1. Trang chủ >
  2. Thạc sĩ - Cao học >
  3. Kinh tế >

2 Mô ̣ t sô ́ gia ̉ i pha ́ p

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 95 trang )


- Các ngành nông nghiệp có khả năng cạnh tranh như đánh bắt cá và nuôi

trồng thủy sản.

- Hạn chế các khoản đầu tư có mục đích kinh doanh, đầu cơ bất động sản,

các ngành có xu hướng bão hòa, kém cạnh tranh trong quá trình hội nhập kinh tế.

Chiến lược khách hàng

Đối xử tín dụng bình đẳng với mọi khách hàng, điều kiện cấp tín dụng không

phân biệt đối với các khách hàng có hình thức sở hữu khác nhau. Chi nhánh thực

hiện chế độ cập nhật, lưu trữ thông tin khách hàng, thường xuyên đánh giá chất

lượng tín dụng của khách hàng để chọn lọc khách hàng tốt, hạn chế phát triển khách

hàng có kết quả xếp hạng tín dụng thấp (rủi ro tín dụng cao) hoặc không phù hợp

dịnh hướng chiến lược của ngân hàng.

Chiến lược thị trường

BIDV Thăng Long luôn có điều tra tổng thể để có thể cụ thể hóa những yếu

tố cơ bản như: giới hạn cho vay đối với những ngành nghề khác nhau, quy mô, địa

bàn đầu tư, danh mục đầu tư… Để từ đó có thể định hướng được hoạt động kinh

doanh và hạn chế được rủi ro ngân hàng.

Trong quá trình cấp tín dụng, ngân hàng phải căn cứ vào các điều kiện cấp

tín dụng theo các quy định hiện hành nhưng phải quán triệt quan điểm nâng cao tiêu

chuẩn chất lượng tín dụng trong các điều kiện cấp tín dụng.

Việc thẩm định và quyết đinh cấp tín dụng phải được dựa trên cơ sở phân

tích tình hình khách hàng một cách toàn diện (về tính pháp lý, nhân thân lai lịch

khách hàng, quá trình hoạt động, trình độ quản lý, tình hình tài chính và hoạt động

kinh doanh, tính khả thi của phương án kinh doanh, tài sản đảm bảo và các điều

kiện khác) chứ không chỉ dựa vào tài sản đảm bảo của khách hàng để cấp tín dụng.

3.2.2 Hoàn thiện các sản phẩm dịch vụ cung cấp cho DNNVV

Muốn thu hút được nhiều khách hàng đến quan hệ vay vốn với mình thì một

vấn đề quan trọng là chi nhánh không được thỏa mãn với các hình thức cấp tín dụng

hiện có mà mình đang áp dụng. Hiện nay BIDV Thăng Long chỉ chủ yếu cho vay có

tỷ lệ đảm bảo bằng tài sản cao mà ít quan tâm tới hình thức khác, Vì vậy cần thiết

phải tìm kiếm các hình thức tín dụng mới để áp dụng thuận tiện đối với đặc điểm

của từng loại hình doanh nghiệp.

Ngoài các hình thức cấp tín dụng chủ yếu mà ngân hàng đang thực hiện.

69



- Chiết khấu: việc mua bán chịu và sử dụng vốn lẫn nhau giữa các DNNVV

là phổ biến. Việc sử dụng hình thức tín dụng chiết khấu thương phiếu có ưu điểm

nổi bật như: khả năng xảy ra rủi ro đối với hình thức tín dụng này là nhỏ nhất so với

các hình thức tín dụng khác. Khi cần vốn ngân hàng có thể xin tái chiết khấu các

thương phiếu, chứng từ có giá tại NHNN để bổ sung nguồn vốn thanh toán, nguồn

vốn kinh doanh….

- Trong thời gian tới ngân hàng cần nhanh chóng nghiên cứu xây dựng quy

trình cho vay chiết khấu thương phiếu, hối phiếu, các giấy tờ có giá khác.

