1. Trang chủ >
  2. Thạc sĩ - Cao học >
  3. Kinh tế >

CHƢƠNG 1MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY VÀ VIỆC NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG TÍN DỤNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI ĐỐI VỚI CÁC DNNVV

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 95 trang )


Doanh nghiệp Nhà nước, Doanh nghiệp tư nhân, Hợp tác xã, các loại hình Công ty

trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần. Tuy nhiên Nghị định đó cũng còn nhiều hạn

chế trong việc phân loại chính xác DNNVV. Và nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày

30/06/2009 cơ bản đã khắc phục được những hạn chế này. Nghị định quy định:

Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo

quy định pháp luật, được chia thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng

nguồn vốn (tổng nguồn vốn tương đương tổng tài sản được xác định trong bảng cân

đối kế toán của doanh nghiệp) hoặc số lao động bình quân năm (tổng nguồn vốn là

tiêu chí ưu tiên)

Cụ thể như sau:

Quy mô



Doanh

nghiệp

siêu nhỏ

Khu vực

Số

lao

động

I.

Nông,

lâm 10 người

nghiệp và thủy sản trở xuống



Doanh nghiệp nhỏ

Tổng

nguồn vốn

20 tỷ đồng

trở xuống



Doanh nghiệp vừa



Số

lao

động

từ trên 10

người đến

200

người



Tổng

nguồn vốn

từ trên 20

tỷ

đồng

đến 100 tỷ

đồng



II. Công nghiệp và 10 người 20 tỷ đồng từ trên 10

xây dựng

trở xuống trở xuống người đến

200

người



từ trên 20

tỷ

đồng

đến 100 tỷ

đồng



III. Thương mại và 10 người 10 tỷ đồng từ trên 10 từ trên 10

dịch vụ

trở xuống trở xuống người đến tỷ

đồng

50 người đến 50 tỷ

đồng



Số

lao

động

từ trên

200

người

đến 300

người

từ trên

200

người

đến 300

người

từ trên 50

người

đến 100



(Nguồn: Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam (2009), Nghị định 56/2009/NĐ-CP

về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa.) [4]

1.1.1.2 Đặc điểm của DNNVV

+ Cần vốn:

5



Vốn là cơ bản của quá trình sản xuất, có vai trò vô cùng quan trọng trong sự

phát triển của cả đất nước nói chung và từng doanh nghiệp nói riêng. Thực tế cho

thấy, để tạo ra một việc làm ở Việt Nam trung bình phải mất 5-15 triệu đồng tiền

vốn. Vốn có vai trò quyết định trong việc đầu tư công nghệ, trang thiết bị, cải tiến

công nghệ, đào tạo nghề, nâng cao trình độ tay nghề của công nhân, trình độ quản lý

của doanh nghiệp, mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên các doanh

nghiệp hiện nay lại đang trong tình trạng thiếu vốn trầm trọng, trong khi nguồn vốn

tiềm ẩn trong dân cư còn chưa khai thác được. Trong khi đó, các DNNVV chỉ cần

một số vốn không nhiều với một mặt bằng nhỏ hẹp đã có thể khởi sự. Mặt khác,

vòng quay sản phẩm của các doanh nghiệp này khá nhanh nên có thể sử dụng vốn

tự có hoặc vay bạn bè, người thân dễ dàng.

+ Linh hoạt, dễ điều chỉnh sản xuất:

Khả năng linh hoạt của các DNNVV rất cao, dễ thích ứng với nhu cầu của

thị trường. Mặt khác các DNNVV cần ít diện tích sản xuất tập trung, có khả năng

sản xuất phân tán. Điều này không những giúp doanh nghiệp giảm được chi phí đầu

tư mà còn góp phần tạo nên tính linh hoạt trong tổ chức sản xuất.

+ Tận dụng các nguồn lực sẵn có:

Hiện nay, còn rất nhiều tiềm lực xã hội chưa được khai thác: tiềm lực về trí

tuệ, tay nghề tinh xảo, bí quyết nghề, lao động, tài nguyên thiên nhiên, …các tiềm

năng này, nguồn lực này ít được doanh nghiệp lớn quan tâm do chúng phân tán, chi

phí lớn để khai thác trên diện rộng, không đáp ứng được yêu cầu và số lượng ít,

không đảm bảo cho sản xuất lớn.

