanh

nghiệp, mà chỉ thay đổi quyền sở hữu các cổ phần của doanh nghiệp. Đầu tư phát

triển là loại bỏ vốn đầu tư để tạo nên những năng lực sản xuất phục vụ mới cả về

lượng và chất, là loại đầu tư tái sản xuất mở rộng cung cấp việc làm cho người lao

động, là tiền đề để thực hiện đầu tư tài chính và đầu tư dịch chuyển.

1.2 NỘI DUNG ĐẦU TƢ PHÁT TRIỂN TRONG DOANH NGHIỆP VIỄN

THÔNG

Hoạt động đầu tư của doanh nghiệp viễn thông có nhiều điểm khác biệt so với

các doanh nghiệp kinh doanh khác được phân loại theo nhiều tiêu chí khác nhau

nhằm đạt được mục tiêu chung của doanh nghiệp. Chiến lược chất lượng dịch vụ là

một trong những chiến lược hiệu quả, đảm bảo vứng chắc cho sự thành công của



-5-



doanh nghiệp trong kinh doanh. Đây là một trong những nội dung quan trọng của

hoạt động đầu tư của doanh nghiệp.

1.2.1 Đầu tƣ máy móc thiết bị, công nghệ

Với các khoản mục đầu tư như: mua sắm máy móc thiết bị, công nghệ mới có

trình độ kỹ thuật cao hơn, tiên tiến hơn; nâng cấp hiện đại hóa những máy móc,

thiết bị hiện có. Hoạt động đầu tư cho máy móc, thiết bị, công nghệ làm tăng khả

năng máy móc thiết bị, nâng cao trình độ công nghệ của doanh nghiệp. Việc đầu tư

mua sắm máy móc thiết bị hiện đại hơn những thiết bị hiện có và hiện đại hơn mức

bình quân hiện có của ngành mới có tác dụng thiết thực đối với việc nâng cao mức

chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp. Hoặc doang nghiệp có thể cải tiến công

nghệ của mình trên cơ sở tận dụng những máy móc thiết bị hiện có, chỉ cần đầu tư

đổi mới hiện đại hóa ở những khâu quan trọng trong quy trình sản xuất sản phẩm

cũng là một giải pháp quan trọng nâng cao mức chất lượng sản phẩm tạo ra. Thông

thường công nghệ hiện đại và tiên tiến hơn đòi hỏi phần cứng của nó phải là những

máy móc thiết bị hiện đại hơn và phần mềm cũng phải đổi mới tương ứng. Tức là,

khi nâng cao trình độ công nghệ của mình doanh nghiệp thường phải mua sắm

những máy móc thiết bị mới tiên tiến, hiện đại hơn.

Tuy nhiên, khi đầu tư mua sắm máy móc thiết bị doanh nghiệp không chỉ căn

cứ duy nhất vào mức độ tiến triển của máy móc thiết bị ấy mà còn phải căn cứ vào

phần mềm của công nghệ đi kèm; trình độ cần thiết của máy móc vận hành, điều

kiện sử dụng, điều kiện bảo dưỡng và thay thế khi có những chi tiết bộ phận hỏng,

khả năng tài chính của doanh nghiệp. trong nhiều trường hợp, các doanh nghiệp chỉ

chú trọng mua sắm những máy móc thiết bị tiên tiến hiện đại mà không căn cứ vào

trình độ nguồn nhân lực và các điều kiện sử dụng khác dẫn đến lãng phí, kém hiệu

quả và không đạt được mức chất lượng như mong muốn. Chính vì vậy, bên cạnh

phần cứng là những máy móc thiết bị hiện đại thì phần mềm là: con người, phương

pháp, quy trình vận hành và các điều kiện khác…cũng phải tương xứng mới có thể



-6-



đảm bảo nâng cao trình độ công nghệ hiện có của doanh nghiệp và nâng cao chất

lượng sản phẩm.

Với một dự án đầu tư mua sắm máy móc thiết bị của nước ngoài các doanh

nghiệp phải đặc biệt quan tâm đến vấn đề chuyển giao công nghệ. Bởi phần chuyển

giao công nghệ đi kèm chất lượng sản phẩm. Có những tính nẵng sản phẩm chỉ có

thể được tạo ra khi áp dụng đúng phương pháp, quy trình sản xuất riêng biệt.

