Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 120 trang )
-5-
doanh nghiệp trong kinh doanh. Đây là một trong những nội dung quan trọng của
hoạt động đầu tư của doanh nghiệp.
1.2.1 Đầu tƣ máy móc thiết bị, công nghệ
Với các khoản mục đầu tư như: mua sắm máy móc thiết bị, công nghệ mới có
trình độ kỹ thuật cao hơn, tiên tiến hơn; nâng cấp hiện đại hóa những máy móc,
thiết bị hiện có. Hoạt động đầu tư cho máy móc, thiết bị, công nghệ làm tăng khả
năng máy móc thiết bị, nâng cao trình độ công nghệ của doanh nghiệp. Việc đầu tư
mua sắm máy móc thiết bị hiện đại hơn những thiết bị hiện có và hiện đại hơn mức
bình quân hiện có của ngành mới có tác dụng thiết thực đối với việc nâng cao mức
chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp. Hoặc doang nghiệp có thể cải tiến công
nghệ của mình trên cơ sở tận dụng những máy móc thiết bị hiện có, chỉ cần đầu tư
đổi mới hiện đại hóa ở những khâu quan trọng trong quy trình sản xuất sản phẩm
cũng là một giải pháp quan trọng nâng cao mức chất lượng sản phẩm tạo ra. Thông
thường công nghệ hiện đại và tiên tiến hơn đòi hỏi phần cứng của nó phải là những
máy móc thiết bị hiện đại hơn và phần mềm cũng phải đổi mới tương ứng. Tức là,
khi nâng cao trình độ công nghệ của mình doanh nghiệp thường phải mua sắm
những máy móc thiết bị mới tiên tiến, hiện đại hơn.
Tuy nhiên, khi đầu tư mua sắm máy móc thiết bị doanh nghiệp không chỉ căn
cứ duy nhất vào mức độ tiến triển của máy móc thiết bị ấy mà còn phải căn cứ vào
phần mềm của công nghệ đi kèm; trình độ cần thiết của máy móc vận hành, điều
kiện sử dụng, điều kiện bảo dưỡng và thay thế khi có những chi tiết bộ phận hỏng,
khả năng tài chính của doanh nghiệp. trong nhiều trường hợp, các doanh nghiệp chỉ
chú trọng mua sắm những máy móc thiết bị tiên tiến hiện đại mà không căn cứ vào
trình độ nguồn nhân lực và các điều kiện sử dụng khác dẫn đến lãng phí, kém hiệu
quả và không đạt được mức chất lượng như mong muốn. Chính vì vậy, bên cạnh
phần cứng là những máy móc thiết bị hiện đại thì phần mềm là: con người, phương
pháp, quy trình vận hành và các điều kiện khác…cũng phải tương xứng mới có thể
-6-
đảm bảo nâng cao trình độ công nghệ hiện có của doanh nghiệp và nâng cao chất
lượng sản phẩm.
Với một dự án đầu tư mua sắm máy móc thiết bị của nước ngoài các doanh
nghiệp phải đặc biệt quan tâm đến vấn đề chuyển giao công nghệ. Bởi phần chuyển
giao công nghệ đi kèm chất lượng sản phẩm. Có những tính nẵng sản phẩm chỉ có
thể được tạo ra khi áp dụng đúng phương pháp, quy trình sản xuất riêng biệt.
Thông thường, mọi người cho rằng đầu tư vào máy móc, thiết bị hiện đại có
thể tạo ra sản phẩm với chất lượng cao hơn nhưng giá thành cũng tăng lên do chí
phí khấu hao cho máy móc, thiết bị trong giá thành sản phẩm tăng nhưng thực tế khi
đâu tư vào máy móc thiết bị, công nghệ hiện đại sẽ giúp doanh nghiệp nâng cao
mức sản lượng sản xuất ra, tiết kiệm được chi phí cho lao động số điều này đồng
nghĩa với tăng năng suất lao động. Do đó, giá thành sản phẩm trong nhiều trường
hợp không những không tăng mà còn giảm. Bởi vậy, đầu tư cho đổi mới máy móc,
thiết bị,công nghệ có tác dụng đối với việc nâng cao chất lượng sản phẩm trên cả
hai mặt: cả về chỉ tiêu kỹ thuật của sản phẩm và cả về mức độ thỏa mãn của người
tiêu dùng.