- BIDV Thăng Long nên triển khai thực hiện các dịch vụ mới phù hợp với

khách hàng DNNVV như: bao thanh toán, tư vấn (tư vấn vay vốn, tư vấn tham gia

chứng khoán, lựa chọn phương án đầu tư…).

3.2.3 Tăng cường công tác Maketing, kênh tiếp cận với DNNVV

Đẩy mạnh công tác maketing là một biện pháp hữu hiệu trong việc mở rộng

cho vay đối với DNNVV. Ngân hàng cần làm ngay một số công tác sau:

Thứ nhất, xây dựng chiến lược maketing phù hợp phục vụ cho chiến lược tín

dụng theo hướng mở rộng cho vay với từng đối tượng DNNVV.

Thứ hai, về mặt tổ chức, chi nhánh nên thành lập thêm phòng maketing.

Phòng có chức năng chuyên tìm hiểu khách hàng, những yêu cầu của khách hàng

cũng như giải đáp những thắc mắc của khách hàng với các vấn đề của ngân hàng.

Thông qua đó, phòng sẽ xây dựng chiến lược khách hàng, chính sách khách hàng

phù hợp, tạo kênh thông tin giữa khách hàng và ngân hàng. Điều này sẽ giúp các

DNNVV tìm hiểu, nghiên cứu các quy định, chế tài của ngân hàng về điều kiện vay.

Trên cơ sở có những tìm hiểu lẫn nhau, ngân hàng và các DNNVV cùng bàn bạc,

xây dựng phương án sản xuất kinh doanh và lựa chọn các hình thức vay vốn phù

hợp với các đặc điểm tình hình của doanh nghiệp mình…

Thứ ba, chuyên môn hóa cán bộ tín dụng (tiếp thị) và cán bộ cho vay. Cán bộ

tín dụng có vai trò như cán bộ tiếp thị, maketing cho ngân hàng. Họ tiếp xúc, thu

nhận, thu thập thông tin về khách hàng, về phương án vay vốn sau đó chuyển cho

bộ phận thẩm định cho vay. Trên cơ sở các thông tin từ cán bộ tín dụng cung cấp.

Cán bộ cho vay chịu trách nhiêm phân tích, đánh giá, đối chiếu với các tiêu chuẩn

70



tín dụng, với hệ thống chỉ tiêu định lượng… Để lập tờ trình gửi ban giám đốc ký

duyệt cho vay.

Thứ tư, tăng cường tiếp xúc với DNNVV thông qua:

 Tổ chức hội thảo, hội nghị.

 Tăng cường tuyên truyền thông qua phương tiện truyền thông, thông tin đại

chúng…

3.2.4 Hoàn thiện chính sách quản lí rủi ro, hệ thống xếp hạng tín dụng

BIDV Thăng Long cần có chính sách và thực hiện quản lí rủi ro qua các hạn

mức kiểm soát rủi ro tín dụng. Việc thiết lập và tuân thủ các hạn mức này giúp hạn

chế cấp tín dụng quá lớn vào một khách hàng, nhóm khách hàng, ngành hàng… và

đảm bảo không có khoản vay (nhóm khoản vay) hoặc trạng thái rủi ro nào có thể

gây ảnh hưởng lớn đến kết quả kinh doanh tổng thể của toàn bộ hệ thống. Các hạn

mức tín dụng cần kiểm soát:

-



Tỷ trọng cấp tín dụng có đảm bảo hay không có đảm bảo bằng tài sản.



-



Tỷ trọng cấp tín dụng theo các hình thức cho vay, bảo lãnh…



-



Tỷ trọng cấp tín dụng theo kì hạn: Ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.



-



Tỷ trọng cấp tín dụng đối với DN, cá nhân, các tổ chức tài chính tín

dụng…



-



Mức tín dụng tối đa cho một khách hàng, nhóm khách hàng…



-



Tỷ trọng cấp tín dụng cho một số ngành lớn.



