Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 122 trang )
101
+ Phấn đấu đến năm 2005, đạt bình quân 5,0 - 5,5m2 cây xanh/người;
năm 2010 đạt 7 - 7,5m2 cây xanh/người. [20]
Trên cơ sở nghiên cứu về phát triển kinh tế xã hội và quy hoạch của thủ
đô đến 2010, Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội đã đưa ra những dự báo bước
đầu về một số cân đối lớn giai đoạn 2006 - 2010. Theo đó, cơ cấu sử dụng đất
của Hà Nội tiếp tục có những thay đổi lớn. Đất nông nghiệp tiếp tục thu hẹp
diện tích để chuyển đổi thành đất chuyên dùng (cho phát triển giao thông,
công nghiệp) và đất ở đô thị. Giai đoạn này mỗi năm thành phố cần giải quyết
việc làm mới cho khoảng 90 - 100 nghìn lao động, để đảm bảo tỷ lệ thất
nghiệp ở mức hợp lý (5 - 6%) không gây ảnh hưởng tiêu cực đến phát triển
kinh tế và ổn định xã hội. Về dự báo vốn đầu tư phát triển, theo tính toán ban
đầu giai đoạn tới Hà Nội có khả năng đạt mức tăng trưởng bình quân 13 14%/năm. Như vậy, khả năng huy động vốn đầu tư toàn xã hội cho phát triển
trong giai đoạn 2006 - 2010 khoảng 223,5 nghìn tỷ đồng, chiếm khoảng 48%
tổng GDP giai đoạn này. Vốn đầu tư trong nước vẫn chiếm phần lớn, khoảng
80 - 85% tổng số vốn đầu tư trên toàn địa bàn. Trong đó tỷ trọng vốn đầu tư
của dân cư và doanh nghiệp trong nước chiếm khoảng 52% tổng vốn đầu tư.
Vốn đầu tư từ ngân sách và có tính chất ngân sách do địa phương quản lý
trong kế hoạch 5 năm (2006 - 2010) dự kiến khoảng 24 nghìn tỷ đồng và sẽ
tiếp tục được đầu tư phần lớn cho phát triển hạ tầng kinh tế, kỹ thuật và xã
hội. Hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội dự kiến sẽ chiếm trên 17% tổng vốn đầu tư
có nguồn gốc ngân sách và ngân sách thành phố. [48]
Quy hoạch vùng thủ đô Hà Nội được xác định với 7 tỉnh: Hà Tây, Hòa
Bình, Vĩnh Phú, Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương. Tổng diện tích của quy
hoạch vùng nói trên là 13.400km2, dân số 12 triệu người. Hiện tại, tỷ lệ đô thị
hóa gần 60%, nhiều chuyên gia cho rằng Hà Nội sẽ có tỷ lệ đô thị hóa khoảng
102
60 - 65% vào năm 2010 và 80% vào năm 2020. Dân số tương ứng khoảng 3,5
triệu và 4,5 triệu người. [36]
Đến nay, trên toàn thành phố Hà Nội hiện đã xác lập 180 khu đô thị mới
với qũy đất khoảng 2.500 ha. Quy mô diện tích sàn xây dựng khoảng 20 triệu
m2, trong đó 20 dự án có diện tích từ 40 - 400 ha; 23 dự án có diện tích trên
20ha.
Cơ cấu sử dụng đất của thành phố trong tương lai với không gian mở
theo hướng Bắc và Tây Bắc, hướng Tây và Tây Nam. Hướng phát triển lâu
dài của thành phố chủ yếu về phía Tây, Tây Nam (Miếu Môn - Xuân Mai Hòa Lạc Sơn Tây của tỉnh Hà Tây) một phần phía Bắc Thành phố: cụm đô thị
Sóc Sơn (thành phố Hà Nội), Xuân Hoà- Đại Lải- Phúc Yên (tỉnh Vĩnh Phúc)
và các đô thị khác nhằm khai thác lợi thế về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên,
giao thông và cơ sở hạ tầng của các đô thị vệ tinh. Trước mắt, hướng mở rộng
thành phố Hà Nội trung tâm về phía Tây Bắc, Tây Nam và phía Bắc, trong đó
ưu tiên cho đầu tư phát triển khu vực phía Bắc sông Hồng, nghiên cứu chỉnh
trị sông Hồng, hoàn thành phương án và tổ chức thực hiện quy hoạch, khai
thác hai bên sông Hồng.