+ Hạn chế về vốn:

Thiếu vốn đang là một trong những vấn đề khó khăn nhất của DNNVV.

Nguyên nhân của tình trạng này vừa mang tính chủ quan vừa mang tính khách quan,

một phần là do vốn tự có của doanh nghiệp là rất hạn chế, tài sản không đủ để thoả

mãn nhu cầu của ngân hàng khi có nhu cầu vay thêm vốn, còn các doanh nghiệp

huy động từ các nguồn phi chính thức khác thì chi phí rất cao và không ổn định.

Việc thiếu vốn đã khiến các doanh nghiệp này bỏ lỡ nhiều cơ hội kinh doanh tốt,

muốn phát triển sản xuất lại càng khó khăn hơn.

+ Hạn chế về công nghệ:

6



Một thách thức có tính nội tại nhưng không phải là nhỏ là phần lớn các công

nghệ mà các DNNVV đang sử dụng đã lạc hậu hàng chục năm, có khi vài chục

năm. Điều này dẫn đến tình trạng sản phẩm làm ra không thể đáp ứng được mẫu

mã, chất lượng, ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng nâng cao năng suất, hạ giá thành

sản phẩm. Vốn thấp, khả năng nghiên cứu và ứng dụng công nghệ thấp, không có

khả năng thực hiện các công nghệ hiện đại đang là bài toán khó đối với doanh

nghiệp loại này.

+ Hạn chế về quản lý :

Phần lớn các DNNVV được thành lập dựa trên mối quan hệ gia đình, phương

pháp điều hành và quản lý các hoạt động sản xuất kinh doanh chủ yếu dựa trên kinh

nghiệm chưa bài bản, còn mang nặng tính chất gia đình. Một tỷ lệ không nhỏ các

chủ doanh nghiệp chưa qua một trường lớp đào tạo nào, thiếu trầm trọng những

kiến thức cơ bản về kinh doanh, luật pháp, … Các DNNVV cũng không có khả

năng thu hút nhân lực quản lý trình độ cao do những hạn chế về lương bổng và các

chính sách đãi ngộ.

1.1.2 Vai trò của DNNVV

Cả về mặt lý luận và thực tiễn đều cho thấy, DNNVV có vị trí và vai trò rất

quan trọng trong nền kinh tế của mỗi nước, kể cả các nước có trình độ phát triển

cao. Trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu gay gắt như hiện nay, các nước đều hỗ trợ

doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm huy động tối đa các nguồn lực và hỗ trợ cho doanh

nghiệp lớn phát triển nhanh hơn, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm. Vị trí, vai trò

của DNNVV đã được khẳng định, thể hiện qua các đặc điểm chủ yếu như sau:

Thứ nhất, DNNVV góp phần quan trọng tạo công ăn việc làm và thu nhập

cho người lao động.

Do có lợi thế là chỉ cần một lượng vốn nhỏ cũng có thể thành lập công ty,

nhà xưởng, văn phòng… với chi phí thấp. Nhờ tính năng động và linh hoạt cao, có

khả năng thích ứng với những nhu cầu thường xuyên thay đổi của thị trường nên ở

các nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam số lượng DNNVV rất lớn chiếm

khoảng hơn 90% tổng số các doanh nghiệp.



7



Thêm vào đó phần lớn các doanh nghiệp này hoạt động trong lĩnh vực

thương mại dịch vụ sản xuất hàng tiêu dùng, chế biến nông sản, xây dựng và giao

thông vận tải…, lại thường sử dụng công nghệ lạc hậu, nửa cơ giới nửa thủ công, do

vậy khả năng thu hút lao động của các doanh nghiệp này là rất lớn. Ở Việt Nam các

doanh nghiệp tư nhân nhỏ và vừa đóng góp hơn 20% GDP, 26% việc làm thường

xuyên và tạo ra 1,2 triệu việc làm mới mỗi năm. Trong khi đó các doanh nghiệp lớn

có kĩ thuật sản xuất hiện đại, công nghệ tiên tiến, nhất là đối với các xí nghiệp tự

động hoá sản xuất đã làm cho số người thất nghiệp ngày càng tăng phát sinh nhiều

tiêu cực cho xã hội.