Hệ thống thông tin, xếp hạng và chấm điểm khách hàng:

Do số lượng khách hàng lớn, việc hoàn thiện hệ thống thông tin và xếp hạng

tín dụng có ý nghĩa quan trọng trong việc đánh giá, định hướng tín dụng, hạn chế

rủi ro, giảm thiểu thời gian và công sức lao động của cán bộ ngân hàng. Ngân hàng

cần xúc tiến làm việc với các NH nước ngoài có kinh nghiệm trong hoạt động cho

vay DNNVV, có hệ thống chấm điểm khách hàng đã hoàn thiện nhằm học tập kinh

nghiệm trong việc xây dựng một hệ thống chấm điểm khách hàng tiên tiến.

Chất lượng thông tin cần được cải tiến. Đây là một công việc không phải là

dễ dàng nhất là khi xem xét cho vay đối với các DNNVV, bởi vì: việc khai thác các

thông tin từ chính các doanh nghiệp này rất hạn chế, tính chính xác của các thông

tin khó kiểm định … Hiện nay, việc thu nhập thông tin khách hàng để phục vụ công

71



tác cho vay của chi nhánh cơ bản được lấy từ hệ thống thông tin tín dụng ngân hàng

nhà nước (CIC), và từ các nguồn khác do ngân hàng tự thu thập. Trong giai đoạn

hiện nay, chi nhánh cần phải có biện pháp hữu hiệu để tự khai thác, tìm kiếm, trang

bị cho mình những thông tin của doanh nghiệp và dự án, phương án vay vốn của họ.

Ngân hàng cần thành lập một bộ phận chuyên thu thập và xủ lý dữ liệu, bộ phận này

sẽ phối hợp với tất cả các bộ phận nghiệp vụ có liên quan trong ngân hàng để thu

thập thông tin về khách hàng ngay từ bên trong ngân hàng. Ngoài ra nó còn thu thập

thông tin thông qua các nguồn khác như: thông tin các cuộc hội thảo, thông tin các

ngân hàng thương mại, của ngân hàng nhà nước, của các bộ ngành liên quan và của

chính phủ…

3.2.5 Giảm chi phí giao dịch

Nhu cầu vốn đối với DNNVV luôn luôn bức thiết và thường xuyên, một sự

chậm trễ về thời gian cung ứng vốn có thể ảnh hưởng tới quá trình sản xuất kinh

doanh, chu trình sản phẩm. Nhưng khối lượng công việc lại nhiều, số lượng cán bộ

công nhân viên tại chi nhánh còn ít. Một mặt thời gian xử lý các hợp đồng tín dụng

của khách hàng còn tốn nhiều thời gian.

Theo lộ trình thực hiện hợp đồng tín dụng, quy trình sẽ đi từ Phòng quan hệ

khách hàng, tới phòng có thẩm quyền xét duyệt tín dụng, tới phòng có thẩm quyền

phê duyệt rủi ro, tới phòng quản trị tín dụng… Chu trình như thế có ưu điểm có thể

giảm thiểu rủi ro cho hoạt động ngân hàng, song thủ tục lại rất phức tạp, không

nhanh gọn, có thể khiến cho doanh nghiệp lỡ cơ hội sản xuất kinh doanh.