Thông thường, mọi người cho rằng đầu tư vào máy móc, thiết bị hiện đại có

thể tạo ra sản phẩm với chất lượng cao hơn nhưng giá thành cũng tăng lên do chí

phí khấu hao cho máy móc, thiết bị trong giá thành sản phẩm tăng nhưng thực tế khi

đâu tư vào máy móc thiết bị, công nghệ hiện đại sẽ giúp doanh nghiệp nâng cao

mức sản lượng sản xuất ra, tiết kiệm được chi phí cho lao động số điều này đồng

nghĩa với tăng năng suất lao động. Do đó, giá thành sản phẩm trong nhiều trường

hợp không những không tăng mà còn giảm. Bởi vậy, đầu tư cho đổi mới máy móc,

thiết bị,công nghệ có tác dụng đối với việc nâng cao chất lượng sản phẩm trên cả

hai mặt: cả về chỉ tiêu kỹ thuật của sản phẩm và cả về mức độ thỏa mãn của người

tiêu dùng.

1.2.2 Đầu tƣ hoạt động nghiên cứu thị trƣờng

Trước khi tiến hành hoạt động kinh doanh bất kỳ loại sản phẩm, dịch vụ nào

các doanh nghiệp đều phải căn cứ vào đặc điểm, tính chất của nhu cầu trên thị

trường; tình hình các đối thủ cạnh tranh để xác định sản lượng và mức chất lượng

mà sản phẩm của Doanh nghiệp cần đạt được để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng một

cách tối ưu nhất. Bởi vậy, nghiên cứu thị trường là khâu quan trọng hàng đầu, nó

quyết định rất lớn đến khả năng thành công của doanh nghiệp trong điều kiện kinh

doanh hiện nay. Đầu tư cho nghiên cứu thị trường như: tổ chức các cuộc khảo sát,

điều tra về số lượng, xu hướng tiêu dùng, những yêu cầu về chất lượng của khách

hàng về loại sản phẩm mà doanh nghiệp dự định sẽ tung ra thị trường, mức chi tiêu

của khách hàng cho loại sản phẩm đó…dự báo mức cung trên thị trường về loại sản

phẩm của mình, tiềm lực của các đối thủ cạnh tranh cùng với những chiến lược mà



-7-



họ sẽ thực hiện trong giai đoạn tới giúp doanh nghiệp nắm bắt được những thông tin

đầy đủ về tình hình cung cầu trên thị trường, từ đó dễ dàng xác định mức chất lượng

cần phải đạt được và mức sản lượng sản xuất. Có như vậy sản phẩm mà doanh

nghiệp sản xuất mới có thể được người tiêu dùng chấp nhận và ưa thích.

1.2.3 Đầu tƣ nghiên cứu và đa dạng dịch vụ

Sau khi xác định được đặc điểm, tính chất nhu cầu của người tiêu dùng về một

loại sản phẩm hoặc dịch vụ nào đó, trên cơ sở đó bước tiếp theo của doanh nghiệp

là xác định những thuộc tính cho sản phẩm dự tính sẽ tung ra thị trường: trong bước

này doanh nghiệp phải thiết kế kiểu dáng, mẫu mã, xác định các chỉ tiêu kinh tế- kỹ

thuật cần phải đạt được cho sản phẩm; sản phẩm viễn thông thể hiện dưới dạng dịch

vụ. Viettel biết rằng mối khách hàng lại luôn có nhu cầu, sở thích khác nhau, do đó

nghiên cứu để hiểu biết đặc điểm của khách hàng đóng một vai trò rất quan trọng

đối với người kinh doanh dịch vụ viễn thông.

Do đó, sản phẩm của viễn thông không phải là vật chất cụ thể tồn tại ngoài quá

trình sản xuất nên sản phẩm bưu chính không thể đưa vào cất giữ lưu kho, không

lưu trữ, không chấp nhận phế phẩm hay chính phẩm vì không thể loại trừ sản phẩm

xấu nếu như có một lỗi nào đó trong quá trình sản xuất

1.2.4 Đầu tƣ vật tƣ phụ lắp đặt công trình

Chất lượng vật tư phụ lắp đặt công trình là chi tiết nhỏ nhưng ảnh hưởng của

nó đến toàn bộ công trình là rất lớn, tính đồng bộ trong vật tư, phụ kiện lắp đặt đòi

hỏi rất cao, phát huy tác dụng tốt nhất cho mọi công trình, đòi hỏi đúng quy trình

hợp chuẩn vật tư trong ngành viễn thông quy định của Tổng cục bưu điện năm

2000. Hàng năm các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông đều dành những khoản vốn

nhất định cho đấu tư vật tư phụ để lắp đặt mới, sửa chữa thay thế các công trình,

trước khi đưa vào lắp đặt đều phải có chứng nhận hợp chuẩn của bộ Bưu chính viễn

thông hoặc Tổng cục bưu điện.



