Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 95 trang )
- Cho vay:
+ Cho vay thương mại: Ngay thời kỳ đầu, các ngân hàng đã chiết khấu
thương phiếu mà thực tế là cho vay đối với những người bán (người bán chuyển các
khoản phải thu cho ngân hàng để lấy tiền trước). Sau đó bước chuyển tiếp từ chiết
khấu thương phiếu sang cho vay trực tiếp đối với các khách hàng (là người mua),
giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ nhằm mở rộng sản xuất kinh doanh.
+ Cho vay tiêu dùng: Trong giai đoạn đầu, các ngân hàng không tích cực cho
vay đối với cá nhân và hộ gia đình do tính rủi ro cao. Sự gia tăng thu nhập của người
tiêu dùng và sự cạnh tranh đã buộc các ngân hàng phải hướng tới người tiêu dùng
như một khách hàng tiềm năng. Sau thế chiến thứ hai, tín dụng tiêu dùng đã trở thành
loại hình tín dụng tăng trưởng nhanh nhất tại các nước có nền kinh tế phát triển.
+ Tài trợ cho dự án: Bên cạnh cho vay truyền thống là cho vay ngắn hạn,
các ngân hàng cũng ngày càng quan tâm vào việc tài trợ cho xây dựng nhà máy mới
đặc biệt là tài trợ trong các ngành công nghệ cao. Một số ngân hàng còn cho vay để
đầu tư vào bất động sản. Tất nhiên, loại hình tín dụng này rủi ro tương đối cao.
Chính vì thế, giai đoạn xem xét trước khi cho vay, xem xét người vay tiền và việc
sử dụng tiền vay mà người ta gọi là thẩm định tín dụng luôn chiếm vị trí quyết định.
- Đầu tư:
Hoạt động đầu tư chủ yếu của Ngân hàng trên thị trường tài chính thông qua
việc mua bán các chứng khoán: công trái và tín phiếu. Thu nhập của ngân hàng từ
hoạt động này là khoản chênh lệch giữa giá bán và giá mua. Ngoài ra ngân hàng còn
hùn vốn liên doanh với các doanh nghiệp, trong quá trình đó Ngân hàng sẽ được
chia lợi nhuận từ hoạt động này.
* Hoạt động cung cấp các dịch vụ:
Tận dụng vị trí uy tín, chuyên môn của mình là một trung gian tài chính có
nhiều quan hệ với khách hàng, có khả năng tiếp cận với nhiều nguồn thông tin, các
ngân hàng ngày nay cung cấp rất nhiều các dịch vụ khác nhau từ dịch vụ thanh toán,
bảo lãnh, làm đại lý... cho đến việc lập két giữ tiền, của cải phục vụ cho khách hàng.
Các dịch vụ này có thể hoàn toàn độc lập hoặc có thể liên quan hỗ trợ cho các hoạt
động huy động vốn, hoạt động tín dụng (đặc biệt là hoạt động thanh toán) nhưng
chúng đều đem lại thu nhập cho ngân hàng dưới dạng phí dịch vụ. Đối với hầu hết
14
các ngân hàng, thu nhập từ việc cung cấp các dịch vụ ngày càng chiếm tỷ trọng lớn
trong tổng thu nhập.
1.3.1.2 Những quy định pháp lí trong hoạt động cho vay của NHTM
* Phân loại cho vay của NHTM
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động cho vay của NHTM rất đa dạng và
phong phú với nhiều hình thức khác nhau (có nhiều loại tín dụng khác nhau). Việc
áp dụng từng loại cho vay phụ thuộc vào đặc điểm kinh tế của đối tượng sử dụng
vốn tín dụng nhằm sử dụng và quản lý tín dụng có hiệu quả và phù hợp với sự vận
động cũng như đặc điểm kinh tế khác nhau của đối tượng tín dụng
Để quản lý và sử dụng vốn tín dụng có hiệu quả, cần thiết phải có sự phân
loại cho vay.
Phân loại cho vay là việc sắp xếp các khoản cho vay từng nhóm dựa trên một
số tiêu thức nhất định. Nếu việc phân loại cho vay có cơ sở khoa học sẽ làm tiền đề
để thiết lập các quy trình cho vay thích hợp và nâng cao hiệu quả quản trị tín dụng.
Có nhiều tiêu thức phân loại cho vay như:
-
Phân loại theo thời hạn cho vay có: Ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
-
Phân loại theo đối tượng cho vay: Cho vay cá nhân, tổ chức tín dụng
-
Phân loại theo mục đích sử dụng vốn
-
Phân loại theo xuất xứ tín dụng
-
Phân loại theo hình thức đảm bảo tiền vay
-
Phân loại theo phương thức hoàn trả ….