Ở Việt Nam các DNNVV đã đóng góp một vai trò quan trọng trong việc thu

hút các lao động nông nghiệp ở nông thôn trong các làng nghề truyền thống. Các

doanh nghiệp này đã giúp cho người nông dân có thêm thu nhập với các nghề

truyền thống từ bao đời bằng việc xuất khẩu các mặt hàng thủ công mĩ nghệ. Nhờ

đó giảm được lượng lao động ồ ạt đổ lên thành phố trong lúc nông nhàn, hơn thế

nữa lại giữ gìn và phát triển các làng nghề truyền thông mang đậm bản sắc văn hoá

dân tộc từ bao đời nay của Việt Nam.

Thứ hai, DNNVV có khả năng thu hút vốn tối đa, tận dụng các nguồn lực

xã hội.

Tiềm lực tài chính trong dân là rất lớn, tuy nhiên lại nằm rải rác, không tập

trung thành những khoản lớn đủ để đáp ứng cho những nhu cầu vốn với quy mô

lớn. Để thành lập các DNNVV thì yêu cầu về vốn là không lớn do đó các doanh

nghiệp này được thành lập một cách dễ dàng, nằm phân tán trong dân, đi vào tận

các làng xóm. Vì thế các DNNVV đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút nguồn

vốn từ dân, tận dụng những nguồn vốn nhỏ bé này cho sản xuất kinh doanh không

để chúng nhàn rỗi. Mặc dù, số vốn của doanh nghiệp loại này nhỏ nhưng do số

lượng doanh nghiệp là rất lớn nên tổng lượng vốn thu hút được khá lớn.

Thứ ba, DNNVV đóng góp đáng kể vào nguồn thu ngân sách nhà nước, góp

phần thúc đẩy phát triển kinh tế.

Do quy mô vừa và nhỏ nên các doanh nghiệp này có thể đặt văn phòng làm

việc, nhà xưởng ở khắp mọi nơi trên lãnh thổ ở cả những nơi co sở hạ tầng chưa

phát triển nhằm khai thác tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, phát triển kinh tế địa

8



phương. Quy mô hoạt cũng như trình độ công nghệ của các doanh nghiệp này rất

thích hợp với những ngành cần nhiều lao động thủ công như ngành chế biền thuỷ

hải sản, may mặc, giầy da, mà đây lại là những ngành đem lại nhiều kim ngạch xuất

khẩu cho cả nước. Đặc biệt với những ngành thủ công mỹ nghệ truyền thống ngành

mà việc sử dụng các công nghệ hiện đại và sản xuất hàng loạt là rất khó khăn, thêm

vào đó là việc phân bổ rải rác ở khắp các vùng nông thôn, thì DNNVV đóng vai trò

vô cùng quan trọng trong việc tập trung, tiêu thụ sản phẩm với thị trường trong

nước mà còn xuất khẩu ra nước ngoài.

Bên cạnh đó, do lợi thế của mình mà các DNNVV rất thích hợp với khu vực

kinh doanh thương mại dịch vụ bán lẻ. Trong khi đó các doanh nghiệp lớn khó có

thể tổ chức một mạng lưới bán lẻ để tiêu thụ hàng hoá của mình mà phải thông qua

mạng lưới bán lẻ của DNNVV. Chính vì vậy, DNNVV đáp ứng được nhu cầu của

người tiêu dùng kể cả ở những nơi xa xôi, cơ sở hạ tầng thấp kém một cách nhanh

chóng thuận tiện, do đó mà rút ngắn khoảng cách về kinh tế giữa các vùng, góp

phần làm cho kinh tế phát triển đồng đều trên toàn lãnh thổ.

Thu hút được một lượng lớn vốn nhàn rồi trong dân, khai thác tận dụng được

các tiềm năng thế mạnh của từng vùng, làm vệ tinh cho các doanh nghiệp lớn,

DNNVV đã đóng góp một phần không nhỏ vào sự tăng trưởng và phát triển của nền

kinh tế. Theo số liệu của UNDP thì DNNVV đã đóng góp 26% GDP. Sự phát triển

của DNNVV đã đóng góp phần đáng kể trong việc huy động vốn đầu tư toàn xã hội,

giải quyết công ăn việc làm, tăng thu cho ngân sách nhà nước, đóng góp phần lớn

trong giá trị GDP mà nền kinh tế tạo ra hàng năm.

