Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (864.74 KB, 120 trang )
mới yêu cầu tòa án chia. Như vậy, người yêu cầu chia tài sản chung chỉ có thể
là vợ hoặc chồng hoặc cả hai khi có lí do chính đáng, ngoài ra không có chủ
thể nào khác có quyền yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, kể
cả người có quyền lợi liên quan đến việc chia tài sản chung của vợ chồng
(chẳng hạn như chủ nợ của bên vợ hoặc chồng). Quy định này tương tự quy
định của BLDS Pháp khi chỉ cho phép vợ hoặc chồng có quyền yêu cầu tòa án
tách riêng tài sản chung. Điều 1447 BLDS Pháp quy định chủ nợ không có
quyền yêu cầu mà chỉ có quyền kháng cáo trong trường hợp tòa án quyết định
việc chia tách tài sản có hại cho quyền lợi của họ.
Chúng tôi nhận thấy, việc không thừa nhận quyền khởi kiện của người
thứ ba trong việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân theo
pháp luật hiện hành là hoàn toàn phù hợp theo quy định của pháp luật. Điều
này được lý giải bởi yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là một
quyền gắn liền với nhân thân của vợ chồng, xuất phát trên cơ sở quan hệ hôn
nhân hợp pháp. Tuy nhiên, nếu áp dụng quy định này vào thực tiễn vẫn còn
vấn đề bất cập cần phải có sự vận dụng linh hoạt hơn. Theo luật hiện hành,
khi một bên vợ, chồng có nghĩa vụ tài sản riêng thì nghĩa vụ tài sản đó cần
được thực hiện bằng tài sản riêng của họ, tài sản chung của vợ chồng không
được sử dụng cho việc thanh toán các khoản nợ này trừ khi vợ chồng có thoả
thuận (Điều 33 Luật HN&GĐ năm 2000). Một trường hợp được đặt ra là, rất
có thể người có nghĩa vụ tài sản không có hoặc không đủ tài sản riêng để
thanh toán các khoản nợ và vợ chồng đã không có thỏa thuận hoặc yêu cầu
Tòa án chia tài sản chung để trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản. Trong
trường hợp này, nếu không thừa nhận quyền yêu cầu của người có quyền (chủ
nợ) về chia tài sản chung của vợ chồng để lấy phần tài sản của người có nghĩa
vụ thanh toán nợ, thì quyền lợi của họ được đảm bảo như thế nào? [18, tr.27].
Thực tế đã cho thấy, trường hợp như trên xảy ra rất nhiều và người thứ ba hầu
36
như không có cơ hội khởi kiện yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng để
bảo vệ quyền lợi chính đáng cho mình. Có thể thấy, đây là một hạn chế thiếu
sót của Luật HN&GĐ hiện hành và cần thiết phải bổ sung theo hướng đảm
bảo quyền và lợi ích chính đáng cho cả hai bên. Tham chiếu BLDS Pháp cho
thấy quyền yêu cầu tách riêng tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là quyền
của vợ, chồng, chủ nợ của riêng vợ hoặc chồng không có quyền yêu cầu tách
riêng tài sản của người vợ chồng mắc nợ. Tuy nhiên BLDS Pháp có quy định
nếu trong trường hợp việc chia tách tài sản riêng đã được Tòa án quyết định
có hại cho quyền lợi của họ, thì họ có quyền kháng án với tư cách người thứ
ba kháng án theo những điều kiện do Bộ luật tố tụng dân sự quy định. Pháp
luật hiện hành của Việt Nam chưa quy định trường hợp này. Do đó pháp luật
cần dự liệu quyền yêu cầu của người thứ ba cũng như quyền kháng án trong
trường hợp vợ chồng chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân.
2.2 Các lý do chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân theo pháp
luật hiện hành chỉ phát sinh khi có những điều kiện sau:
+ Có yêu cầu của một bên vợ hoặc một bên chồng hoặc yêu cầu của cả
hai vợ chồng;
+ Việc chia tài sản chung được thực hiện trong thời kỳ hôn nhân;
+ Có lý do nhất định.
Trong ba điều kiện trên, việc xem xét các lý do để dẫn tới việc chia tài
sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là quan trọng, bởi việc chia
tài sản chung sẽ ảnh hưởng đến khối tài sản chung hợp nhất, ảnh hưởng đến
kinh tế gia đình, quyền và lợi ích của tất cả các thành viên trong gia đình.