Phân loại cho vay DNNVV sẽ theo tiêu chí của Nghị định số 56/2009/NĐCP ngày 30/06/2009.
* Quy định pháp lí trong cho vay DNNVV
Quy định pháp lí về cho vay DNNVV là các quy định của pháp luật điều
chỉnh các quy định phát sinh giữa các chủ thể (ngân hàng và khách hàng DNNVV)
khi tham gia hoạt động cho vay của ngân hàng. Các quy định này có ảnh hưởng rất
lớn tới hoạt động cho vay (về danh mục và lĩnh vực đầu tư) bởi vì nó quy định
nguyên tắc, phạm vi, quy mô giao dịch trong hoạt động cho vay của ngân hàng.
Các quy định pháp lí trong hoạt động cho vay DNNVV tập trung vào các vấn
đề sau:
15
+ Nguyên tắc cho vay:
Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. Đây
là nguyên tắc cơ bản, vì có sử dụng vốn vay dúng mục đích thì khách hàng mới có
thể thực hiện được dự án, phương án sản xuất kinh doanh theo lợi ích dự kiến và do
vậy mới có thể thu hồi được vốn để hoàn trả nợ cho ngân hàng.
Hoàn trả gốc và lãi đúng thời hạn theo thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng.
Nguyên tắc này đảm bảo phương châm hoạt động của ngân hàng “đi vay để cho
vay” và thực hiện nguyên tắc hạch toán kinh doanh lấy thu bù chi và có lãi.
+ Điều kiện vay vốn
- Có đủ năng lực pháp lí (năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân
sự, có đủ tư cách chịu trách nhiệm hành vi trước pháp luật
- Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp
- Khách hàng phải có khả năng tài chính để đảm bảo trả nợ vay trong thời
hạn cam kết.
- Khách hàng phải có dự án đầu tư phương án sản suất kinh doanh, dịch vụ
khả thi, có hiệu quả.
- Thực hiện các quy định về đảm bảo tiền vay
+ Các quy định về đảm bảo tiền vay
Theo NĐ 178/1999/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm 1999 và Thông tư
07/2003/TT-NHNN ngày 19 tháng 05 năm 2003: Đảm bảo tiền vay là việc tổ chức
tín dụng áp dụng các biện pháp nhằm phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở pháp lí để thu hồi
khoản đã vay.
Các biện pháp đảm bảo tiền vay:
Đảm bảo bằng tài sản
-
Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba
Cầm cố thế chấp bằng tài sản của khách hàng
Bảo đảm bằng tài sản của bên thư 3
Cho vay không có đảm bảo bằng tài sản.
-
Tổ chức tín dụng lựa chọn cho vay không có đảm bảo bằng tài sản (tín
chấp)
16
-
TCTD nhà nước cho vay không có đảm bảo bằng tài sản theo chỉ thị
của chính phủ
Ngân hàng chịu trách nhiệm đánh giá khả năng trả nợ
Tổn thất do khách quan được chính phủ xử lý
-
Bảo lãnh bằng tín chấp của tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội cho các
cá nhân, hộ gia đình nghèo vay vốn.
Nguồn: [2], [8]
1.3.2 Chất lượng tín dụng đôi vơi DNNVV
́
́
DNNVV là một loại hình doanh nghiệp, ngoài những đặc điểm riêng biệt
thuộc về DNNVV thì các doanh nghiệp này vẫn mang đầy đủ các đặc điểm của một
doanh nghiệp nói chung. Vì vậy, chất lượng tín dụng đối với DNNVV cũng phải
tuân thủ những nguyên tắc chung để đánh giá. Tuy nhiên, các DNNVV do có những
đặc trưng riêng cho nên khi áp dụng một khoản tín dụng đối DNNVV thì tuỳ theo
loại hình kinh doanh của các doanh nghiệp mà xây dựng nên một hệ thống các chỉ
tiêu tổng hợp. Các DNNVV kinh doanh các mặt hàng khác nhau sẽ có những điểm
mạnh hay yếu khác nhau trên thị trường. Muốn các khoản tín dụng đó có chất lượng
thì đối với một doanh nghiệp hay từng loại hình doanh nghiệp kinh doanh riêng lẻ
nên có những chỉ tiêu riêng biệt để phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Vì
vậy, ngân hàng cần xem xét đánh giá từng loại mặt hàng mà doanh nghiệp đang
kinh doanh có nằm trong mặt hàng đang được Nhà nước khôi phục lại hay là những
mặt hàng có khả năng tiêu thụ nhanh để đưa ra chính sách tín dụng hợp lý đối với
các doanh nghiệp để giúp họ nâng cao chất lượng sản xuất kinh doanh.