-8-



1.2.5 Đầu tƣ phát triển nguồn nhân lực

Hoạt động này bao gồm: đầu tư nâng cao hiệu quả công tác tuyển dụng lao

động trong doanh nghiệp; đầu tư cho việc đào tạo và đào tạo lại, bồi dưỡng và nâng

cao trình độ tay nghề cho công nhân, trình độ chuyên môn, quản lý cho các cán bộ

kỹ thuật và cán bộ quản lý; nâng cao thu nhập, cải thiện điều kiện làm việc cho

người lao động trong doanh nghiệp, động viên khuyến khích người lao động trong

doanh nghiệp phát huy khả năng sáng tạo, nâng cao trình độ tay nghề qua chế độ

khen thưởng và trợ cấp hợp lý…

Đầu tư cho công tác đào tạo và đào tạo lại đóng vai trò quan trọng trong việc

phát triển và nâng cao trình độ nguồn nhân lực của doanh nghiệp. Khi yêu cầu nâng

cao chất lượng sản phẩm đặt ra một cách cấp thiết và liên tục cho các doanh nghiệp

thì nguồn nhân lực trong doanh nghiệp cũng phải thường xuyên được bồi dưỡng,

nâng cao trình độ tay nghề, cập nhật những kiến thức mới để có thể vận hành những

quy trình sản xuất với những máy móc thiết bị, công nghệ tiên tiến hiện đại hơn.

Hay một bộ phận người lao động phải chuyển sang bộ phận sản xuất, thì việc đào

tạo lại để có thể thực hiện được những nhiệm vụ mới là yêu cầu tất yếu. Bên cạnh

đó, các cán bộ quản lý và cán bộ kỹ thuật là lực lượng đi đầu trong việc thực hiện kế

hoạch nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ của doanh nghiệp cũng phải thường

xuyên được bồi dưỡng và nâng cao trình độ chuyên môn. Thông qua việc đầu tư

xây dựng các cơ sở đào tạo chuyên nghiệp, mở các lớp bồi dưỡng thường xuyên, cử

cán bộ đi học…là những hình thức phổ biến của hoạt động này.

Nâng cao thu nhập và cải thiện điều kiện làm việc cho người lao động, có chế

độ động viên khuyến khích hợp lý đồng nghĩa với việc đảm bảo thu nhập, giúp cho

người lao động yên tâm công tác, động viên khuyến khích họ phát huy khả năng

sáng tạo, không ngừng nâng cao trình độ tay nghề. Điều này tác động rất lớn đến

năng suất và chất lượng sản phẩm. Khi trình độ tay nghề được nâng cao tỷ lệ lối

không đạt kỹ thuật giảm xuống vừa đảm bảo chất lượng dịch vụ vừa tiết kiệm được

chi phí cho doanh nghiệp.



-9-



1.2.6 Đầu tƣ hoàn thiện hệ thống quản lý chất lƣợng

Đề tài đề cập đến chất lượng dịch vụ viễn thông nên có khác so với chất lượng

hàng hóa(sản phẩm hữu hình) ở chỗ người sử dụng dịch vụ viễn thông về mặt

nguyên tắc không thể từ chối việc tiêu dùng dịch vụ không đạt chất lượng vì các

dịch vụ viễn thông được tiêu thụ ngay trong quá trình sản xuất chúng. Thông tin

được truyền đi với sự sai lệch về nội dung hoặc với sự chậm trễ đáng kể, không

những làm mất đi ý nghĩa của nó mà còn mang lại thiệt hại đáng kể cho người tiêu

dùng, vì vậy công tác quản lý chất lượng là nhiệm vụ mang tính chiến lược của bất

kỳ doanh nghiệp viễn thông nào trong thời kỳ hiên nay.