Chính vì vậy, chỉ trong những trường hợp cần thiết thì việc chia tài sản chung
trong thời kỳ hôn nhân mới được tiến hành. Pháp luật HN&GĐ hiện hành quy
định vợ chồng có thể yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân theo
những lý do sau:
37
- Đầu tư kinh doanh riêng
Phát triển kinh tế theo định hướng thị trường với xu thế hội nhập toàn
cầu là yếu tố thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam phát triển. Để theo kịp với tiến
trình phát triển kinh tế với các nước trên thế giới, Nhà nước ta đã ban hành
những chính sách khuyến khích công dân tự do kinh doanh phát triển kinh tế.
Quyền tự do kinh doanh của cá nhân được ghi nhận ở văn bản có giá trị pháp
lý cao nhất là Hiến pháp. Điều 57 Hiến pháp 1992 quy định “Công dân có
quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật”. Ngoài ra, quyền tự do
còn được cụ thể hóa và được ghi nhận bởi các quy định của pháp luật chuyên
ngành khác như BLDS, Luật Thương mại, Luật Doanh nghiệp,… Do vậy,
theo quy định này mọi công dân đều có quyền tự do kinh doanh theo quy định
của pháp mà không phân biệt giới tính nên vị trí và vai trò của phụ nữ hiện
nay đã được nâng cao kể cả trong hoạt động kinh doanh.
Đầu tư kinh doanh trong xã hội hiện nay đã giúp cho nhiều cá nhân và
gia đình có cơ hội phát triển kinh tế gia đình. Tuy nhiên, kinh doanh là một
hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro cao bởi sự tác động của rất nhiều yếu tố nhất là
môi trường cạnh tranh khốc liệt trong giai đoạn hội nhập kinh tế thế giới.
Ngoài ra, khi vợ chồng tiến hành hoạt động đầu tư kinh doanh thì sẽ bị ràng
buộc với nhau bởi quan hệ tài sản, quyết định của vợ chồng không chỉ ảnh
hưởng đến lợi ích của bản thân người đó mà còn ảnh hưởng đến lợi ích của tất
cả các thành viên trong gia đình. Luật HN&GĐ năm 2000 đã kế thừa và phát
triển quy định của Luật HN&GĐ năm 1986 cho phép vợ chồng có thể thỏa
thuận chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Quy định này
là điểm tiến bộ so với Luật HN&GĐ năm 1959 và là quy định rất cần thiết.
Thứ nhất, đứng ở góc độ của nhà đầu tư, vợ hoặc chồng rất cần vốn để đầu tư
kinh doanh; nhưng toàn bộ tài sản trong thời kỳ hôn nhân phần lớn là tài sản
chung của vợ chồng, khi định đoạt tài sản chung phải có ý kiến của cả hai
38
người. Vì vậy chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân sẽ tạo cơ hội cho vợ
chồng có tài sản riêng để có thể “chớp thời cơ” trong đầu tư kinh doanh và
đảm bảo lợi ích cho các thành viên trong gia đình. Thứ hai, ở góc độ gia đình,
việc quy định như vậy sẽ bảo đảm được sự ổn định của các thành viên trong
gia đình tránh khỏi tác động tiêu cực của hoạt động đầu tư kinh doanh gây ra.
Thứ ba, ở góc độ bình đẳng giới, việc quy định vợ chồng đều có quyền yêu
cầu chia vì mục đích kinh doanh đã tạo ra sự bình đẳng giữa vợ và chồng đối
với tài sản chung.
Liên quan đến việc chia tài sản chung khi vợ chồng đầu tư kinh doanh,
pháp luật của các nước trên thế giới cũng có quy định những biện pháp khác
nhau để hạn chế tác động tiêu cực của hoạt động kinh doanh tới gia đình.
Chẳng hạn Điều 1491 BLDS và thương mại Thái Lan quy định “nếu người vợ
hoặc chồng bị tuyên bố phá sản thì “Sin Somros” được chia theo quy định của
pháp luật để từ ngày có tuyên bố” [2]. Mặc dù, theo pháp luật Thái Lan việc
chia tài sản chung của vợ chồng chỉ vào thời điểm vợ chồng bị tuyên bố phá
sản, tức là khi đã phát sinh hậu quả. Tuy nhiên, quy định này còn có điểm chưa
hợp lý, bởi lẽ tài sản chung được đem đầu tư kinh doanh lợi tức thu được từ
hoạt động đó được nhập vào khối tài sản chung và vợ chồng cùng hưởng thì
không có lý do gì khi phát sinh hậu quả, tài sản lại được đem chia để một bên
trả nợ. Như vậy, sẽ dễ dàng dẫn đến lợi dụng chia tài sản chung để trốn tránh
thực hiện nghĩa vụ trả nợ.
- Thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng
Khi tham gia vào các giao dịch dân sự, bên cạnh việc hưởng các quyền
dân sự thì các chủ thể cũng phải thực hiện những nghĩa vụ dân sự. Điều 280
BLDS năm 2005 quy định:
Nghĩa vụ dân sự là việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thể (sau đây
gọi chung là bên có nghĩa vụ) phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả
39
tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện công việc hoặc không được thực hiện công
việc nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác [32].
Theo đó, nghĩa vụ dân sự riêng của vợ chồng có thể xác định những
nghĩa vụ như sau:
+ Các khoản vay nợ mà vợ, chồng vay không vì nhu cầu hoặc lợi ích
gia đình trong thời kỳ hôn nhân.
+ Nghĩa vụ về tài sản gắn liền với nhân thân vợ, chồng như các khoản
chi phí cho con riêng của mình, chi phí cho người mà vợ, chồng là người
giám hộ của người đó theo quy định của pháp luật dân sự và luật HN&GĐ.
+ Nghĩa vụ cấp dưỡng mà vợ, chồng phải thực hiện đối với các thành
viên trong gia đình theo quy định của HN&GĐ năm 2000.
+ Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại phát sinh từ hành vi trái pháp luật của
vợ, chồng.
+ Nghĩa vụ về tài sản của vợ, chồng khi một bên phải thi hành bản án
hoặc quyết định của toà án.
+ Nghĩa vụ về tài sản liên quan đến các giao dịch dân sự mà vợ hoặc
chồng được hưởng lợi riêng.
+ Thực hiện các nghĩa vụ về tài sản khác mà mình được hưởng lợi theo
quy định của pháp luật như nghĩa vụ về tài sản do nhận thừa kế phát sinh từ
quyền nhận thừa kế…
Về nguyên tắc khi vợ hoặc chồng có nghĩa vụ dân sự riêng phải thực
hiện thì phải dùng tài sản riêng của mình để thanh toán các nghĩa vụ riêng
đó. Tài sản chung của vợ chồng được hình thành và phát triển chỉ nhằm
mục đích bảo đảm cho nhu cầu chung của các thành viên trong gia đình
hoặc những nghĩa vụ chung của vợ chồng, nên nếu tài sản riêng của người
đó không có hoặc không đủ và vợ chồng không thể thỏa thuận dùng tài sản
chung để thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng thì vợ chồng có quyền yêu cầu
40
chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Việc yêu cầu chia tài sản này
nhằm mục đích lấy phần tài sản của mình trong khối tài sản chung của vợ
chồng để thanh toán các nghĩa vụ dân sự riêng đó. Đây đồng thời là cơ sở
phân định rõ quyền và nghĩa vụ của vợ chồng trong việc quản lý, sử dụng
và định đoạt tài sản trong gia đình.
- Có lý do chính đáng khác
Thực tế cho thấy cuộc sống vợ chồng phát sinh nhiều lý do khác nhau
cần thiết để vợ, chồng yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân chứ
không chỉ có hai lý do nêu trên. Để đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế
và nhu cầu của vợ chồng, pháp luật HN&GĐ không tiên lượng được tất cả các
lý do để chia tài sản, do đó đã dự liệu trường hợp vợ chồng “có lý do chính
đáng khác” thì có thể thỏa thuận hoặc yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ
hôn nhân. Quy định này đã tạo ra sự linh hoạt trong việc giải quyết các trường
hợp chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Dù với lý do gì thì việc vợ
chồng chia tài sản phải thật cần thiết vì nó có ảnh hưởng đến tài sản chung
của vợ chồng, ảnh hưởng đến cuộc sống bình thường của các thành viên trong
gia đình. Nếu vợ, chồng thấy việc chia tài sản là cần thiết, họ có lý do chính
đáng và hợp pháp để chia thì pháp luật nên thừa nhận quyền chia tài sản
chung của họ.
Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp khi đưa ra lý do chia tài sản đều
được pháp luật chấp nhận. Lý do vợ, chồng đưa ra phải là lý do chính đáng
bởi vì sẽ có nhiều cặp vợ chồng lợi dụng việc chia tài sản để trốn tránh thực
hiện nghĩa vụ về tài sản hoặc tẩu tán tài sản. Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP
ngày 20/01/1988 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một
số quy định của Luật HN&GĐ năm 1986 có quy định:
Trong khi hôn nhân còn tồn tại, Điều 18 cho phép chia tài sản chung
của vợ chồng nếu có lý do chính đáng (như vợ chồng tính tình không hợp
41
nhưng con cái đã lớn nên không muốn ly hôn mà chỉ muốn ở riêng, do đó,
một bên hoặc cả hai bên xin chia tài sản thì tài sản được chia như khi xử
về ly hôn [40].