Theo phân tích ở chương 2, việc xử lý các giao dịch đó nếu không được thực

hiện tốt có thể khiến cho khách hàng dễ bỏ lỡ các cơ hội, bản thân chi nhánh cũng

không dược lợi. Chính vì thế, trong thời gian tới, Chi nhánh tích cực đẩy mạnh xử

lý các giao dịch, giảm thiểu chi phí hành chính… Đồng thời, Chi nhánh cũng có

những phương hướng đề xuất với BIDV nghiên cứu một quy trình tín dụng với thời

gian hợp lý hơn. Giải pháp đó có thể là: Kết hợp chức năng nhiệm vụ của phòng

quan hệ khách hàng và phòng quản lý rủi ro là một trong việc tiếp nhận và thẩm

định hồ sơ vay vốn của khách hàng. Khi đó phòng quản trị tín dụng sẽ làm nhiệm

vụ rà soát lại hồ sơ vay của khách hàng lần cuối và thực hiện giải ngân nếu như hồ

sơ vay vốn đó được phòng quản trị kết luận là hợp lý. Điều này có thể tiết kiệm thời

72



gian cho cả phòng quan hệ khách hàng và phòng quản lý rủi ro và thường là sẽ tiết

kiệm được 1-2 ngày chờ đợi cho khách hàng. Đồng thời sẽ tiết kiệm cho chi nhánh

chi phí in ấn các giấy tờ, hồ sơ cũng như phí công tác.

3.2.6 Tiếp tục hoàn thiện và nâng cao hệ thống công nghệ thông tin của chi nhánh

Trong thời gian tới, chi nhánh nên có những biện pháp nhằm tăng cường mối

liên hệ với các cơ quan liên quan như hiệp hội DNNVV, với cơ quan thuế, cơ quan

kiểm toán để có thể tiếp cận tình hình thực tế của các khách hàng.

Với quy trình, công nghệ ngân hàng: chi nhánh có kế hoạch tổ chức, rà soát,

làm sạch thông tin về khách hàng. Chi nhánh sẽ áp dụng các công nghệ ngân hàng

mới nhất cho phép bóc tách dữ liệu riêng rẽ theo từng nhóm sản phẩm, từng dòng

sản phẩm cho khách hàng. Chi nhánh tiếp tục chỉnh sửa hệ thống hiện có, đảm bảo

hệ thống máy chủ và các thiết bị liên quan hoạt động ổn định, chính xác, phục vụ tốt

nhất nhu cầu khách hàng. Cụ thể: để phục vụ cho việc xây dựng dữ liệu, làm tốt

công tác phân tích, chi nhánh thực hiện đồng bộ dữ liệu từ hệ thống định hạng tín

dụng nội bộ vào hệ thống thông tin khách hàng bao gồm dữ liệu về quy mô, ngành

nghề và sắp xếp loại khách hàng… có như vậy sẽ đồng bộ trong toàn hệ thống và

tiện cho việc phân tích, quản lý dữ liệu…

3.2.7 Nâng cao chất lượng cán bộ

Một trong những yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng cho vay

của ngân hàng là yếu tố con người. Muốn nâng cao được chất lượng thẩm định dự

án, phương án vay vốn của khách hàng chi nhánh cần phải có một đội ngũ cán bộ

tín dụng giỏi, được đào tạo có hệ thống, am hiểu và có kiến thức phong phú về thị

trường, nắm vững những văn bản pháp luật có liên quan đến hoạt động tín dụng…

Muốn vậy, ngân hàng cần quan tâm thích đáng đến việc đào tạo và đào tạo lại cán

bộ. Chi nhánh BIDV Thăng Long là ngân hàng có đội ngũ cán bộ đa số có trình độ

đại học và trên đại học đã được đào tạo qua các trường chính quy về ngành ngân

hàng. Tuy nhiên do đội ngũ nhân viên còn trẻ chưa có kinh nghiệm và trong thực tế,

do tính phức tạp của nền kinh tế thị trường, sự phức tạp và đầy khó khăn trong công

tác cho vay đối với DNNVV đòi hỏi cán bộ tín dụng luôn phải học hỏi trau dồi kiến

thức nghiệp vụ và cả kiến thức tông hợp khác một cách thường xuyên để đáp ứng

tính cập nhập của những vấn đề kinh tế hiện đại.