Thứ tư, DNNVV tạo sự linh hoạt cho nền kinh tế

Trên thực tế, tỷ trọng số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các nước luôn

chiếm trên 90%, với nhu cầu về vốn không lớn và linh hoạt trong hoạt dộng sản

xuất kinh doanh, do đó số lượng các DNNVV gia tăng không ngừng. Điều này góp

phần quan trọng trong việc thu hút vốn nhàn rỗi từ dân, như vậy sự phát triển

DNNVV đã làm tăng hiệu quả cho việc sử dụng các nguồn tài chính. Đây là một

yếu tố vô cùng quan trọng đối với công việc phát triển kinh tế đặc biệt là ở Việt

Nam - một nước đang phát triển và đang trong lộ trình hội nhập kinh tế thế giới.

Bên cạnh đó, sự phát triển không ngừng của các DNNVV đã thu hút một

lượng lớn lao động nông nghiệp đang tham gia ở các vùng nông nghiệp sang làm

9



việc ở lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ, nâng cao đời sống cho nhiều bộ phận dân cư

nông thôn, thúc đẩy quá trình đô thị hoá. Có thể nói, sự phát triển các DNNVV đã

góp phần quan trọng trong quá trình chuyển dịch kinh tế theo hướng công nghiệp

hoá, hiện đại hoá.

Việc phát triển không ngừng của các DNNVV tạo ra sự cạnh tranh không

nhỏ giữa các doanh nghiệp kể cả với các doanh nghiệp lớn trong nền kinh tế. Trong

một thị trường cạnh tranh, các sản phẩm được sản suất ra phải không ngừng nâng

cao chất lượng nếu không muốn bị đào thải mà DNNVV lại nhạy cảm với biến

động của thị trường, có tính linh hoạt trong sản xuất, các sản phẩm sản xuất ra luôn

bám sát với yêu cầu của thị trường với chi phí thấp. Đây là thách thức đối với doanh

nghiệp lớn, khiến cho các doanh nghiệp này khó có thể lũng đoạn thị trường. Do đó,

các DNNVV làm cho nền kinh tế trở nên năng động, linh hoạt hơn, lộ trình hội

nhập với kinh tế thế giới cũng vì thế được rút ngắn hơn.

1.2 Khái niệm hoạt động cho vay và chất lƣợng tín dụng

1.2.1 Khái niệm hoạt động cho vay

Hoạt động cho vay là hoạt động mang lại nguồn thu chính cho các NHTM,

tuy nhiên theo những số liệu thống kê đây là lĩnh vực ẩn chứa nhiều rủi ro nhất

trong hoạt động cho của các NHTM. Vậy để đánh giá được hoạt động cho vay của

một ngân hàng có hiệu quả hay không chúng ta phải tìm hiểu thế nào là hiệu quả

cho vay. Hiệu quả cho vay được hiểu theo đúng nghĩa: Đồng vốn của ngân hàng

cho các doanh nghiệp vay phù hợp với khả năng của ngân hàng, phù hợp với chính

sách phát triển kinh tế của địa phương, quan trọng là với đồng vốn đó doanh nghiệp

sẽ tiến hành hoạt động kinh doanh có hiệu quả, thu được lợi nhuận và hoàn trả vốn

vay cho ngân hàng cả gốc, lãi đúng thời hạn đã kí kết.

1.2.2 Chất lượng tín dụng

Trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại, tín dụng là nghiệp

vụ mang lại phần lớn doanh thu cho ngân hàng, nhưng cũng là nghiệp vụ chứa đựng

nhiều rủi ro nhất. Hiệu quả hoạt động tín dụng được thể hiện bởi chất lượng tín

dụng. Theo nghĩa rộng chất lượng tín dụng là sự đáp ứng nhu cầu của khách hàng,

phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân

hàng.

10



Từ khái niệm trên cho thấy chất lượng tín dụng cần được xem xét trên ba góc

độ: ngân hàng, khách hàng và nền kinh tế.

Chất lượng tín dụng xét từ góc độ Ngân hàng thương mại:

Chất lượng tín dụng thể hiện ở phạm vi, mức độ, giới hạn tín dụng phải phù

hợp với khả năng theo hướng tích cực của ngân hàng và phải đảm bảo sự cạnh tranh

của ngân hàng trên thị trường, đồng thời phải đảm bảo cả nguyên tắc hoàn trả đúng

hạn cả gốc và lãi. Chất lượng tín dụng tại một ngân hàng phải thể hiện ở chỉ tiêu lợi

nhuận hợp lý và ngày một gia tăng, dư nợ ngày càng tăng trưởng, tỷ lệ nợ quá hạn

đảm bảo đúng quy định và hợp lý, đảm bảo cơ cấu vốn giữa ngắn hạn, trung hạn và

dài hạn của ngân hàng.