Ngoài ra, đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng loạt, số vốn các doanh
nghiệp cần để đầu tư vào máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất là rất lớn, cho nên
khó khăn chủ yếu đối với các doanh nghiệp này là thiếu vốn đầu tư dài hạn. Để giúp
cải thiện khó khăn của các doanh nghiệp này, ngân hàng cần điều tra thực tế, đánh
giá môi trường hiện nay mà các doanh nghiệp đang hoạt động. Nếu các DNNVV
hiện đang kinh doanh sản xuất các mặt hàng phục vụ nhu cầu cần thiết cho xã hội
và thị trường sẵn sàng đón nhận các sản phẩm của họ. Điều này có thể ảnh hưởng
đến quyết định cho vay với thời hạn cho vay sẽ dài hơn từ đó doanh nghiệp có thể
yên tâm sản xuất.
17
Như vậy có thể nói chất lượng tín dụng đối với các DNNVV cũng tương tự
như đối với các đối tượng khác. Tuy nhiên, đối với loại hình DNNVV, ngân hàng
dùng một số biện pháp áp dụng sao cho phù hợp với loại hình DNNVV để vừa đảm
bảo an toàn và chất lượng cho ngân hàng, đồng thời vẫn đảm bảo sự thoả mãn cũng
như đáp ứng nhu cầu kịp thời của các doanh nghiệp này.
1.3.3 Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng DNNVV
- Nâng cao chất lượng tín dụng DNNVV đảm bảo đáp ứng đầy đủ kịp thời
nhu cầu vốn cho DNVVN.
Sự phát triển của một DNNVV phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, bao gồm cả
các yếu tố nội tại của doanh nghiệp và các yếu tố từ bên ngoài, từ môi trường kinh
doanh mà doanh nghiệp đó đang hoạt động. Trong đó, nhân tố quan trọng nhất là
khả năng tiếp cận với nguồn tài chính cần thiết cho hoạt động hàng ngày của doanh
nghiệp. Có thể nói, không doanh nghiệp nào có thể đạt mức tăng trưởng đúng với
thực lực của mình nếu không có một nguồn lực đầu vào cần thiết. Trong điều kiện
của nước ta hiện nay, năng suất và hiệu quả sản suất kinh doanh chưa cao, vốn tự có
của các doanh nghiệp, đặc biệt là DNNVV còn rất hạn chế. Do đó vay vốn ngân
hàng đã và đang là nguồn vốn quan trọng để tăng cường đầu tư các doanh nghiệp.
Đây thực sự là một đòn bẩy kinh tế tài chính quan trọng giúp DNNVV nâng cao
hiệu quả sản suất kinh doanh, mở rộng quy mô.
- Đáp ứng được đầy đủ vốn cho doanh nghiệp cùng với lãi suất vay và kì hạn
hợp lí sẽ thu hút được nhiều khách hàng DNNVV đến với NHTM.
Việc thu hút được nhiều khách hàng đến với ngân hàng mang lại nhiều lợi ích:
Thứ nhất, phân tán được rủi ro: Do số lượng khách hàng DNNVV lớn, quy
mô từng khoản vay nhỏ, trải rộng trên hầu hết các ngành nghề, lĩnh vực nên việc
cho vay với đối tượng này sẽ phân tán được rủi ro.
Thứ hai, tạo điều kiện để tăng thu dịch vụ của ngân hàng: Do tổng số lượng
giao dịch lớn, các DNNVV lại thường có xu hướng trọn gói dịch vụ tại một ngân
hàng do đó tạo cơ hội để ngân hàng nâng cao và thay đổi dần cơ cấu thu nhập.
18
Thứ ba, ngân hàng dễ dàng quản lý do các DNNVV thường có quy mô nhỏ
gọn, địa bàn hoạt động.
Thứ tư, khai thác tối đa mạng lưới chi nhánh rộng khắp trên cả nước: Các
DNNVV có địa bàn họat động trải rộng trên cả nước nên ngân hàng có thể khai thác
tối ưu mạng lưới chi nhánh tại hầu hết các tỉnh, thành phố. Việc hợp tác làm giữa
các doanh nghiệp cũng sẽ lôi kéo các doanh nghiệp liên quan giao dịch với ngân
hàng tạo lợi nhuận cho ngân hàng.
- Nâng cao chất lượng tín dụng với DNNVV sẽ góp phần nâng cao tốc độ tăng
trưởng kinh tế xã hội
Các doanh nghiệp và ngân hàng hoạt động kinh doanh đúng pháp luật, đúng
quy định… cạnh tranh nhau một cách công bằng. Nguồn lực của họ phản ánh đúng
hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh, góp phần nâng cao tốc độ tăng trưởng
kinh tế xã hội.