Bảng 3.1: Dự báo cơ cấu sử dụng đất đến 2010.
Chỉ tiêu
Đơn vị tính: %
Năm 2000 Năm 2005
Năm 2010
Tổng diện tích đất tự nhiên
100
100
100
1. Diện tích đất đô thị
12,4
21,1
31,8
2. Diện tích đất thổ cư nông thôn
7,3
3,5
1,9
3. Đất dành cho các khu đặc biệt
1,1
6,8
8,6
4. Đất xây dựng giao thông
5,6
6,8
7,9
5. Đất dành cho thủy lợi
5,3
5,9
6,3
6. Đất không bố trí kinh tế
7,8
7,8
7,8
103
7. Đất mục đích khác và chưa sử dụng
5,6
8. Đất nông lâm nghiệp
0,8
55,4
48,1
Nguồn: UBND TP. Hà Nội (Cổng giao tiếp điện tử Hà Nội)
0,8
44,4
Qua bảng dự báo cơ cấu sử dụng đất trên có thể thấy Hà Nội đang trong
qúa trình đô thị hóa mạnh. Nếu như năm 2000 diện tích đất đô thị chỉ chiếm
12,4% thì dự báo đến 2005 là 21,1%, năm 2010 sẽ là 31,8% tổng diện tích đất
tự nhiên. Diện tích đất chưa sử dụng sẽ không còn: giai đoạn 2005 - 2010 đất
mục đích khác và chưa sử dụng là 0,8%. Khu vực nông thôn ngày càng bị thu
hẹp khi đất nông lâm nghiệp năm 2000 là 55,4%, đến 2010 sẽ còn 44,4%; đất
thổ cư nông thôn năm 2000 là 7,3%, năm 2005 là 3,5% và đến 2010 chỉ còn
1,9% tổng diện tích đất tự nhiên của thành phố.
3.1.1 Quan điểm phát triển thị trường BĐS.
Phát triển thị trường BĐS trên cơ sở Nhà nước thực hiện quyền đại
diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai và thống nhất nhà nước quản lý về đất
đai. Quy hoạch sử dụng đất đai theo hướng văn minh, hiện đại, công bố công
khai để doanh nghiệp và người dân thực hiện.
Người sử dụng đất được đảm bảo quyền và nghĩa vụ của mình trong
thời hạn sử dụng đất theo quy định của pháp luật. Nhà nước có chính sách
khuyến khích đầu tư và đất đai để làm tăng giá trị của đất. Tạo điều kiện để
đất đai, BĐS được tham gia trên thị trường.
Mở rộng các hình thức kinh doanh BĐS. Khuyến khích người Việt
Nam ở nước ngoài và người nước ngoài tham gia đầu tư vào thị trường BĐS.
Kiên quyết lập lại trật tự trong quản lý, sử dụng đất và BĐS theo luật
pháp, chống đầu cơ đất đai và nắm giữ đất đai trái pháp luật. Sửa đổi các quy
định về việc chuyển quyền sử dụng đất và sở hữu nhà, thúc đẩy qúa trình bán
nhà ở của Nhà nước. Giải quyết dứt điểm các tranh chấp về quyền sử dụng đất
và nhà ở còn tồn đọng. Đồng thời, sử dụng đất phải đảm bảo đúng quy hoạch,
104
kế hoạch và đúng mục đích sử dụng đất. Đảm bảo sử dụng đất tiết kiệm, có
hiệu qủa, bảo vệ môi trường, ngăn chặn sử dụng đất lãng phí, kém hiệu qủa.
3.1.2 Định hướng phát triển thị trường BĐS:
Hình thành thị trường BĐS thông thoáng, bảo đảm cho các tổ chức, cá
nhân có thể tham gia bình đẳng trên thị trường. Phát triển lực lượng kinh
doanh BĐS theo nguyên tắc cạnh tranh. Bảo đảm việc sử dụng đất đai có hiệu
qủa và tạo ra khối lượng BĐS hàng hóa đa dạng phù hợp với nhu cầu đa dạng
của thị trường.
Khắc phục cơ chế quản lý và sử dụng đất đai theo cơ chế “xin - cho”
sang quản lý bằng luật pháp, quy hoạch và các công cụ quản lý vĩ mô khác.
Phát triển thị trường BĐS góp phần phát triển thị trường tài chính, đa
dạng hóa các cơ hội đầu tư của các tổ chức và cá nhân, qua đó thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế.