Hoạt động tín dụng là hoạt động mang lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng,

nhưng cũng hàm chứa nhiều rủi ro. Cho nên để hạn chế những rủi ro đó, ngân hàng

luôn quan tâm đến chất lượng của các khoản tín dụng bằng cách xem xét đánh giá

mỗi khách hàng vay một cách kỹ lưỡng, để từng khoản cho vay của ngân hàng có

thể đảm bảo an toàn trảnh rủi ro xảy ra. Cụ thể: để xem xét một khoản tín dụng nào

đó có đạt hiệu quả hay không ngân hàng thường đặt khách hàng vào môi trường

kinh doanh hiện tại của chính các doanh nghiệp, để đánh giá xem họ đang kinh

doanh trong thị trường nào, những mặt hàng của doanh nghiệp sau khi sản xuất có

khả năng tiêu thụ hay không…

Tìm hiểu về tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp sẽ giúp ngân hàng

nắm bắt được đồng vốn mà ngân hàng cho vay đã được sử dụng có đúng mục đích

và hiệu quả hay không. Đây là điều kiện bắt buộc đối với ngân hàng khi cho vay để

tránh những trường hợp khách hàng vay nhưng không sử dụng vốn vay như trong

hợp đồng tín dụng. Sử dụng vốn vay vào mục đích khác và nếu sử dụng vào những

mục đích buôn bán trái pháp luật thì ngân hàng có thể sẽ bị liên đới theo.

Chất lượng tín dụng xét từ góc độ khách hàng:

Để tạo nên một khoản tín dụng có chất lượng không chỉ phụ thuộc vào bản

thân ngân hàng mà còn phụ thuộc vào cả khách hàng. Khách hàng là một trong

những chủ thể quan trọng tạo nên khoản tín dụng có hay không có chất lượng. Chất

lượng tín dụng được tạo nên từ nhiều phía, các ngân hàng và doanh nghiệp đều có

11



vai trò quan trọng để tạo nên chất lượng của khoản tín dụng. Ngân hàng có thiện chí

cho vay để giúp các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất được dễ dàng và trôi

chảy hơn, nhưng nếu doanh nghiệp cố tình làm trái kế hoạch so với trong hợp đồng

tín dụng, sử dụng vốn vay không đúng mục đích điều này sẽ ảnh hưởng đến khả năng

thu hồi vốn của ngân hàng cũng như ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng sau này.

Ngoài ra, thông qua quan hệ tín dụng lâu dài với khách hàng, sự am hiểu về

khách hàng sẽ làm cho ngân hàng hiều rõ nhu cầu tín dụng của khách hàng, đảm

bảo thoả mãn nhu cầu hợp lý về vốn cho họ. Trong môi trường cạnh tranh gay gắt

hiện nay, chất lượng yêu cầu hàng đầu trong cạnh tranh. Do vậy, chất lượng tín

dụng là sự đáp ứng yêu cầu hợp lý của khách hàng như lãi suất hợp lý, thủ tục đơn

giản không phiền hà, điều này không những thu hút khách mà vẫn đảm bảo đúng

nguyên tắc và quy định của tín dụng phù hợp với tốc độ phát triển của xã hội, đảm

bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng, góp phần làm lành mạnh tổ chức của

doanh nghiệp.

Tóm lại, chất lượng tín dụng xét từ góc độ khách hàng chính là sự thoả mãn

kịp thời nhu cầu về vốn cho khách hàng, giúp khách hàng mau chóng và kịp thời sử

dụng vốn vào mục đích kinh doanh của mình, ngoài ra chất lượng tín dụng có được

đảm bảo hay không là còn phụ thuộc vào sự hợp tác của khách hàng là sử dụng vốn

vay đúng mục đích và hiệu quả.