1.2.2 Đầu tƣ hoạt động nghiên cứu thị trƣờng
Trước khi tiến hành hoạt động kinh doanh bất kỳ loại sản phẩm, dịch vụ nào
các doanh nghiệp đều phải căn cứ vào đặc điểm, tính chất của nhu cầu trên thị
trường; tình hình các đối thủ cạnh tranh để xác định sản lượng và mức chất lượng
mà sản phẩm của Doanh nghiệp cần đạt được để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng một
cách tối ưu nhất. Bởi vậy, nghiên cứu thị trường là khâu quan trọng hàng đầu, nó
quyết định rất lớn đến khả năng thành công của doanh nghiệp trong điều kiện kinh
doanh hiện nay. Đầu tư cho nghiên cứu thị trường như: tổ chức các cuộc khảo sát,
điều tra về số lượng, xu hướng tiêu dùng, những yêu cầu về chất lượng của khách
hàng về loại sản phẩm mà doanh nghiệp dự định sẽ tung ra thị trường, mức chi tiêu
của khách hàng cho loại sản phẩm đó…dự báo mức cung trên thị trường về loại sản
phẩm của mình, tiềm lực của các đối thủ cạnh tranh cùng với những chiến lược mà
-7-
họ sẽ thực hiện trong giai đoạn tới giúp doanh nghiệp nắm bắt được những thông tin
đầy đủ về tình hình cung cầu trên thị trường, từ đó dễ dàng xác định mức chất lượng
cần phải đạt được và mức sản lượng sản xuất. Có như vậy sản phẩm mà doanh
nghiệp sản xuất mới có thể được người tiêu dùng chấp nhận và ưa thích.
1.2.3 Đầu tƣ nghiên cứu và đa dạng dịch vụ
Sau khi xác định được đặc điểm, tính chất nhu cầu của người tiêu dùng về một
loại sản phẩm hoặc dịch vụ nào đó, trên cơ sở đó bước tiếp theo của doanh nghiệp
là xác định những thuộc tính cho sản phẩm dự tính sẽ tung ra thị trường: trong bước
này doanh nghiệp phải thiết kế kiểu dáng, mẫu mã, xác định các chỉ tiêu kinh tế- kỹ
thuật cần phải đạt được cho sản phẩm; sản phẩm viễn thông thể hiện dưới dạng dịch
vụ. Viettel biết rằng mối khách hàng lại luôn có nhu cầu, sở thích khác nhau, do đó
nghiên cứu để hiểu biết đặc điểm của khách hàng đóng một vai trò rất quan trọng
đối với người kinh doanh dịch vụ viễn thông.
Do đó, sản phẩm của viễn thông không phải là vật chất cụ thể tồn tại ngoài quá
trình sản xuất nên sản phẩm bưu chính không thể đưa vào cất giữ lưu kho, không
lưu trữ, không chấp nhận phế phẩm hay chính phẩm vì không thể loại trừ sản phẩm
xấu nếu như có một lỗi nào đó trong quá trình sản xuất
1.2.4 Đầu tƣ vật tƣ phụ lắp đặt công trình
Chất lượng vật tư phụ lắp đặt công trình là chi tiết nhỏ nhưng ảnh hưởng của
nó đến toàn bộ công trình là rất lớn, tính đồng bộ trong vật tư, phụ kiện lắp đặt đòi
hỏi rất cao, phát huy tác dụng tốt nhất cho mọi công trình, đòi hỏi đúng quy trình
hợp chuẩn vật tư trong ngành viễn thông quy định của Tổng cục bưu điện năm
2000. Hàng năm các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông đều dành những khoản vốn
nhất định cho đấu tư vật tư phụ để lắp đặt mới, sửa chữa thay thế các công trình,
trước khi đưa vào lắp đặt đều phải có chứng nhận hợp chuẩn của bộ Bưu chính viễn
thông hoặc Tổng cục bưu điện.
-8-
1.2.5 Đầu tƣ phát triển nguồn nhân lực
Hoạt động này bao gồm: đầu tư nâng cao hiệu quả công tác tuyển dụng lao
động trong doanh nghiệp; đầu tư cho việc đào tạo và đào tạo lại, bồi dưỡng và nâng
cao trình độ tay nghề cho công nhân, trình độ chuyên môn, quản lý cho các cán bộ
kỹ thuật và cán bộ quản lý; nâng cao thu nhập, cải thiện điều kiện làm việc cho
người lao động trong doanh nghiệp, động viên khuyến khích người lao động trong
doanh nghiệp phát huy khả năng sáng tạo, nâng cao trình độ tay nghề qua chế độ
khen thưởng và trợ cấp hợp lý…
Đầu tư cho công tác đào tạo và đào tạo lại đóng vai trò quan trọng trong việc
phát triển và nâng cao trình độ nguồn nhân lực của doanh nghiệp. Khi yêu cầu nâng
cao chất lượng sản phẩm đặt ra một cách cấp thiết và liên tục cho các doanh nghiệp
thì nguồn nhân lực trong doanh nghiệp cũng phải thường xuyên được bồi dưỡng,
nâng cao trình độ tay nghề, cập nhật những kiến thức mới để có thể vận hành những
quy trình sản xuất với những máy móc thiết bị, công nghệ tiên tiến hiện đại hơn.
