Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 95 trang )
Email: bidv@hn.vnn.vn
NHĐT&PTVN thành lập ngày 26/4/1957 với tên gọi đầu tiên là Ngân hàng
Kiến thiết Việt Nam.
Ngày 24/06/1981 đổi tên thành Ngân hàng Đầu tư và Xây Dựng Việt Nam
Ngày 14/11/1990 đổi tên thành Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam,
tên gọi tắt là BIDV.
NHĐT&PTVN là một trong các ngân hàng có mạng lưới hoạt động lớn nhất
trong hệ thống ngân hàng tại Việt Nam, được chia thành hai khối:
-
Khối kinh doanh: hoạt động trong các lĩnh vực
Ngân hàng thương mại: BIDV có 114 chi nhánh cấp 1 với gần 400 điểm
giao dịch, hơn 800 máy ATM và hàng chục ngàn điểm POS trên phạm vi toàn lãnh
thổ. Trong đó, có hai đơn vị chuyên biệt là Ngân hàng chỉ định thanh toán phục vụ
thị trường chứng khoán Nam Kì Khởi Nghĩa và Ngân hàng bán buôn phục vụ làm đại
lý uỷ thác giải ngân vốn ODA (Sở giao dịch 3)
Chứng khoán: Công ty chứng khoán BIDV gọi tắt là BSC
Bảo hiểm: Công ty bảo hiểm BIDV (BIC) gồm Hội sở chính và 10 chi nhánh.
Đầu tư – Tài chính: Công ty cho thuê tài chính I, II. Công ty đầu tư tài chính
(BFC), Công ty quản lý quỹ công nghiệp và năng lượng, các liên doanh: Công ty
quản lý đầu tư BVIM, Ngân hàng liên doanh VID Public (VID Public Bank). Ngân
hàng liên doanh Việt – Lào (LVB), Ngân hàng liên doanh Việt – Nga (VRB), Công
ty liên doanh tháp BIDV.
- Khối sự nghiệp: Trung tâm đào tạo BTC và Trung tâm công nghệ thông
tin BITC.
2.1.2 Quá trình hình thành và phát triển của Chi nhánh Ngân hàng ĐT & PT
Thăng Long
Chi nhánh ngân hàng đầu tư và phát triển Thăng Long là một trong số 114 chi
nhánh thuộc hệ thống Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam. Tiền thân của chi
nhánh là một phòng chuyên quản trực thuộc Ngân hàng kiến thiết trung ương theo
quyết định số 103/TC-QĐ-NH ngày 03 tháng 4 năm 1974 với nhiệm vụ chính là cấp
phát, thanh toán và kiểm soát vốn đầu tư xây dựng cơ bản cho công trình cầu Thăng
Long. Phòng có trụ sở tại xã Đông Ngạc – Từ Liêm – Hà Nội. Theo quyết định số
32
75/NH-QĐ ngày 17 tháng 7 năm 1981 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam, phòng mang tên “Chi nhánh ngân hàng đầu tư xây dựng cầu Thăng Long”,
được giao nhiệm vụ quản lý cấp phát các nguồn vốn dành cho đầu tư xây dựng cơ
bản, thực hiện thanh toán và tiến hành cho vay, quản lý tiền mặt, kiểm soát chi tiêu
quỹ tiền lương trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản. Để phù hợp với cơ cấu tổ
chức bộ máy Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, năm 1991 theo quyết định
số 38 NH/QD ngày 02 tháng 4 năm 1991 của thống đốc ngân hàng Nhà nước Việt
Nam chi nhánh được đổi tên thành Chi nhánh ngân hàng đầu tư và phát triển Thăng
Long trực thuộc Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam và chuyển trụ sở làm việc
ra địa điểm tại đường cao tốc Thăng long thuộc xã Cổ nhuế - Từ liêm – Hà nội. Đến
năm 1994, Thống đốc ngân hàng Nhà nước Việt Nam ra quyết định số 38 NH/QĐ NH ngày 10 tháng 11 năm 1994 điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ của Chi nhánh
ngân hàng đầu tư và phát triển Thăng Long, cho phép chi nhánh được chuyển sang
hoạt động như một ngân hàng thương mại trực thuộc Ngân hàng đầu tư và phát triển
Việt Nam. Đây là bước ngoặt trong quá trình tồn tại và phát triển của Chi nhánh.