Tăng cường năng lực quản lý của nhà nước đối với thị trường BĐS,
góp phần tăng thu cho ngân sách để phát triển cơ sở hạ tầng, đồng thời có chế
độ hỗ trợ phù hợp về đất đai, nhà ở đối với những đối tượng chính sách, người
thu nhập thấp.
3.1.3 Mục tiêu phát triển thị trường bất động sản.
Nghị quyết số 06 ngày 19/5/2004 của Chính phủ về một số giải pháp
phát triển lành mạnh thị trường BĐS khẳng định mục tiêu phát triển thị
trường BĐS:
Phát triển thị trường BĐS nhằm khai thác, sử dụng có hiệu qủa các
loại BĐS, đặc biệt là BĐS nhà đất, phát huy tối đa nguồn lực từ đất và công
trình trên đất để phát triển kinh tế - xã hội, phục vụ sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thu hút các nguồn lực của xã hội, khuyến khích các thành phần kinh
tế tham gia đầu tư phát triển BĐS hàng hóa, đặc biệt là đầu tư xây dựng các
105
công trình sản xuất kinh doanh, các công trình hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã
hội.
Góp phần hình thành đồng bộ các loại thị trường cùng các thể chế phù
hợp với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Nhà nước chủ động định hướng, điều tiết và kiểm soát để ổn định thị
trường BĐS, khắc phục tình trạng tự phát, đầu cơ BĐS.
3.2 Một số giải pháp phát triển thị trƣờng Bất động sản Hà Nội.
Để thị trường BĐS hoạt động có hiệu qủa, Nhà nước phải tạo điều kiện
cần thiết để thị trường thể hiện vai trò trong việc phân bổ và sử dụng hợp lý
tài nguyên đất đai và đáp ứng các nhu cầu về BĐS hàng hóa với giá cả hợp lý,
chi phí thấp. Mặt khác, Nhà nước phải có sự can thiệp nhằm đảm bảo công
bằng xã hội, có chính sách hỗ trợ cần thiết cho các đối tượng bị thua thiệt như
người thu nhập thấp, người nghèo…
3.2.1 Nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước
Mặc dù đã có sự can thiệp của Nhà nước vào thị trường BĐS Hà Nội.
Tuy nhiên, trong thời gian qua sự can thiệp chưa thực sự có tác dụng tích cực
để thị trường BĐS phát triển lành mạnh, hoạt động có hiệu qủa. Vì vậy, Nhà
nước và thành phố cần nâng cao vai trò quản lý, điều tiết thị trường, đổi mới
hệ thống thuế, phí nhằm sử dụng có hiệu qủa BĐS, khuyến khích các giao
dịch chính thức.
Quản lý nhà nước:
Ban hành những quy định pháp lý để thị trường hoạt động có khuôn
khổ, chuẩn mực rõ ràng. Phân cấp mạnh hơn cho các cấp chính quyền địa
phương, đồng thời quy định rõ chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm của từng
cấp, ngành nhằm hạn chế những tiêu cực trong bộ máy quản lý Nhà nước.
Rà soát, chỉnh sửa và nâng cao hiệu lực pháp lý của các văn bản liên
quan đến các giao dịch trên thị trường, đáp ứng được nhu cầu thể hiện sự
106
thông thoáng, khuyến khích các tổ chức tham gia đầu tư xây dựng và kinh
doanh BĐS. Đảm bảo sự công bằng giữa các thành phần tham gia hoạt động
trên thị trường, cần hạch toán giá trị của BĐS vào tổng giá trị tài sản của các
doanh nghiệp cổ phần hóa. Tạo điều kiện để thị trường quyết định giá cả theo
nguyên tắc cạnh tranh, giảm thiểu sự can thiệp của cơ quan Nhà nước vào vụ
việc cụ thể, có cơ chế khuyến khích sử dụng các loại chuyên gia thị trường
BĐS.