Hay một bộ phận người lao động phải chuyển sang bộ phận sản xuất, thì việc đào
tạo lại để có thể thực hiện được những nhiệm vụ mới là yêu cầu tất yếu. Bên cạnh
đó, các cán bộ quản lý và cán bộ kỹ thuật là lực lượng đi đầu trong việc thực hiện kế
hoạch nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ của doanh nghiệp cũng phải thường
xuyên được bồi dưỡng và nâng cao trình độ chuyên môn. Thông qua việc đầu tư
xây dựng các cơ sở đào tạo chuyên nghiệp, mở các lớp bồi dưỡng thường xuyên, cử
cán bộ đi học…là những hình thức phổ biến của hoạt động này.
Nâng cao thu nhập và cải thiện điều kiện làm việc cho người lao động, có chế
độ động viên khuyến khích hợp lý đồng nghĩa với việc đảm bảo thu nhập, giúp cho
người lao động yên tâm công tác, động viên khuyến khích họ phát huy khả năng
sáng tạo, không ngừng nâng cao trình độ tay nghề. Điều này tác động rất lớn đến
năng suất và chất lượng sản phẩm. Khi trình độ tay nghề được nâng cao tỷ lệ lối
không đạt kỹ thuật giảm xuống vừa đảm bảo chất lượng dịch vụ vừa tiết kiệm được
chi phí cho doanh nghiệp.
-9-
1.2.6 Đầu tƣ hoàn thiện hệ thống quản lý chất lƣợng
Đề tài đề cập đến chất lượng dịch vụ viễn thông nên có khác so với chất lượng
hàng hóa(sản phẩm hữu hình) ở chỗ người sử dụng dịch vụ viễn thông về mặt
nguyên tắc không thể từ chối việc tiêu dùng dịch vụ không đạt chất lượng vì các
dịch vụ viễn thông được tiêu thụ ngay trong quá trình sản xuất chúng. Thông tin
được truyền đi với sự sai lệch về nội dung hoặc với sự chậm trễ đáng kể, không
những làm mất đi ý nghĩa của nó mà còn mang lại thiệt hại đáng kể cho người tiêu
dùng, vì vậy công tác quản lý chất lượng là nhiệm vụ mang tính chiến lược của bất
kỳ doanh nghiệp viễn thông nào trong thời kỳ hiên nay.
Chất lượng sản phẩm là một phạm trù kinh tế phức tạp. Có rất nhiều định
nghĩa về chất lượng sản phẩm. Nhìn chung chất lượng sản phẩm có thể hiểu là tổng
hợp các thuộc tính của sản phẩm có khả năng thỏa mãn những nhu cầu phù hợp với
công dụng của sản phẩm, hay chất lượng sản phẩm là sự phù hợp với yêu cầu của
khách hàng, như vậy chất lượng sản phẩm được xác định bởi khách hàng.
Chất lượng hoạt động viễn thông là đặc trưng tổng quát của hoạt động doanh
nghiệp, tổ chức viễn thông và của những người lao động theo hàng loạt các tham số
về kỹ thuật, sản xuất khai thác, về kinh tế, xã hội, về tâm lý đạo đức. Chất lượng
hoạt động viễn thông phụ thuộc vào một tập hợp các yếu tố bên ngoài và bên trong.