Để nâng cao năng lực canh tranh trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
đang đến gần, hệ thống các Ngân hàng thương mại Việt nam cần phải nhanh chóng
thực hiện dự án hiện đại hóa ngân hàng. Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam
nói chung và Ngân hàng đầu tư và phát triển Thăng Long nói riêng cũng đang trong
quá trình hiện đại hóa ngân hàng. Quá trình này đòi hỏi Ngân hàng đầu tư và phát
triển Thăng Long phải sắp xếp cơ cấu tổ chức cho phù hợp.
Đến đầu năm 2009 Trụ sở BIDV Thăng Long đã được di chuyển ra địa điểm
mới khang trang và thuận tiện hơn tại số 8 Phạm Hùng - Cầu giấy - Hà nội. Việc
chuyển trụ sở này sẽ tạo đà cho BIDV Thăng Long mở rộng nền khách hàng cả về
dân cư và tổ chức.
Hiện nay BIDV đã chuyển đổi sang mô hình tổ chức mới TA2 đây là một mô
hình hiện đại, tiên tiến với mục tiêu xây dựng BIDV thành ngân hàng đa sở hữu
kinh doanh đa lĩnh vực, hoạt động theo thông lệ quốc tế, chất lượng ngang tầm các
ngân hàng tiên tiến trong khu vực Đông Nam á.
Tuy nhiên mô hình TA2 mới chỉ được áp dụng về mặt lý luận trên thực tế thì
mô hình trên chưa thực sự được vận hành một cách hiệu quả, việc vận dụng còn
chồng chéo chưa thống nhất, còn sự đan xen giữa mô hình cũ và mới.
33
Mô hình cũ việc quản lý vốn của Trung Ương chỉ được thực hiện theo tháng
hoặc quý sau khi nhận báo cáo tổng hợp số liệu về nguồn và các chỉ tiêu khác từ các
chi nhánh đưa lên và theo cơ chế vay và cho vay để điều chuyển vốn nội bộ, hiện
nay vốn của các chi nhánh được quản lý một cách thống nhất tại hội sở chính thông
qua cơ chế mua bán vốn, hàng ngày hội sở chính đều nắm bắt được tổng nguồn vốn
của từng chi nhánh từ đó chủ động điều chuyển vốn trong hệ thống tạo ra sự lưu
thông vốn một cách hiệu quả nhất.
Theo mô hình TA2 các phòng quan hệ khách hàng có chức năng huy động
vốn và chịu trách nhiệm về kết quả huy động vốn. Bộ phận giao dịch khách hàng
tức bộ phận tác nghiệp chỉ có trách nhiệm cung cấp sản phẩm dịch vụ của ngân
hàng cho khách hàng, trách nhiệm của bộ phận này là đáp ứng một cách tốt nhất
nhu cầu của khách hàng. Bộ phận quản lý rủi ro chịu trách nhiệm giám sát và xử lý
mọi rủi ro đảm bảo an toàn tối đa cho hoạt động của ngân hàng. Theo mô hình này
hoạt động của ngân hàng sẽ hoạt động hiệu quả và an toàn.
BAN
Mô hình cũ
GIẤM ĐỐC
Khối
Tín Dụng
Khối DVKH
Khối QLNB
Các
Phòng DVKH
Phòng Tín Dụng
Phòng
Thẩm Định
Phòng Tiền Tệ Kho
Quỹ
Phòng Thanh toán
Quốc Tế
Phòng QLTD
Khối Trực Thuộc
Phòng KTNB
9 Phòng GD
Phòng Điện Toán
Phòng TC-KT
TC-HC
KH-NV
Mô hình TA2
BAN GIÁM ĐỐC
Khối QHKH
Khối QHKH
Các phòng
QHKH
Khối QLRR
Phòng QLRR
Khối Tác nghiệp
34
Phòng QTTD
Các phòng
Khối QLNB
Khối trực thuộc
Phòng tài chínhkế toán
Các Phòng
Giao dịch
Sơ đồ 2.1: Bộ máy tổ chức của BIDV Thăng Long
(Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 2009-2010-2011 BIDV Thăng Long)[6]