73



Thứ nhất, đối với công tác đào tạo, đào tạo lại: Cần phải trang bị lại các kiến

thức cơ bản cho cán bộ, giúp và tạo điều kiện cho họ tự học để có đủ trình độ phù

hợp với cương vị sẽ đảm nhiệm theo hai hình thức đào tạo tập trung và đào tạo theo

định hướng. Các đối tượng đào tạo theo hướng tập trung, chuyên ngành, trước hết

ưu tiên cho cán bộ tín dụng, kế toán, thanh toán quốc tế. Triển khai phổ cập tin học,

đào tạo hoặc tuyển dụng chuyên gia tin học có khả năng xây dựng, lập trình các

nghiệp vụ phát sinh của ngân hàng.

Thứ hai, công tác tuyển chọn, sử dụng cán bộ: tuyển chọn và sử dụng cán bộ

là những nội dung quan trọng trong tiêu chuẩn hóa và trẻ hóa cán bộ. Việc tuyển

chọn cán bộ trẻ thay thế lớp người sắp nghỉ hưu có ý nghĩa quuyết định tương lai

phát triển của ngân hàng. Kinh nghiệm từ các ngân hàng thương mại nước ngoài

cho thấy, hình thức tài trợ cho sinh viên và các cơ sở đào tạo : trường đại học, viện

nghiên cứu, trung tâm đào tạo… đã mang lại kết quả tốt cho ngân hàng về đội ngũ

cán bộ trẻ có năng lực đáp ứng nhu cầu thực tiễn. Cần tuyển chọn cán bộ mới thông

qua tuyển thi tuyển có một lớp cán bộ mới thực sự về chất. Làm tốt công tác tuyển

chọn cán bộ, các NHTMQD sẽ dần khắc phục tình trạng vừa thừa vừa thiếu cán bộ

như hiện nay.

Thứ ba, đối với cán bộ làm công tác chuyên môn nghiệp vụ trực tiếp liên

quan đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng như cán bộ tín dụng, cán bộ thẩm

định, cán bộ thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại tệ… thì phải đặt yêu cầu, tiêu

chuẩn về năng lực cao hơn, không những kiến thức về nghiệp vụ mà còn trang bị

cho họ trình độ cơ bản về thương mại, pháp luật, ngoại ngữ…

Thứ tư, bố trí nhân lực: Vấn đề bố trí nhân lực đóng vai trò quan trọng để sử

dụng cán bộ có hiệu quả, phát huy được năng lực, sở trường của họ. Đó là việc gắn

bó chặt chẽ giữa học và hành. Tránh tình trạng cán bộ đào tạo hoặc có kinh nghiệm

trong chuyên ngành này thì bố trí làm việc ở chuyên ngành khác, kể cả việc bổ

nhiệm cán bộ chủ chốt. Trong thời gian tới các NHTMQD cần bố trí cán bộ theo

đúng chuyên môn đào tạo và sở trường. Chức vụ phải tương xứng với khả năng,

kiên quyết điều chuyển các cán bộ không có khả năng, không thích hợp với yêu cầu

công tác.

74



- Đối với các dự án lớn, phức tạp, các khách hàng hoạt động đa dạng thì một

cán bộ dù giỏi đến đâu cũng khó có thể thẩm định được đầy đủ, chính xác, nhất là

thẩm định về mặt kĩ thuật, tính đồng bộ của thiết bị, công nghệ, giá của thiết bị, thị

trường tiêu thụ sản phẩm, các chi phí liên quan… của dự án, phương án vay vốn của

khách hàng. Chính vì vậy, vấn đề thuê chuyên gia kể cả các chuyên gia nước ngoài

là rất cần thiết. Để làm tốt điều này chi nhánh cần tập hợp đội ngũ chuyên gia, các

cộng tác viên, nghệ nhân giỏi ngoài ngân hàng cùng tham gia thẩm định dự án,

phương án vay vốn.