Nó được xác định bằng các điều kiện kinh tế- tài chính của ngành viễn thông, bằng
trình độ kỹ thuật của các phương tiện thông tin, bằng việc tổ chức sản xuất, bằng
trạng thái mạng lưới kết nối các điểm thông tin, bằng kỹ thuật khai thác, thiết bị và
công trình viễn thông, bằng việc đạt được các tiến bộ khoa học kỹ thuật trong các
công nghệ và hệ thống truyền thông, bằng hiệu quả sử dụng các nguồn lực, nhân
lực, vật lực và tài chính, bằng yêu cầu của người tiêu dùng đối với số lượng và chất
lượng dịch vụ và mức độ thỏa mãn các yêu cầu đó. Chất lượng hoạt động viễn
thông được đặc trưng bằng các chỉ tiêu đánh giá các chức năng của sản phẩm, tạo
điều kiện thuận lợi cho việc thỏa mãn các nhu cầu của người tiêu dùng về mức độ
nhanh chóng, chính xác của việc truyền đưa các thông tin, cũng như các chỉ tiêu
- 10 -
phản ánh quá trình phục vụ người tiêu dùng như mức tiếp cận, sự tiện lợi của việc
sử dụng các phương tiện thông tin, mức độ đáp ứng nhu cầu về dịch vụ, văn hóa và
thái độ phục vụ.
Chất lượng dịch vụ viễn thông được thể hiện ở các chỉ tiêu như tốc độ truyền
thông tin, độ chính xác của việc truyền đưa, độ khôi phục tin tức và hoạt động ổn
định của các phương tiện thông tin.
Mức độ phổ cập các phương tiện thông tin và mức độ thỏa mãn các nhu cầu
của toàn xã hội về các dịch vụ thông tin.
Chất lượng phục vụ là văn hóa và thái độ phục vụ của điện thoại viên, giao
dịch viên…Đối với khách hàng chất lượng dịch vụ và chất lượng phục vụ là đồng
nhất. Với người tiêu mức độ thỏa mãn rất quan trọng, đó là tính sẵn sàng và khả
năng các doanh nghiệp cung cấp các dịch vụ cho khách hàng vào đúng thời điểm, ở
nơi tiện lợi và với chất lượng cao.
Các chỉ tiêu chất lượng như: Chỉ tiêu an toàn, chính xác(đảm bảo 100%)
Đối với điện thoại cố định: Độ chuẩn giọng nói, giọng nói trung thực, người
nghe phải nhận đúng giọng người quen, không bỏ trực tổng đài, không bỏ sót yêu
cầu cuộc điện đàm, không ghi đăng ký hoặc chuyển sai đăng ký, không bị nghe
trộm.
Đối với điện thoại di động: Không có tiếng vọng, Âm lượng vừa nghe, không
có tiếng ù, rít lạo xạo…, bảo mật các thông tin về thuê bao
Đối với dịch vụ Internet: Đường truyền cao, tốc độ truyền dữ liệu lớn, không
bị lỗi hệ thống đường truyền, ngắt mạng giữa chừng, độ khả dụng của dịch vụ trên
99,5%, tỉ lệ khiếu nại của khách hàng về dịch vụ là ≤ 0,2%......
1.2.7 Đầu tƣ tiếp thị và xúc tiến tiêu thụ sản phẩm
Các dịch vụ khách hàng như: vận chuyển, lắp đặt, hướng dẫn sử dụng dịch vụ
bảo hành, bảo dưỡng sản phẩm…ngày càng đóng vai trò quan trọng làm tăng mức
tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp. Với dịch vụ này khách hàng sẽ cảm
- 11 -
thấy an tâm và thuận tiện hơn khi sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp. Đầu tư cho
bổ sung và hoàn thiện những loại hình dịch vụ này có tác dụng rất lớn đến việc làm
tăng mức độ thỏa mãn của khách hàng khi tiêu dùng sản phẩm hay nói một cách
khác là nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm.
Bằng các hình thức đầu tư cho hoạt động quảng cáo, tiếp thị sản phẩm sẽ tác
động tích cực trong việc giới thiệu rộng rãi sản phẩm đối với người tiêu dùng, từ đó
giúp họ hiểu biết thêm về sản phẩm của doanh nghiệp và có cơ hội lựa chọn sản
phẩm của doanh nghiệp phù hợp với nhu cầu của mình. Hoạt động này không chỉ có
lợi cho doanh nghiệp mà có lợi đối với cả người tiêu dùng.
1.2.8 Đầu tƣ xây dựng và phát triển thƣơng hiệu sản phẩm
Ngày nay, thương hiệu trở thành tài sản vô hình rất có giá trị đối với doanh
nghiệp. Nó thể hiện uy tín nhãn hiệu sản phẩm, niềm tin của khách hàng đối với sản
phẩm của doanh nghiệp. Một khi đã tạo dựng được thương hiệu mạnh cho mình thì
sản phẩm của doanh nghiệp mặc nhiên sẽ được người tiêu dùng tin cậy và đánh giá
cao. Để không ngừng phát triển thương hiệu sản phẩm của mình doanh nghiệp cần
phải đăng ký nhãn hiệu và sản phẩm của doanh nghiệp cần phải được công nhận bởi
các tổ chức có uy tín về việc bảo đảm các chỉ tiêu chất lượng theo tiêu chuẩn quốc
gia hoặc quốc tế, đồng thời doanh nghiệp phải không ngừng quảng bá thương hiệu
của mình qua các hội chợ hay triển lãm cả ở thị trường trong nước và ngoài nước.