2.2. Kết quả hoạt động kinh doanh của Chi nhánh NHĐT&PT Thăng Long.
2.2.1. Bối cảnh nền kinh tế năm 2011.
Năm 2011, ngành Ngân hàng đã triển khai nhiệm vụ trong bối cảnh kinh tế
thế giới phục hồi chậm và tiếp tục có những biến động phức tạp, khó lường, tác
động nhiều mặt đến nước ta. Kinh tế trong nước tăng trưởng chậm, lạm phát tăng
cao, kinh tế vĩ mô tiềm ẩn rủi ro; các ngân hàng đối mặt với khó khăn về thanh
khoản và nợ xấu... Tuy nhiên, dưới sự chỉ đạo sát sao của Đảng, Chính phủ, cùng
với sự phối hợp của các cấp, các ngành, sự cố gắng, nỗ lực của toàn thể cán bộ,
công chức, viên chức và người lao động trong ngành từ Trung ương đến địa
phương, ngành đã hoàn thành xuất sắc những mục tiêu và nhiệm vụ đặt ra trong
năm qua.
Hệ thống ngân hàng đã thực sự là huyết mạch và đáp ứng trên 80% nhu cầu
vốn cho nền kinh tế. Tín dụng ngân hàng đã được đầu tư hiệu quả và điều chỉnh
mạnh mẽ theo hướng tập trung cho các lĩnh vực, ngành kinh tế trọng điểm, góp
phần tăng hiệu quả đầu tư toàn xã hội, mang lại kết quả ấn tượng trên các lĩnh vực
sản xuất nông nghiệp, nông thôn và xuất khẩu. Đặc biệt, trong năm 2011, ngành đã
chủ động điều hành chính sách tiền tệ chặt chẽ, linh hoạt và phù hợp với tình hình
thực tế, cùng với các giải pháp đồng bộ khác, góp phần quan trọng vào kết quả kiềm
chế lạm phát, ổn định vĩ mô, tăng trưởng kinh tế hợp lý và đảm bảo an sinh xã hội.
35
NHNN và toàn ngành ngân hàng đã triển khai thực hiện các giải pháp, chính
sách tiền tệ chặt chẽ và thận trọng, kiểm soát tốc độ tăng tổng phương tiện thanh
toán và tín dụng ở mức thấp hơn đáng kể so với chỉ tiêu của Chính phủ đề ra trong
Nghị quyết số 11/NQ-CP, góp phần tích cực kiềm chế lạm phát và từng bước giảm
dần tốc độ tăng giá. Ước cả năm 2011, tổng phương tiện thanh toán (M2) ước tăng
khoảng 10% so với tháng 12/2010 (chỉ tiêu là khoảng 15-16%); tổng dư nợ tín dụng
tăng khoảng 12% (chỉ tiêu là dưới 20%).
NHNN đã chỉ đạo các tổ chức tín dụng (TCTD) kiểm soát tăng trưởng tín
dụng; giám sát việc bảo đảm các tỷ lệ an toàn trong hoạt động cũng như tình hình
thanh khoản của các TCTD; xử lý nghiêm các vi phạm phát sinh; tăng cường công
tác thông tin truyền thông; tổ chức các cuộc đối thoại giữa NHNN với các ngân
hàng thương mại (NHTM) có thị phần lớn để nắm bắt diễn biến thị trường tiền tệ,
tìm ra các giải pháp nhằm tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc; đưa ra khỏi danh mục
tín dụng phi sản xuất đối với một số loại hình cho vay;... Nghiệp vụ thị trường mở
được điều hành linh hoạt với khối lượng và lãi suất hợp lý nhằm kiểm soát và ổn
định thị trường tiền tệ, hạn chế tối đa sử dụng các biện pháp hành chính.
Lãi suất huy động tăng cao ở những tháng đầu năm, nhưng từ tháng 9/2011,
hầu hết các NHTM thực hiện nghiêm túc quy định của NHNN về trần lãi suất huy
động bằng VND ở mức không quá 14%/năm. Lãi suất liên ngân hàng ở mức cao
trong 4 tháng đầu năm nhưng đã giảm từ tháng 5/2011 đến nay, đặc biệt là đối với
lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu từ mức phổ biến 18-21%/năm
xuống còn 16-19%/năm. Bên cạnh đó, cơ cấu tín dụng chuyển dịch theo chiều
hướng tích cực, phù hợp với chỉ đạo của Chính phủ; thanh toán không dùng tiền
mặt ngày càng phát triển.