Chất lượng tín dụng xét từ góc độ là nền kinh tế nói chung:

Xét từ góc độ này, chất lượng tín dụng phải hỗ trợ cho hoạt động sản xuất

kinh doanh của doanh nghiệp, đồng thời giải quyết công ăn việc làm, tăng thêm sản

phẩm cho xã hội góp phần tăng trưởng kinh tế và khai thác khả năng tiềm ẩn trong

nền kinh tế. Có thể thấy chất lượng tín dụng tác động trước tiên đến bản thân ngân

hàng sau đó là đến khách hàng và từ đó tác động đến nền kinh tế nói chung. Sự tác

động này phải làm thúc đẩy kinh tế phát triển.

Tựu chung lại, chất lượng tín dụng là chỉ tiêu tổng hợp, nó phản ánh mức độ

thích nghi của ngân hàng thương mại và sự thay đổi của môi trường bên ngoài, nó

thể hiện sức mạnh của ngân hàng trong quá trình cạnh tranh, để Ngân hàng tồn tại

và phát triển. Chất lượng tín dụng được xác định qua nhiều yếu tố như: thu hút được

những khách hàng có quan hệ tín dụng tốt, thủ tục đơn giản, thuận tiện, mức độ an

toàn của vốn tín dụng, chi phí tổng thể về sản xuất, chi phí nghiệp vụ…

12



1.3 Sự cần thiết phải nâng cao chất lƣợng tín dụng đối với DNNVV trong hoạt

động kinh doanh của NHTM

1.3.1 NHTM và hoạt động cho vay của NHTM

1.3.1.1 NHTM và các hoạt động chủ yếu của NHTM

Khái niệm NHTM

Theo pháp lệnh ngân hàng ngày 23-5-1990 của Hội đồng Nhà nước Việt

Nam xác định: “Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động

chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và

sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện

thanh toán”. Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân

hàng, với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín

dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán.

Các hoạt động chủ yếu của NHTM

Do nhu cầu tất yếu của nền kinh tế thị trường, các ngân hàng không ngừng

tăng cường mở rộng các danh mục các sản phẩm ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu

ngày càng đa dạng của khách hàng, sử dụng nguồn vốn có hiệu quả và thu lợi nhuận

cao. Tuy nhiên, về cơ bản chúng ta có thể sắp xếp các hoạt động đó vào một trong

ba nhóm sau:

- Hoạt động huy động tiền gửi.

- Hoạt động tín dụng.

- Hoạt động cung cấp các dịch vụ.

* Huy động tiền gửi:

Ngân hàng tập trung huy động các nguồn vốn trong nền kinh tế quốc dân.

Bên cạnh đó, khi cần vốn cho nhu cầu thanh khoản hay đầu tư cho vay, các ngân

hàng thương mại có thể đi vay từ các tổ chức tín dụng khác, từ các công ty khác,

các tổ chức tài chính trên thị trường tài chính.

Trong quá trình thu hút nguồn vốn ngân hàng phải bỏ ra những chi phí giao

dịch, chi phí trả lãi tiền gửi, trả lãi ngân hàng vay và các khoản chi phí khác có liên

quan. Những khoản chi này đòi hỏi ngân hàng phải sử dụng những đồng vốn huy

động được có hiệu quả để có thể bù đắp các khoản chi phí và đem lại lợi nhuận cho

Ngân hàng.

* Hoạt động tín dụng

13



- Cho vay:

+ Cho vay thương mại: Ngay thời kỳ đầu, các ngân hàng đã chiết khấu

thương phiếu mà thực tế là cho vay đối với những người bán (người bán chuyển các

khoản phải thu cho ngân hàng để lấy tiền trước). Sau đó bước chuyển tiếp từ chiết

khấu thương phiếu sang cho vay trực tiếp đối với các khách hàng (là người mua),

giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ nhằm mở rộng sản xuất kinh doanh.

+ Cho vay tiêu dùng: Trong giai đoạn đầu, các ngân hàng không tích cực cho

vay đối với cá nhân và hộ gia đình do tính rủi ro cao. Sự gia tăng thu nhập của người

tiêu dùng và sự cạnh tranh đã buộc các ngân hàng phải hướng tới người tiêu dùng

như một khách hàng tiềm năng. Sau thế chiến thứ hai, tín dụng tiêu dùng đã trở thành

loại hình tín dụng tăng trưởng nhanh nhất tại các nước có nền kinh tế phát triển.