Đổi mới hệ thống thuế, phí và lệ phí theo hướng tinh giản các khoản
thu, trên cơ sở xác định rõ ý nghĩa kinh tế của từng khoản thu: xây dựng hệ
thống thuế, phí phù hợp để điều tiết các khoản thu nhập bất hợp lý, đồng thời
phát triển mạnh các giao dịch chính thức trên thị trường và khuyến khích sử
dụng có hiệu qủa BĐS. Giảm mức lệ phí chuyển quyền sử dụng đất, nhà ở để
khuyến khích các giao dịch chính quy trên thị trường. Hiện nay, để có được
giấy chứng nhận, ngoài tiền sử dụng đất (theo quy định), mức lệ phí chuyển
nhượng hiện nay là khá cao, mang tính chất là thuế nhiều hơn là phí. Đặc biệt
sau khi thành phố ban hành khung giá đất mới cao hơn từ 5 - 10 lần so với
khung giá cũ, thì mức phí 2% của giá trị BĐS góp phần cản trở các giao dịch
chính thức. Trên thực tế có nhiều nơi thành phố đã cấp xong giấy chứng nhận
nhưng người dân không đến nhận do mức thuế, phí đóng góp qúa cao dẫn đến
việc giao dịch phi chính thức trên thị trường, khi đó Nhà nước sẽ không thu
được thuế, phí, và cũng không kiểm soát được những giao dịch này.
Nghiên cứu ban hành thuế thu nhập từ chuyển quyền sử dụng BĐS
đất đai, nhà ở thay thế thuế chuyển quyền sử dụng đất hiện nay. Thuế chuyển
quyền sử dụng đất, nhà ở hiện nay đang được tính chung cho tất cả mọi đối
tượng, nhưng đối với việc đầu cơ BĐS thì mức thuế này lại là thấp. Vì vậy,
cần thay thế thuế chuyển quyền sử dụng đất thành thuế thu nhập từ chuyển
107
quyền sử dụng đất. Căn cứ tính thuế là thuế suất và thu nhập do chuyển
nhượng quyền sử dụng đất mà có (thu nhập chịu thuế). Cụ thể:
- Thu nhập chịu thuế: được xác định bằng giá chuyển nhượng quyền sử
dụng đất trừ chi phí để có quyền sử dụng đất (giá vốn). Giá chuyển nhượng để
tính thuế không được thấp hơn mức giá quy định của Nhà nước. Chi phí để có
quyền sử dụng đất bao gồm: giá trị đất do Nhà nước giao (nếu là đất do Nhà
nước giao mới hoặc đất đang sử dụng được hợp thức hóa và cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất), giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất gần đây nhất
(nếu là đất nhận chuyển nhượng từ người khác) và các chi phí chủ sử dụng bỏ
ra để cải thiện, xây dựng trên đất.
- Thuế suất: Áp dụng thuế suất lũy tiến từng phần để điều tiết thu nhập
khi chuyển quyền sử dụng đất. Mức thuế suất được áp dụng tương đương với
mức thuế thu nhập từ các loại hình kinh doanh khác, đồng thời sẽ áp dụng
mức thuế cao hơn nếu chuyển nhượng mảnh đất trong vòng 5 năm (tính từ
thời điểm chuyển nhượng trước đó).
Việc ban hành thuế thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất thay thế thuế
chuyển quyền sử dụng đất sẽ có tác dụng: Khuyến khích các bên giao dịch kê
khai trung thực giá mua bán thực tế (vì ảnh hưởng đến lần chuyển nhượng
tiếp theo). Đảm bảo việc thu thuế tính đúng, tính đủ, chống đầu cơ BĐS. Góp
phần làm giảm bớt sự thiếu công bằng về nghĩa vụ tài chính đối với các
trường hợp được hưởng lợi khác nhau từ việc phát triển kinh tế - xã hội, từ
công tác quy hoạch và đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng của Nhà nước.
Đối với thành phố:
Đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu BĐS trên cơ sở chấp nhận những sai sót và hệ qủa do buông lỏng quản lý
trong những năm qua. Tổ chức hệ thống đăng ký, theo dõi những biến động
về đất đai, BĐS. Để thị trường BĐS thật sự đi đúng hướng, thật sự thành kênh
108
huy động vốn có hiệu qủa cần phải tăng cường phát triển thị trường BĐS
chính thức dựa trên cơ sở BĐS hàng hóa đủ điều kiện pháp lý ngày càng tăng.
Để làm được điều này thì cần thiết phải thực hiện việc cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, đây là cơ sở quan trọng để quản lý đất đai và cũng được
xem là biện pháp lâu dài để có thể làm lành mạnh hóa thị trường BĐS.