Thị trường ngoại hối ổn định hơn sau khi tăng giá mạnh vào đầu năm; chênh
lệch tỷ giá thị trường chính thức và thị trường tự do được thu hẹp; trạng thái ngoại
hối của các ngân hàng được cải thiện. Dự trữ ngoại hối đã tăng từ 3,5 tuần nhập
khẩu trong quý I/2011 lên khoảng 7,5 tuần nhập khẩu vào quý III/2011. NHNN Việt
Nam đã triển khai nhiều biện pháp nhằm ổn định thị trường vàng. Đến nay, mặc dù
giá vàng thế giới vẫn ở mức cao nhưng chênh lệch giữa giá vàng trong nước và thế
giới đã giảm đáng kể. Các quy định về tín dụng, ngân hàng được rà soát, sửa đổi
36
theo hướng an toàn và chặt chẽ hơn; chuẩn bị tích cực Đề án tái cơ cấu hệ thống
ngân hàng thương mại theo hướng an toàn, bền vững; bước đầu đã hợp nhất 03
ngân hàng thương mại và giao 01 ngân hàng thương mại quốc doanh đại diện phần
vốn nhà nước tại ngân hàng hợp nhất.
Bước sang năm 2012, các DNNVV Việt Nam sẽ còn phải đương đầu với rất
nhiều khó khăn và thử thách đến từ những biến động của nền kinh tế thế giới và
trong nước. Lãi suất cho vay của các NHTM dao động từ 18-21%/năm. Đây là mức
chi phí không nhỏ đối với các DNNVV. Do vậy mà các DNNVV cần phải có những
điều chỉnh, phương án kinh doanh hợp lý để có thể kết thúc năm với một kết quả
tốt. Các NHTM cũng cần có những chính sách cho vay ưu tiên đối với các DNNVV
vì sự phát triển chung của nền kinh tế và của chính ngành Ngân hàng.
2.2.2 Một số kết quả hoạt động chính của Chi nhánh NHĐT&PT Thăng Long.
2.2.2.1 Hoạt động huy động vốn
Huy động vốn là một hoạt động quan trọng đầu tiên của ngân hàng nhằm tạo
ra nguồn đầu vào quan trọng để cho vay và đầu tư khác. Do vậy cũng như các ngân
hàng khác, Chi nhánh NHĐT&PT Thăng Long cũng xác định mục tiêu quan trọng
hằng năm là đẩy mạnh công tác huy động vốn, phấn đấu tổng nguồn vốn tăng
trưởng bình quân 10% - 15% so với năm trước. Dựa vào những thế mạnh vốn có
với hệ thống phòng giao dịch nằm ở vị trí đông dân cư, thu nhập bình quân đầu
người cao, Chi nhánh NHĐT&PT Thăng Long ngày càng thu hút được nhiều khách
hàng đến giao dịch làm cho tốc độ huy động vốn của ngân hàng tăng trưởng và đạt
được kết quả sau:
Bảng 2.1: Tình hình huy động vốn của BIDV Thăng Long
Đơn vị: tỷ đồng
Năm 2009
Chỉ tiêu
ST
ST
%
3.159
100
Năm 2010
So với năm
2009
%
ST
%
434
13,74
ST
Năm 2011
So với năm
2010
%
ST
%
393
11
Tổng nguồn vốn huy
động
3.593
100
I. Theo thời gian
37
3.986
100
1. Ngắn hạn
2.346
2.549
71
203
9
3.086
77,4
537
21,1
813
25,8
1.044
29
231
28
900
22,6
-144
-13,8
1.149
36,3
1.348
37,5
199
17
1.854
46,5
506
37,5
2.010
2. Trung dài hạn
74,2
63,7
2.245
62,5
235
12
2.132
53,5
-113
-5,03
II.Theo đối tƣợng
1. Tiền gửi của dân cư
2. Tiền gửi của TCKT,
TCTD
(Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 2009-2010-2011 BIDV Thăng Long)[6]
Đơn vị: tỷ đồng