+ Tài trợ cho dự án: Bên cạnh cho vay truyền thống là cho vay ngắn hạn,

các ngân hàng cũng ngày càng quan tâm vào việc tài trợ cho xây dựng nhà máy mới

đặc biệt là tài trợ trong các ngành công nghệ cao. Một số ngân hàng còn cho vay để

đầu tư vào bất động sản. Tất nhiên, loại hình tín dụng này rủi ro tương đối cao.

Chính vì thế, giai đoạn xem xét trước khi cho vay, xem xét người vay tiền và việc

sử dụng tiền vay mà người ta gọi là thẩm định tín dụng luôn chiếm vị trí quyết định.

- Đầu tư:

Hoạt động đầu tư chủ yếu của Ngân hàng trên thị trường tài chính thông qua

việc mua bán các chứng khoán: công trái và tín phiếu. Thu nhập của ngân hàng từ

hoạt động này là khoản chênh lệch giữa giá bán và giá mua. Ngoài ra ngân hàng còn

hùn vốn liên doanh với các doanh nghiệp, trong quá trình đó Ngân hàng sẽ được

chia lợi nhuận từ hoạt động này.

* Hoạt động cung cấp các dịch vụ:

Tận dụng vị trí uy tín, chuyên môn của mình là một trung gian tài chính có

nhiều quan hệ với khách hàng, có khả năng tiếp cận với nhiều nguồn thông tin, các

ngân hàng ngày nay cung cấp rất nhiều các dịch vụ khác nhau từ dịch vụ thanh toán,

bảo lãnh, làm đại lý... cho đến việc lập két giữ tiền, của cải phục vụ cho khách hàng.

Các dịch vụ này có thể hoàn toàn độc lập hoặc có thể liên quan hỗ trợ cho các hoạt

động huy động vốn, hoạt động tín dụng (đặc biệt là hoạt động thanh toán) nhưng

chúng đều đem lại thu nhập cho ngân hàng dưới dạng phí dịch vụ. Đối với hầu hết

14



các ngân hàng, thu nhập từ việc cung cấp các dịch vụ ngày càng chiếm tỷ trọng lớn

trong tổng thu nhập.

1.3.1.2 Những quy định pháp lí trong hoạt động cho vay của NHTM

* Phân loại cho vay của NHTM

Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động cho vay của NHTM rất đa dạng và

phong phú với nhiều hình thức khác nhau (có nhiều loại tín dụng khác nhau). Việc

áp dụng từng loại cho vay phụ thuộc vào đặc điểm kinh tế của đối tượng sử dụng

vốn tín dụng nhằm sử dụng và quản lý tín dụng có hiệu quả và phù hợp với sự vận

động cũng như đặc điểm kinh tế khác nhau của đối tượng tín dụng

Để quản lý và sử dụng vốn tín dụng có hiệu quả, cần thiết phải có sự phân

loại cho vay.

Phân loại cho vay là việc sắp xếp các khoản cho vay từng nhóm dựa trên một

số tiêu thức nhất định. Nếu việc phân loại cho vay có cơ sở khoa học sẽ làm tiền đề

để thiết lập các quy trình cho vay thích hợp và nâng cao hiệu quả quản trị tín dụng.

Có nhiều tiêu thức phân loại cho vay như:

-



Phân loại theo thời hạn cho vay có: Ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.



-



Phân loại theo đối tượng cho vay: Cho vay cá nhân, tổ chức tín dụng



-



Phân loại theo mục đích sử dụng vốn



-



Phân loại theo xuất xứ tín dụng



-



Phân loại theo hình thức đảm bảo tiền vay



-



Phân loại theo phương thức hoàn trả ….



Phân loại cho vay DNNVV sẽ theo tiêu chí của Nghị định số 56/2009/NĐCP ngày 30/06/2009.

* Quy định pháp lí trong cho vay DNNVV

Quy định pháp lí về cho vay DNNVV là các quy định của pháp luật điều

chỉnh các quy định phát sinh giữa các chủ thể (ngân hàng và khách hàng DNNVV)

khi tham gia hoạt động cho vay của ngân hàng. Các quy định này có ảnh hưởng rất

lớn tới hoạt động cho vay (về danh mục và lĩnh vực đầu tư) bởi vì nó quy định

nguyên tắc, phạm vi, quy mô giao dịch trong hoạt động cho vay của ngân hàng.

Các quy định pháp lí trong hoạt động cho vay DNNVV tập trung vào các vấn

đề sau:

15



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

×