Giảm bớt những quy định về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
để tạo điều kiện thuận lợi cho những mảnh đất không tranh chấp được cấp cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trên thực tế, nếu Nhà nước không cấp
giấy chứng nhận thì họ sẽ giao dịch ngầm làm cho Nhà nước thất thu thuế mà
thị trường thì mất ổn định. Theo đánh giá của nhiều cơ quan chức năng,
khoảng 70% giao dịch BĐS hiện nay là giao dịch ngầm, người dân tự giao
dịch với nhau không thông qua Nhà nước, mặc dù họ biết việc này là bất hợp
pháp. Đây là nguồn hàng hóa lớn nhưng chưa đủ điều kiện tham gia thị
trường.
Công tác quy hoạch phải được nhận thức là một trong những vấn đề
hàng đầu trong việc phát triển, ổn định thị trường BĐS và đáp ứng được nhu
cầu về đất đai cho kinh doanh BĐS ngày càng tăng. Quy hoạch tổng thể thành
phố, quận huyện cần được phổ biến công khai, minh bạch để mọi người biết
và tuân thủ. Đồng thời, có cơ chế để những công dân và tổ chức có lợi ích và
trách nhiệm trong vùng quy hoạch được tham gia thiết thực trong việc xây
dựng, thẩm định, điều chỉnh quy hoạch. Cần khắc phục tình trạng nhiều khu
dân cư chỉ lập quy hoạch rồi phân lô bán đất, dẫn đến tình trạng mua bán đầu
cơ đất đai và xây dựng trái phép tràn lan, không đảm bảo yêu cầu tối thiểu về
hạ tầng kỹ thuật, gây mất mỹ quan đô thị và ô nhiễm môi trường. Tăng cường
củng cố chức năng quản lý và thanh tra việc tuân thủ quy hoạch, có biện pháp
kiên quyết trong cưỡng chế.
109
Chủ động tham gia điều tiết thị trường bằng việc tăng nguồn cung
BĐS theo hướng chuyển đổi mục đích sử dụng đất theo nhu cầu của thị
trường. Có các biện pháp ngăn chặn việc sử dụng lãng phí, kém hiệu qủa qũy
đất tại các cơ quan, DNNN đã kéo dài; Đối với những diện tích sử dụng
không đúng mục đích, để hoang hóa cần thu hồi lại. Đối với những diện tích
đã sử dụng đúng mục đích thì tiến hành cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất.
Chấm dứt cơ chế bao cấp đối với doanh nghiệp kinh doanh hạ tầng
các KCN, khu chế xuất cũng như chính sách ưu đãi cho các doanh nghiệp
kinh doanh BĐS nhà ở thương mại.
3.2.2 Phát triển BĐS hàng hóa.
Để thị trường BĐS phát triển lành mạnh và ổn định, cần phải có giải
pháp phát triển và tạo lập BĐS hàng hóa. BĐS hàng hóa cho thị trường trước
hết phụ thuộc vào khả năng cung về đất hàng hóa. Hiện tại đất hàng hóa cho
sản xuất, kinh doanh chưa được tạo lập đầy đủ, kịp thời nên việc tạo lập các
BĐS trên đất để đáp ứng nhu cầu của người sử dụng trực tiếp gặp nhiều khó
khăn. Trong khi qúa trình tạo lập đất hàng hóa rất phức tạp, tốn nhiều chi phí,
gồm nhiều công đoạn và có sự tham gia của nhiều bên với các lợi ích khác
nhau. Để phát triển BĐS hàng hóa, tăng lượng cung ra thị trường cần có các
giải pháp sau:
Công khai quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất. Quy định rõ và đơn
giản hóa các chính sách khuyến khích đối với các loại dự án đầu tư.
Thống nhất mặt bằng chính sách đối với tất cả các đối tượng tham gia
tạo lập BĐS, áp dụng cơ chế thống nhất về các chính sách hỗ trợ, khuyến
khích. Hoàn thiện công tác đấu thầu, tránh tình trạng độc quyền. Doanh
110
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế được bình đẳng trong việc dự thầu các
gói thầu và kinh doanh BĐS.
Tách chức năng công ích khỏi chức năng kinh doanh đối với các
DNNN. Nhà nước chịu trách nhiệm thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất
và giao đất đã có hạ tầng cho các bên kinh doanh và sử dụng theo phương
thức đấu giá.
Tập trung đáp ứng nhu cầu di dời các cơ quan, doanh nghiệp, nhà dân.