Biểu đồ 2.1: Tình hình huy động vốn của BIDV Thăng Long
(Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 2009-2010-2011 BIDV Thăng Long)[6]
Năm 2010 tổng số dư huy động vốn của BIDV Thăng Long đạt 3.593 tỷ
đồng đạt 113% kế hoạch cả năm 2010, tăng 434 tỷ đồng so với năm 2009 (tỷ lệ tăng
tương ứng là 13,74%). So sánh với các ngân hàng trên địa bàn quận Cầu Giấy nói
chung thì con số này là cao hơn do chi nhánh khác chỉ tăng có 10,5%. Sang năm
2011, tổng nguồn vốn huy động của ngân hàng là 3.986 tỷ đồng tăng 393 tỷ đồng so
với năm 2010 tương ứng với tỷ lệ tăng là 11%. Trong khi các ngân hàng trên cùng
địa bàn chỉ đạt tốc độ tăng 3% - 10% thì tỷ lệ tăng trưởng nguồn vốn của chi nhánh
38
đạt tỷ lệ cao. Trong 3 năm từ 2009 đến 2011, nền kinh tế thế giới có nhiều biến
động phức tạp, kinh tế Việt Nam nói chung và hoạt động kinh doanh ngành ngân
hàng nói riêng còn gặp nhiều khó khăn đặc biệt là giai đoạn năm 2011, NHNN đã 2
lần tăng lãi suất chiết khấu từ 7% năm 2010 lên 13%, 4 lần tăng lãi suất tái cấp vốn
từ 9% lên 15%. Lãi suất leo thang từ tháng 5/2011, có thời điểm huy động lên tới
18%-19% tại các NHTMQD và 20%-22% tại các NHTMCP. Qua đó thì những số
liệu về tổng nguồn huy động vốn qua từng năm ở trên của BIDV Thăng Long cho
thấy Chi nhánh luôn có sự cố gắng, nỗ lực để đạt được kết quả tốt. Có được thành
quả này là do Chi nhánh luôn xác định huy động vốn là nhiệm vụ trọng tâm hàng
đầu trong hoạt động kinh doanh của mình. Vì vậy Chi nhánh đã tập trung mọi
nguồn lực, triển khai các sản phẩm tiền gửi tiện ích nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng
của khách hàng, đồng thời tăng cường công tác chăm sóc và tiếp thị khách hàng.
Hơn nữa, Chi nhánh lại tận dụng khá tốt về lợi thế vị trí các phòng giao dịch của
mình là tọa lạc trên địa bàn quận Cầu Giấy, Mỹ Đình, Từ Liêm. (Nơi đang dần trở
thành trung tâm thương mại, hành chính của Hà Nội) cũng như là lợi thế về thương
hiệu của ngân hàng. Chính những điều này đã góp phần duy trì sự ổn định, tăng
trưởng nguồn vốn huy động của BIDV Thăng Long.
Phân tích cơ cấu nguồn vốn
+ Về cơ cấu nguồn vốn huy động theo kì hạn
Nguồn vốn ngắn hạn chiếm tỷ lệ cao và tăng dần qua các năm. Năm 2009,
nguồn vốn ngắn hạn chiếm 2.346 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 74,2%trong tổng nguồn
vốn huy động. Năm 2010 nguồn vốn huy động ngắn hạn là 2.549 tỷ đồng chiếm
71% tổng nguồn vốn huy động tăng 203 tỷ đồng so với năm 2008 tương ứng với tỷ
lệ tăng 9%. Và đến năm 2011 nguồn vốn ngắn hạn tăng 537 tỷ đồng với tỷ lệ tăng
21,1%. Huy động vốn ngắn hạn của Chi nhánh vẫn chiếm tỷ trọng chủ yếu/Tổng
HĐV và có xu hướng gia tăng, nguyên nhân do lạm phát của nền kinh tế, biến động
mạnh về lãi suất, chính sách lãi suất của Ngân hàng dẫn đến người gửi tiền chủ yếu
tập trung gửi tiền kỳ hạn ngắn.