- Mô hình tổ chức hoạt động của ngân hàng nên cải tiến theo phương thức

“hướng vào khách hàng” tức là khách hàng được hướng dẫn cụ thể, tỉ mỉ các dịch

vụ mà ngân hàng cung cấp thông qua một đầu mối duy nhất. Theo mô hình này,

phòng quan hệ khách hàng nên có bộ phận chuyên tiếp nhận những yêu cầu của

khách hàng, hướng dẫn khách hàng làm những thủ tục cần thiết theo quy định, thực

hiện việc kiểm tra và xử lý các thông tin mà khách hàng cung cấp. Sau đó bộ phận

hoặc phòng này sẽ tự động chuyển các hồ sơ chứng từ có liên quan đến bộ phận xử

lý nghiệp vụ để giải quyết. Như vậy, khi khách hàng đến giao dịch với ngân hàng

chỉ phải giao dịch qua một cửa, hơn nữa chính bộ phận này lại nắm được thông tin

về khách hàng một cách tổng hợp, đầy đủ cả về năng lực lẫn uy tín của khách hàng.

Từ đó có những quyết định đúng đắn, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động kinh

doanh của ngân hàng.

3.2.8. Nâng cao khả năng phòng ngừa và kiểm soát các rủi ro trong hoạt động

kinh doanh của chi nhánh NHĐT&PT Thăng Long

- Chủ động giải quyết các khoản nợ vay có vấn đề: Trong công tác thu hồi nợ

cần chú ý phát hiện các khoản nợ vay có vấn đề để có biện pháp xử lý kịp thời,

giảm thiểu rủi ro xuống mức thấp nhất có thể. Các dấu hiệu nhận biết một khoản

vay có vấn đề:

+ Các dấu hiệu từ môi trường khách quan như: Các thảm hoạ thiên nhiên,

các biến động xấu về môi trường kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, cạnh tranh có

ảnh hưởng xấu tới khả năng trả nợ của doanh nghiệp.

+ Các dấu hiệu liên quan đến nghĩa vụ trả nợ của khách hàng với ngân hàng

như: khách hàng không trả nợ vay đúng thời hạn; khách hàng gặp khó khăn trong

việc chứng minh mục đích sử dụng vốn vay; khách hàng trì hoãn nộp các báo cáo

75



tài chính cần thiết; hoặc khách hàng chậm trễ trong việc bố trí cho cán bộ ngân hàng

đến kiểm tra cơ sở sản xuất kinh doanh.

+ Các dấu hiệu rủi ro xuất phát từ khách hàng như: phương thức quản lý của

khách hàng, doanh nghiệp gặp khó khăn trong phát triển sản phẩm mới, doanh

nghiệp kinh doanh thua lỗ, tỷ lệ hoặc các khoản phải thu tăng với tỷ lệ không hợp

lý, khả năng tiền mặt của doanh nghiệp giảm, hoặc doanh nghiệp có dấu hiệu làm

đẹp báo cáo tài chính thông qua việc bổ sung giá trị tài sản vô hình hay thông qua

việc đánh giá lại tài sản hay doanh nghiệp thay đổi phương thức hạch toán.

Đồng thời Chi nhánh có thể xử lý các khoản nợ có vấn đề bằng các biện

pháp sau:

+ Khai thác nợ: là biện pháp mà ngân hàng thực hiện bằng cách chủ động

làm việc với doanh nghiệp để doanh nghiệp trả nợ mà không cần dùng tới các công

cụ pháp lý để ép buộc.

+ Bán nợ: chi nhánh có thể thực hiện việc phối hợp với các công ty mua bán

nợ tài chính để bán lại những khoản nợ xấu hiện đang tồn tại ở chi nhánh. Dù rằng

giải pháp này có thể sẽ làm chi nhánh phải gánh chịu một phần thiệt hại nhưng sẽ là

phương án tốt giúp cho chi nhánh có thể thu hồi được phần lớn nợ khó đòi còn tồn

tại ở chi nhánh trong thời gian qua.