Chất lượng sản phẩm là một phạm trù kinh tế phức tạp. Có rất nhiều định

nghĩa về chất lượng sản phẩm. Nhìn chung chất lượng sản phẩm có thể hiểu là tổng

hợp các thuộc tính của sản phẩm có khả năng thỏa mãn những nhu cầu phù hợp với

công dụng của sản phẩm, hay chất lượng sản phẩm là sự phù hợp với yêu cầu của

khách hàng, như vậy chất lượng sản phẩm được xác định bởi khách hàng.

Chất lượng hoạt động viễn thông là đặc trưng tổng quát của hoạt động doanh

nghiệp, tổ chức viễn thông và của những người lao động theo hàng loạt các tham số

về kỹ thuật, sản xuất khai thác, về kinh tế, xã hội, về tâm lý đạo đức. Chất lượng

hoạt động viễn thông phụ thuộc vào một tập hợp các yếu tố bên ngoài và bên trong.

Nó được xác định bằng các điều kiện kinh tế- tài chính của ngành viễn thông, bằng

trình độ kỹ thuật của các phương tiện thông tin, bằng việc tổ chức sản xuất, bằng

trạng thái mạng lưới kết nối các điểm thông tin, bằng kỹ thuật khai thác, thiết bị và

công trình viễn thông, bằng việc đạt được các tiến bộ khoa học kỹ thuật trong các

công nghệ và hệ thống truyền thông, bằng hiệu quả sử dụng các nguồn lực, nhân

lực, vật lực và tài chính, bằng yêu cầu của người tiêu dùng đối với số lượng và chất

lượng dịch vụ và mức độ thỏa mãn các yêu cầu đó. Chất lượng hoạt động viễn

thông được đặc trưng bằng các chỉ tiêu đánh giá các chức năng của sản phẩm, tạo

điều kiện thuận lợi cho việc thỏa mãn các nhu cầu của người tiêu dùng về mức độ

nhanh chóng, chính xác của việc truyền đưa các thông tin, cũng như các chỉ tiêu



- 10 -



phản ánh quá trình phục vụ người tiêu dùng như mức tiếp cận, sự tiện lợi của việc

sử dụng các phương tiện thông tin, mức độ đáp ứng nhu cầu về dịch vụ, văn hóa và

thái độ phục vụ.

Chất lượng dịch vụ viễn thông được thể hiện ở các chỉ tiêu như tốc độ truyền

thông tin, độ chính xác của việc truyền đưa, độ khôi phục tin tức và hoạt động ổn

định của các phương tiện thông tin.

Mức độ phổ cập các phương tiện thông tin và mức độ thỏa mãn các nhu cầu

của toàn xã hội về các dịch vụ thông tin.

Chất lượng phục vụ là văn hóa và thái độ phục vụ của điện thoại viên, giao

dịch viên…Đối với khách hàng chất lượng dịch vụ và chất lượng phục vụ là đồng

nhất. Với người tiêu mức độ thỏa mãn rất quan trọng, đó là tính sẵn sàng và khả

năng các doanh nghiệp cung cấp các dịch vụ cho khách hàng vào đúng thời điểm, ở

nơi tiện lợi và với chất lượng cao.

Các chỉ tiêu chất lượng như: Chỉ tiêu an toàn, chính xác(đảm bảo 100%)

Đối với điện thoại cố định: Độ chuẩn giọng nói, giọng nói trung thực, người

nghe phải nhận đúng giọng người quen, không bỏ trực tổng đài, không bỏ sót yêu

cầu cuộc điện đàm, không ghi đăng ký hoặc chuyển sai đăng ký, không bị nghe

trộm.

Đối với điện thoại di động: Không có tiếng vọng, Âm lượng vừa nghe, không

có tiếng ù, rít lạo xạo…, bảo mật các thông tin về thuê bao

Đối với dịch vụ Internet: Đường truyền cao, tốc độ truyền dữ liệu lớn, không

bị lỗi hệ thống đường truyền, ngắt mạng giữa chừng, độ khả dụng của dịch vụ trên

99,5%, tỉ lệ khiếu nại của khách hàng về dịch vụ là ≤ 0,2%......