Nguồn vốn trung dài hạn huy động được ít hơn và chỉ chiếm tỷ trọng
nhỏ/Tổng HĐV. Năm 2009 huy động được 813 tỷ đồng nguồn vốn dài hạn chiếm tỷ
lệ 25,8% trong tổng nguồn vốn. Năm 2010 nguồn vốn dài hạn là 1.044 tỷ đồng với
39
tỷ trọng 29% trong tổng nguồn vốn, tăng 231 tỷ đồng so với năm 2009 tương ứng
với tỷ lệ tăng là 28%, và đến năm 2011 nguồn vốn dài hạn dài hạn giảm 144 tỷ
đồng với tỷ lệ giảm 13,8%. Sở dĩ có sự sụt giảm này là do BHXH đã rút 140 tỷ
nguồn vốn TDH đến hạn trong năm 2011.
+ Về cơ cấu nguồn vốn huy động theo đối tượng huy động vốn
Tiền gửi của dân cư tại Chi nhánh Thăng Long luôn chiếm tỷ lệ nhỏ hơn so
với tiền gửi của các tổ chức kinh tế dù luôn có sự tăng đều qua các năm. Năm 2009,
số dư tiền gửi của dân cư là 1.149 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 36,3% trong tổng nguồn
vốn huy động, năm 2010 số dư tiền gửi của dân cư đã tăng lên tới 1.348 tỷ đồng,
chiếm tỷ lệ 37,5% trong tổng nguồn vốn huy động tăng 199 tỷ đồng so với năm
2009 tương ứng với tỷ lệ tăng 17%, Và tới năm 2011 số dư tiền gửi của dân cư là
1.854 tỷ đồng chiếm tỷ trọng là 46,5% so với tổng nguồn vốn huy động, tăng lên
506 tỷ đồng với tỷ lệ tăng tương ứng 37,5% so với năm 2010. Nếu nhìn vào số liệu
huy động vốn năm 2011 của Chi nhánh có thể thấy là tỷ trọng nguồn vốn huy động
từ dân cư đã có sự tăng lên rõ rệt so với các năm trước. Điều này là do Chi nhánh đã
nhận thấy rõ nguồn vốn huy động từ dân cư sẽ mang tính bền vững hơn nhiều so với
tiền gửi của các tổ chức kinh tế trong thời kỳ mà cả nền kinh tế thế giới và kinh tế
trong nước còn quá nhiều biến động và khó khăn.
Tiền gửi của tổ chức kinh tế tại Chi nhánh luôn chiếm tỷ trọng cao hơn
nguồn huy động từ dân cư trong cả 3 năm 2009 đến năm 2011. Năm 2010, số dư
tiền gửi của TCKT tại Chi nhánh là 2.245 tỷ đồng, chiếm 62,5 % trong tổng nguồn
huy động và đến năm 2011 thì con số này là 2.132 tỷ đồng, chiếm 53,5% trong tổng
nguồn huy động. Nhìn từ bảng số liệu huy động nguồn của Chi nhánh trong cả 3
năm 2009, 2010, 2011, có thể dễ dàng nhận thấy Chi nhánh thu hút khá tốt nguồn
tiền gửi của các TCKT. Điều này có được là do Chi nhánh có quan hệ tốt với các
TCKT lớn, có uy tín như: Công ty Thông tin di động (VMS), Tập đoàn Điện lực
Việt Nam (EVN), Công ty CP Hiệp Hòa… Tuy nhiên cũng có thể thấy số dư tiền
gửi của các TCKT tại Chi nhánh đang có sự giảm dần, trở nên cân bằng hơn so với
tỷ trọng huy động vốn từ dân cư. Nguyên nhân một phần là Chi nhánh đã tập trung
hơn cho việc huy động vốn từ dân cư, một phần là các TCKT đang cần nhiều tiền
hơn để đối phó với những khó khăn còn đang rất lớn cho cả nền kinh tế Việt Nam.