+ Thanh lý nợ: là biện pháp ngân hàng yêu cầu doanh nghiệp vay vốn thực

hiện các điều khoản về xử lý nợ đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. Khi áp dụng

biện pháp này ngân hàng thường sử dụng các công cụ pháp lý để thu hồi nợ.

- Tăng cường công tác kiểm tra và kiểm soát nội bộ của ngân hàng. Để nâng

cao chất lượng kiểm soát nội bộ cần phải thực hiện các nguyên tắc sau:

+ Tạo môi trường kiểm soát tốt, nghĩa là xây dựng quy chế, quy trình nghiệp

vụ và các hướng thực hiện các quy định trong hoạt động kinh doanh kịp thời, đồng

bộ và có hiệu lực thi hành nghiêm túc, chấn chỉnh ý thức chấp hành của cán bộ,

nhân viên ngân hàng.

+ Cần tổ chức hệ thống kiểm soát nội bộ tốt, phân công trách nhiệm rõ ràng.

Thường xuyên thực hiện kiểm tra thực hiện kiểm tra chéo giữa các cán bộ tín dụng,

giữa các phòng tín dụng, phát hiện sai sót để chỉnh sửa kịp thời. Bộ phận kiểm tra

tại ngân hàng phải làm tốt nhiệm vụ phát hiện và ngăn ngừa các hành vi vi phạm cơ

76



chế quy trình nghiệp vụ tín dụng, hạn chế đến mức thấp nhất những rủi ro có thể

xảy ra.

+ Đề cao tính độc lập của tổ chức và hoạt động của kiểm soát nội bộ. Phải tôn

trọng nguyên tắc này thì mới phát huy được hiệu lực, hiệu quả của kiểm soát nội bộ.

3.3 Một số kiến nghị

3.3.1 Kiến nghị với nhà nước, chính phủ, và các ban ngành có liên quan

Vai trò của DNNVV trong sự phát triển của kinh tế đất nước là không thể

phủ nhận. Đảng và nhà nước đã đưa ra nhiều chính sách hỗ trợ DNNVV. Tuy nhiên

vẫn còn một số hạn chế nhất định, khó khăn lớn nhất của các DNNVV hiện nay,

bao gồm thiếu vốn, đào tạo nghề kém, thiếu thông tin về thị trường và mối quan hệ

với các cơ quan công quyền còn hạn chế.

Muốn DNNVV phát triển, thì phải tạo chính sách, môi trường kinh doanh

thuận lợi, minh bạch, công khai cho họ hoạt động. Chính sách phải quy định rõ

ràng, trong đó bao gồm cả các quy định cụ thể về vai trò của các cơ quan nhà nước

chịu trách nhiệm hỗ trợ DNNVV phát triển. Thủ tục hành chính cũng cần được cải

cách, rồi cả chuyện hỗ trợ đào tạo nghề, giúp tiếp cận thị trường, thông tin thị

trường… Hơn nữa, khi doanh nghiệp gặp khó khăn thì phải tháo gỡ. Ví dụ như

chuyện thiếu vốn hiện nay, phải có cơ chế giúp họ tiếp cận vốn vay. Muốn khắc

phục được điều này, chính sách mà nhà nước đưa ra phải phù hợp với tình hình

chung của doanh nghiệp, trong đó cần phải được bổ sung theo hướng như sau:

3.3.1.1 Thiết lâp khung pháp lí cho DNNVV

Trước hết, chính phủ cần nhanh chóng thiết lập khuôn khổ chính sách cơ

bản, tạo môi trường pháp lí đầy đủ để DNNVV tiến hành hoạt động sản xuất kinh

doanh ổn định, phát triển. Đối với DNNVV Việt Nam đã đến lúc cần đưa ra tiêu chí

phân loại doanh nghiệp như ban hành luật DNNVV, luật hỗ trợ DNNVV. Tiếp tục

hoàn thiện hệ thống pháp luật để khuyến khích DNNVV yên tâm hoạt động kinh

doanh theo đúng pháp luật như ban hành chính sách hỗ trợ, bảo vệ DNNVV như:

Chính sách thương mại. thuế, đất đai…

Thứ nhất, chính phủ sớm thành lập một tổ chức của nhà nước làm đầu mối

phối hợp với các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội để nghiên cứu và đề xuất các

cơ chế, chính sách hỗ trợ DNNVV. Hiện nay, có rất nhiều tổ chức hỗ trợ như trung

77



tâm hỗ trợ DNNVV của Vụ Công nghiệp (KH&ĐT), liên minh các hợp tác xã, hiệp

hội công thương, câu lạc bộ hỗ trợ DNNVV. Nhưng công tác hỗ trợ còn phân tán,

hiệu quả thấp, chưa thống nhất quản lí DNNVV về mặt quản lí một cách rõ ràng. Vì

vậy để tăng tính hiệu lực thì cần phải có cơ quan đầu mối quản lí nhà nước. Cơ quan

này sẽ chịu trách nhiệm tham mưu giúp chính phủ tạo môi trường thuận lợi cho

DNNVV phát triển.

Thứ hai, ban hành các đạo luật cơ bản, tạo môi trường pháp lí cần thiết để

DNNVV dễ dàng thực hiện các biện pháp đảm bảo nghĩa vụ trả nợ với các ngân

hàng, dễ dàng xử lí tài sản đảm bảo nợ khi có rủi ro. Góp phần tạo sự đảm bảo chắc

chắn hơn cho các NHTM và sau đó khuyến khích họ trong việc vay vốn đối với các

DNNVV, cụ thể:

Ban hành luật sở hữu tài sản và các văn bản dưới luật quy định rõ ràng chắc

năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan quản lí nhà nước về chứng thư sở hữu

tài sản. Thêm nữa các cơ quan công chứng nhà nước phải đảm bảo các giấy tờ mà

mình công chứng cho doanh nghiệp là hoản toàn đúng với bản gốc để các ngân

hàng có căn cứ chính xác để thẩm định các giấy tờ đảm bảo vay vốn của doanh

nghiệp, chính phủ phải có quy định rõ ràng về vấn đề này.

Ban hành các văn bản dưới luật, hướng dẫn thực hiện việc xử lí, phát mại tài

sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh. Cần đưa ra một quy trình thủ tục riêng biệt, độc lập

hơn cho các ngân hàng để xử lí tài sản thế chấp khi người vay không trả được nợ.

Việc xử lý phải thực hiện trên nguyên tắc bảo vệ quyền cho các bên sở hữu tài sản

thông qua thủ tục phát mại, bán đấu giá. Nếu quá trình đó không thực hiện được thì

ngân hàng cho vay có toàn quyền trong việc phát mại tài sản để thu hồi nợ .

Chính sách thuế: hiện nay, chúng ta có nhiều loại thuế suất khác nhau với

nhiều mức thuế như: Thuế tiêu thụ đặc biệt có 4 mức từ 0-20%, thuế giá trị gia tăng

trong nước có 12 mức, thuế chuyển quyền sử dụng đất có 7 mức từ 0-50%. Việc tồn

tại nhiều loại thuế không chỉ làm méo mó bức tranh cạnh tranh trên thị trường mà

còn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp và cán bộ thuế “thỏa thuận” với nhau trong

việc xác định mức thuế. Chính sách thuế ở Việt Nam vẫn chủ yếu hướng vào vùng,

sản phẩm và thành phần kinh tế. Chính sách này không khuyến khích theo qui mô

doanh nghiệp và như vậy hoàn toàn chưa khuyến khích được DNNVV. Chính vì

78



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

×