Hiện nay qúa trình hiện đại hóa đô thị đòi hỏi phải di dời hàng loạt nhà dân,
cơ quan, doanh nghiệp (đặc biệt là những doanh nghiệp gây ô nhiễm môi
trường) từ nội thành ra các vùng xung quanh (theo quy hoạch). Trong qúa
trình di dời kết hợp với việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất theo quy hoạch,
sẽ tạo ra một lượng đất hàng hóa trong nội thành cho trung tâm thương mại,
văn phòng... Đồng thời, góp phần nâng cao hiệu qủa sử dụng đất ở các vùng
ven, ngoại thành và đảm bảo những yêu cầu kiến trúc đối với đô thị.
Đối với BĐS nhà ở:
- Tăng lượng cung hàng hóa về BĐS nhà ở, nhà cho thuê, trả góp, nhà
cho người có thu nhập thấp để chủ động bình ổn thị trường theo quy luật cung
cầu, góp phần thực hiện chính sách xã hội. Theo kinh nghiệm của các nước đi
trước thì nhà cho thuê và nhà trả góp là 2 hình thức phù hợp phục vụ nhu cầu
của đối tượng thu nhập thấp. Nhưng hiện tại Hà Nội chỉ mới trích một phần ít
ỏi tiền ngân sách thí điểm xây dựng loại nhà này, các nhà đầu tư chưa nhìn
thấy lợi nhuận nên chưa mặn mà. Ngoài ra họ không đầu tư do chúng ta đang
không có hành lang pháp lý cho thị trường nhà loại này hoạt động. Không có
gì đảm bảo người mua nhà trả góp sẽ trả dần theo cam kết, người thuê nhà
thanh toán tiền nhà đúng hạn.
Thành phố cần phải huy động sức mạnh tổng hợp của nhiều thành phần
kinh tế cho chương trình phát triển nhà ở cho người lao động. Có cơ chế ưu
111
đãi đối với những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này. Cơ chế bán và
cho thuê nhà theo nguyên tắc không bao cấp về giá thuê, thuê mua, mỗi hộ gia
đình chỉ được hỗ trợ một lần, đảm bảo chủ đầu tư thu hồi vốn đã đầu tư.
Đối với việc bán nhà theo nghị định 61: Để đảm bảo công bằng, cần
thống nhất chế độ thu tiền sử dụng đất và giữ theo giá cũ nhằm khuyến khích
người ở thuê, mua nhà (đa số là cán bộ công nhân viên chức Nhà nước có thu
nhập chủ yếu từ lương) nhằm đáp ứng phần nào nhu cầu về nhà ở, tránh gây
sự xáo trộn và khiếu kiện trong dân.
Việc phát triển đa dạng BĐS hàng hóa còn tạo điều kiện thuận lợi cho
nhiều thành phần được phép và có thể tham gia hoạt động của thị trường như
người thu nhập thấp, các tổ chức trung gian …
- Nâng cao chất lượng BĐS hàng hóa hiện có trên thị trường bằng việc
phát triển cơ sở hạ tầng xung quanh, chuyên nghiệp hóa công tác quản lý.
Nhìn chung các chủ đầu tư Việt Nam hiện nay chưa đánh giá được đúng
mức tầm quan trọng của công việc quản lý tòa nhà văn phòng và nhà ở. Khi
thị trường đã đến điểm bão hòa các nhà đầu tư thứ cấp khó có thể kiếm lời,
lúc đó lợi nhuận của họ phải phụ thuộc vào giá trị gia tăng của BĐS phát sinh
từ vị trí của khu đất và những tiện ích mà nó cung cấp. Đa số các dự án ở Hà
Nội hiện nay chỉ thực hiện theo hình thức 2 chiều, nghĩa là chỉ một khối kiến
trúc với một mục đích đơn thuần để ở hay làm văn phòng, chưa tạo ra một
cộng đồng sống. Những dự án 3 chiều sẽ kết hợp những tiện nghi cửa hàng,
văn phòng, khu vui chơi giải trí như bể bơi, nhà hàng, trung tâm thương
mại…trong cùng một dự án sẽ làm giá trị BĐS đó tăng, bởi nó trở thành một
tiểu cộng đồng mà mọi người cảm thấy ưa thích. Đây là xu hướng khá phổ
biến ở nước ngoài mà các nhà đầu tư có thể áp dụng. Các nhà đầu tư thứ cấp
có thể kiếm lời từ việc cho thuê lại với giá cao.