40
Mặc dù vấp phải sự cạnh tranh gay gắt giữa các NHTMCP khác, lãi suất huy
động tăng cao, công tác huy động vốn còn gặp nhiều khó khăn, nhưng chi nhánh
Thăng Long vẫn đạt được tốc độ tăng trưởng đều qua các năm. Nguyên nhân là do
ngân hàng đã thường xuyên theo dõi và điều chỉnh kịp thời lãi suất huy động để
đảm bảo tính cạnh tranh, thực hiện các trương trình khuyến mại với các phần quà và
giải thưởng hấp dẫn dành cho khách hàng gửi tiền… tác phong giao dịch và kĩ năng
làm việc của cán bộ, niềm nở, thân mật với khách hàng, chuyên nghiệp, chủ động
trong công tác tiếp thị để thu hút khách hàng. Tuy nhiên vẫn còn có những tồn tại
mà chi nhánh cần phải khắc phục như: Cảnh quan của các phòng giao dịch còn chưa
được bài trí chuyên nghiệp như ở một số NHTMCP, không đủ các máy photo, máy
in chứng từ phải sử dụng chung cho nhân viên làm việc nên nhiều khi đông khách,
khách hàng vẫn phải ngồi chờ mất thời gian gây tâm lý không tốt.
Hoạt động cho vay
Kết quả hoạt động cho vay của NHĐT&PT Thăng Long được thể hiện ở
bảng sau:
Bảng 2.2: Hoạt động cho vay của BIDV Thăng Long
Đơn vị: tỷ đồng
Năm 2009
Chỉ tiêu
ST
Năm 2010
So với năm
2009
%
ST
%
ST
Tổng dƣ nợ cho
vay
I. Theo thời
gian
1. Ngắn hạn
2. Trung dài hạn
II.Theo loại tiền
1. Cho vay VNĐ
2. Cho vay ngoại
tệ quy đổi VNĐ
III. Theo đối
tượng khách
hàng
1. Dư nợ bán lẻ
2. Dư nợ TCKT
%
2.779
100
3.669
100
890
2.183
596
78,5
21,5
2.772 75,5
897 24,5
589
301
27
51
2.321
83,5
2.866
78
545
458
16,5
803
22
431
2.348
15,5
84,5
ST
-1.157
-31,53
1.794
718
71,4
28,6
-978
-179
-35,28
-19,96
23
1.937
77
-929
-32,41
75
575
23
-228
-28,39
318
572
41
100
345
749 20,4
2.920 79,6
32,03 2.512
Năm 2011
So với năm
2010
%
ST
%
74
24
756
1.756
30
70
7
-1.164
0,93
-39,86
(Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 2009-2010-2011 BIDV Thăng Long)[6]
Đơn vị: tỷ đồng
Dƣ nợ tín dụng
4000
3500
3000
2500
2000
1500
Dư n? nợd?ng dụng
Dư tín tín
3669
2779
2512
1000
500
0
2009
2010
2011
Biểu đồ 2.2: Hoạt động tín dụng của BIDV Thăng Long
(Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 2009-2010-2011 BIDV Thăng Long)[6]
Theo bảng số liệu trên ta thấy, tổng dư nợ của Chi nhánh có sự biến động
khác nhau qua các năm. Năm 2009, tổng dư nợ cho vay là 2.779 tỷ đồng, năm 2010
dư nợ cho vay là 3.669 tỷ đồng, tăng 890 tỷ đồng so với năm 2009 tương ứng với
tốc độ tăng là 32,03%, năm 2011 dư nợ cho vay lại giảm tương đối mạnh là 1.157 tỷ
đồng so với năm 2010 tương ứng với tỷ lệ giảm 31,53%. Dư nợ tín dụng năm 2010
của chi nhánh tăng lên so với 2009 như số liệu ở trên nguyên nhân là do:
-
Sang tới năm 2010, Chính phủ thông qua gói kích cầu thứ 2 QĐ số
2072/QĐ-TTg ngày 11/12/2009 tiếp theo quyết định số 131/QĐ-TTg ngày
23/01/2009 về việc hỗ trợ lãi suất cho các tổ chức, cá nhân vay vốn tại Ngân hàng
để sản xuất kinh doanh. Theo đó trong năm 2010 các tổ chức, cá nhân đáp ứng được
điều kiện cho vay của quyết định này sẽ được giảm trừ số tiền lãi bằng 2%/năm tính
trên số tiền vay và thời hạn vay được hỗ trợ lãi suất tối đa là 24 tháng. Chính nhờ có
động lực này nên rất nhiều các tổ chức, cá nhân đã tiếp cận dễ dàng hơn với vốn vay
42