1.2.7 Đầu tƣ tiếp thị và xúc tiến tiêu thụ sản phẩm

Các dịch vụ khách hàng như: vận chuyển, lắp đặt, hướng dẫn sử dụng dịch vụ

bảo hành, bảo dưỡng sản phẩm…ngày càng đóng vai trò quan trọng làm tăng mức

tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp. Với dịch vụ này khách hàng sẽ cảm



- 11 -



thấy an tâm và thuận tiện hơn khi sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp. Đầu tư cho

bổ sung và hoàn thiện những loại hình dịch vụ này có tác dụng rất lớn đến việc làm

tăng mức độ thỏa mãn của khách hàng khi tiêu dùng sản phẩm hay nói một cách

khác là nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm.

Bằng các hình thức đầu tư cho hoạt động quảng cáo, tiếp thị sản phẩm sẽ tác

động tích cực trong việc giới thiệu rộng rãi sản phẩm đối với người tiêu dùng, từ đó

giúp họ hiểu biết thêm về sản phẩm của doanh nghiệp và có cơ hội lựa chọn sản

phẩm của doanh nghiệp phù hợp với nhu cầu của mình. Hoạt động này không chỉ có

lợi cho doanh nghiệp mà có lợi đối với cả người tiêu dùng.

1.2.8 Đầu tƣ xây dựng và phát triển thƣơng hiệu sản phẩm

Ngày nay, thương hiệu trở thành tài sản vô hình rất có giá trị đối với doanh

nghiệp. Nó thể hiện uy tín nhãn hiệu sản phẩm, niềm tin của khách hàng đối với sản

phẩm của doanh nghiệp. Một khi đã tạo dựng được thương hiệu mạnh cho mình thì

sản phẩm của doanh nghiệp mặc nhiên sẽ được người tiêu dùng tin cậy và đánh giá

cao. Để không ngừng phát triển thương hiệu sản phẩm của mình doanh nghiệp cần

phải đăng ký nhãn hiệu và sản phẩm của doanh nghiệp cần phải được công nhận bởi

các tổ chức có uy tín về việc bảo đảm các chỉ tiêu chất lượng theo tiêu chuẩn quốc

gia hoặc quốc tế, đồng thời doanh nghiệp phải không ngừng quảng bá thương hiệu

của mình qua các hội chợ hay triển lãm cả ở thị trường trong nước và ngoài nước.

Như vậy, hoạt động đầu tư phát triển doanh nghiệp bao gồm rất nhiều nội

dung, mỗi nội dung đều có vai trò và tác động khác nhau đến thành công của doanh

nghiệp. Điều này đòi hỏi doanh nghiệp cần phải thực hiện một cách đầy đủ và hợp

lý những nội dung trên mới đảm bảo hiệu quả của hoạt động kinh doanh này, thực

hiện tốt tăng trưởng kinh tế của doanh nghiệp.



- 12 -



1.3 KẾT QUẢ VÀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƢ PHÁT TRIỂN

TRONG DOANH NGHIỆP

1.3.1 Kết quả đầu tƣ phát triển

Khối lượng vốn đầu tư thực hiện là tổng số tiền đã chi để tiến hành các hoạt

động của các công cuộc đầu tư bao gồm các chi phí cho công tác xây lắp, chi phí

cho công tác mua sắm thiết bị và các chi phí khác theo quy định của thiết kế dự toán

và được ghi trong dự án đầu tư được duyệt. Khối lượng vốn đầu tư thực hiện được

tính như sau:

Đối với công tác mua sắm máy móc thiết bị: Khối lượng vốn đầu tư thực

hiện được tính theo công thức sau:



IvXL =  QiPi  VAT

Trong đó:

Qi : Trọng lượng, số lượng từng bộ phận, cái, nhòm thiết bị thứ i

Pi : Giá tính cho 1 tấn hoặc cho từng bộ phận, cái, nhóm thiết bị thứ i

VAT : Tổng số thuế giá trị gia tăng

Đối với các chi phí khác (Ivk): được tính vào vốn đầu tư thực hiện theo

phương pháp thực thanh, thực chi, được chia làm 2 nhóm: Nhòm tính theo định mức

xác định tỉ lệ % (chi phí thiết kế, chi phí ban quản lý dự án, chi phí lệ phí thẩm

định…) và nhóm chi phí khác xác định bằng cách lập dự toán (chi phí đào tạo, chi

phí thuê chuyên gia…)

















IvK =   Ci   Cj   VAT





Trong đó:

Ci : Giá trị của khoản mục chi phí khác thứ i thuộc nhóm chi phí, lệ



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

×