Như vậy, hoạt động đầu tư phát triển doanh nghiệp bao gồm rất nhiều nội
dung, mỗi nội dung đều có vai trò và tác động khác nhau đến thành công của doanh
nghiệp. Điều này đòi hỏi doanh nghiệp cần phải thực hiện một cách đầy đủ và hợp
lý những nội dung trên mới đảm bảo hiệu quả của hoạt động kinh doanh này, thực
hiện tốt tăng trưởng kinh tế của doanh nghiệp.
- 12 -
1.3 KẾT QUẢ VÀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƢ PHÁT TRIỂN
TRONG DOANH NGHIỆP
1.3.1 Kết quả đầu tƣ phát triển
Khối lượng vốn đầu tư thực hiện là tổng số tiền đã chi để tiến hành các hoạt
động của các công cuộc đầu tư bao gồm các chi phí cho công tác xây lắp, chi phí
cho công tác mua sắm thiết bị và các chi phí khác theo quy định của thiết kế dự toán
và được ghi trong dự án đầu tư được duyệt. Khối lượng vốn đầu tư thực hiện được
tính như sau:
Đối với công tác mua sắm máy móc thiết bị: Khối lượng vốn đầu tư thực
hiện được tính theo công thức sau:
IvXL = QiPi VAT
Trong đó:
Qi : Trọng lượng, số lượng từng bộ phận, cái, nhòm thiết bị thứ i
Pi : Giá tính cho 1 tấn hoặc cho từng bộ phận, cái, nhóm thiết bị thứ i
VAT : Tổng số thuế giá trị gia tăng
Đối với các chi phí khác (Ivk): được tính vào vốn đầu tư thực hiện theo
phương pháp thực thanh, thực chi, được chia làm 2 nhóm: Nhòm tính theo định mức
xác định tỉ lệ % (chi phí thiết kế, chi phí ban quản lý dự án, chi phí lệ phí thẩm
định…) và nhóm chi phí khác xác định bằng cách lập dự toán (chi phí đào tạo, chi
phí thuê chuyên gia…)
IvK = Ci Cj VAT
Trong đó:
Ci : Giá trị của khoản mục chi phí khác thứ i thuộc nhóm chi phí, lệ
- 13 -
phí tính theo định mức tỉ lệ %.
Cj : Giá trị của khoản mục chi phí khác thứ j thuộc nhóm chi phí tính
bằng cách lập dự toán.
VAT : Thuế giá trị gia tăng của các chi phí khác
Tài sản cố định huy động và năng lực sản xuất phục vụ tăng thêm.
Tài sản cố định huy động là công trình hay hạng mục công trình, đối tượng
xây dựng có khả năng phát huy tác dụng độc lập đã kết thúc quá trình xây dựng,
mua sắm, đã làm xong thủ tục nghiệm thu sử dụng, có thể đưa vào hoạt động được
ngay.
Năng lực sản xuất phục vụ tăng thêm là khả năng đáp ứng nhu cầu sản xuất,
phục vụ của các tài sản cố định đã được huy động vào sử dụng để sản xuất ra sản
phẩm hoặc tiến hành các hoạt động dịch vụ theo quy định được ghi trong dự án đầu
tư.
Giá trị các tài sản cố định được huy động trong kỳ nghiên cứu được tính theo
công thức:
F = IVb + IVt - C - IVe
Trong đó:
F: Giá trị các tài sản cố định được huy động trong kỳ.
IVb: Vốn đầu tư được thực hiện ở các kỳ trước, chưa được
huy động chuyển sang kỳ nghiên cứu (xây dựng dở dang đầu kỳ)
IVt: Vốn đầu tư được thực hiện ở trong kỳ nghiên cứu
C: Chi phí trong kỳ không làm tăng giá trị tài sản
cố định (như lương chuyên gia, chi phí đền bù…)
IVe: Vốn đầu tư được thực hiện chưa được huy động chuyển
sang kỳ sau (xây dựng dở dang cuối kỳ)