- Nâng cao chất lượng tín dụng sẽ đảm bảo tính cạnh tranh trên thị trường,
góp phần duy trì sự phát triển của ngân hàng.
Chất lượng tín dụng thể hiện ở doanh số và tốc độ doanh số cho vay đối với
DNNVV, ở phạm vi, mức độ, giới hạn tín dụng phải phù hợp với thực lực của ngân
hàng, nhưng phải đảm bảo tuân thủ đúng nguyên tắc tín dụng. Trong điều kiện cạnh
tranh gay gắt như hiện nay, việc tuân thủ nguyên tắc tín dụng là một nhân tố góp phần
quan trọng tạo dựng chỗ đứng và duy trì hoạt động của ngân hàng trên thị trường.
Mặt khác, việc nâng cao hiệu quả cho vay DNNVV, thu hút được nhiều
DNNVV đến vay và giao dịch với ngân hàng sẽ đảm bảo tính cạnh tranh của ngân
hàng với các ngân hàng khác.
Chất lượng tín dụng được nâng cao phản ánh hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp và ngân hàng có hiệu quả và thu được lợi nhuận góp phần tăng
trưởng kinh tế, khai thác tối ưu các nguồn lực kinh tế, tăng thu nhập, giải quyết
công ăn việc làm, nâng cao mức sống của dân cư.
1.4 Các tiêu chí đánh giá chất lƣợng tín dụng của ngân hàng thƣơng mại đối
với DNNVV
1.4.1 Chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng của các ngân hàng thương mại theo
quy định chung của pháp luật
1.4.1.1 Chỉ tiêu định tính
19
Một khoản tín dụng được coi là có chất lượng điều trước tiên phải tuân theo
các quy chế, chế độ, thông lệ tín dụng do Ngân hàng ban hành. Đây là những quy
định có tính chất bắt buộc và nó được cụ thể hoá từ quy trình tín dụng từ khâu tiếp
nhận hồ sơ đến khi thu hồi được cả gốc và lãi. Những quy định này là cơ sở pháp lý
để đảm bảo cho khoản tín dụng được an toàn hơn, hiệu quả hơn. Mặt khác, điều này
cũng thể hiện một cách cơ bản trình độ nghiệp vụ tín dụng. Theo đánh giá ban đầu
việc tuân theo các nguyên tắc sẽ là cơ sở giúp cho ngân hàng tránh rủi ro, đảm bảo
an toàn khi sử dụng nguồn vốn, là thước đo đánh giá chất lượng của một khoản tín
dụng. Ví dụ: Khi ngân hàng đưa ra quyết định cho vay điều trước tiên Ngân hàng
phải tiến hành các công việc như: Thẩm định hồ sơ vay vốn, thẩm định tư cách pháp
nhân của khách hàng, thẩm định báo cáo tài chính, thẩm định tình hình sản xuất kinh
doanh và phương án sử dụng tiền vay. Việc thẩm định các điều trên sẽ giúp Ngân hàng
đưa ra quyết định có cho vay hay không. Khi cho vay ngân hàng còn phải thường
xuyên kiểm tra, kiểm soát quá trình sử dụng tiền vay của khách hàng xem họ có sử
dụng đúng mục đích và hiệu quả hay không. Ngoài kiểm tra mục đích sử dụng vốn
vay, ngân hàng còn kiểm tra hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng có đạt hiệu
quả không vì điều này ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng.
Ngoài ra, uy tín của ngân hàng cũng quyết định đến chất lượng tín dụng của
ngân hàng. Một ngân hàng có lịch sử lâu đời, có uy tín, có kinh nghiệm trên thị
trường sẽ dễ dàng thu hút được nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ làm ăn có uy tín đến
với mình hơn, hạn chế được những khách hàng có ý đồ không lành mạnh, điều này
ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của ngân hàng. Bên cạnh đó, khi một ngân hàng
có quan hệ làm ăn lâu dài với các doanh nghiệp, thì ngân hàng cũng dễ dàng biết
san sẻ, giúp đỡ các doanh nghiệp khi họ gặp khó khăn. Tránh được những rủi ro
không đáng có cho ngân hàng cũng như cho doanh nghiệp. Đây chính ưu thế của
các ngân hàng lớn và các ngân hàng có lịch sử lâu đời vì họ dễ dàng thu hút được
những khách hàng lớn có hoạt động kinh doanh tương đối lớn và hiệu quả, đặc biệt
họ dễ dàng giữ được những khách hàng truyền thống và trung thành với ngân hàng.
* Các chỉ tiêu của ngân hàng
Trước hết là việc chấp hành các bước cụ thể trong quy trình tín dụng, đây là
việc làm cơ bản mà về nguyên tắc là không thể bỏ qua bất kì một công đoạn nào.
20