Với nội dung của quy định trên cho thấy sự phù hợp với phong tục tập
quán, lối sống của người phương Đông, thể hiện đúng bản sắc của dân tộc ta,
luôn luôn vì sự yên ấm, ổn định của gia đình, vì lợi ích của con cái nên không
muốn ly hôn mà chỉ yêu cầu chia tài sản chung. Luật HN&GĐ năm 2000 kế
thừa và phát triển trên cơ sở của Luật HN&GĐ năm 1986 lại không quy định
cụ thể thế nào là “lý do chính đáng khác”, do vậy không có cơ sở để xem xét
lý do chia tài sản chung mà vợ chồng đưa ra có chính đáng hay không, dẫn
đến việc áp dụng pháp luật của tòa án có thể tùy tiện. Cùng một lý do mà vợ
chồng đưa ra nhưng có tòa án quyết định chia tài sản chung của vợ chồng
nhưng có tòa án không chấp nhận lý do này.
Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân luôn mang lại
những hậu quả pháp lý nhất định, do vậy không chỉ pháp luật Việt Nam mà
pháp luật của các nước khác trên thế giới đều quy định những căn cứ chặt chẽ
để vợ chồng làm căn cứ chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. BLDS và
thương mại Thái Lan quy định rất nhiều trường hợp là căn cứ để vợ chồng
chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, như vợ hoặc chồng bị tuyên bố phá
sản; khi vợ hoặc chồng bị tuyên là không có năng lực hành vi dân sự và người
kia không thích hợp để chăm sóc; nếu tài sản chung do người kia quản lý ở
trong tình trạng có thể dẫn đến phá huỷ…Có thể thấy căn cứ chia tài sản chung
của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân của BLDS và thương mại Thái Lan rất
rộng, nó không chỉ gồm những căn cứ về mặt tài sản mà gồm cả những căn cứ
về mặt nhân thân nữa. Để phù hợp với yêu cầu thực tiễn đặt ra, Luật HN&GĐ
năm 2000 cần bổ sung quy định hướng dẫn cụ thể về vấn đề này.
Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp khi đưa ra lý do chia tài sản đều
42
được pháp luật chấp nhận. Lý do vợ, chồng đưa ra phải là lý do chính đáng bởi
lẽ sẽ có nhiều cặp vợ chồng lợi dụng việc chia tài sản để trốn tránh thực hiện
nghĩa vụ về tài sản. Trong trường hợp đó theo yêu cầu của người có quyền và
lợi ích liên quan thì việc chia tài sản chung của vợ chồng sẽ bị toà án tuyên vô
hiệu. Điều 11 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP quy định các trường hợp vợ
chồng chia tài sản chung nhằm trốn tránh thực hiện các nghĩa vụ tài sản sẽ bị
tuyên bố vô hiệu bao gồm: nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng; nghĩa vụ bồi
thường thiệt hại; nghĩa vụ thanh toán khi bị Tòa án tuyên bố phá sản doanh
nghiệp; nghĩa vụ nộp thuế, tài chính đối với Nhà nước; nghĩa vụ trả nợ,… Quy
định này đã tạo ra một hành lang pháp lý để bảo vệ lợi ích chính đáng của
người thứ ba có liên quan đến tài sản chung của vợ chồng, đồng thời góp phần
tích cực vào việc đấu tranh phòng chống các hành vi vi phạm pháp luật.
Mặc dù có những quy định khác nhau ở pháp luật mỗi nước, song nhìn
chung pháp luật các nước đều ghi nhận hai điều kiện để chỉ tài sản đó là có lý
do chính đáng và có yêu cầu toà án (trừ trường hợp pháp luật cho phép họ tự
thoả thuận). Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có tác
động đến các thành viên trong gia đình, ít nhiều cũng để lại những tác động
không nhỏ đến gia đình, đặc biệt trách nhiệm với gia đình sau khi chia tài sản
chung. Do vậy pháp luật cần phải có những căn cứ cụ thể làm cơ sở cho việc
chia tài sản chung và chống lại hành vi vi phạm pháp luật, nhằm trốn tránh
nghĩa vụ tài sản.
2.3 Các trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng trong thời
kỳ hôn nhân
2.3.1 Vợ chồng thoả thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân
2.3.1.1 Hình thức của thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân
Tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ khi đã chia phần nào ảnh
43
hưởng đến chế độ tài sản chung của vợ chồng, quyền và lợi ích của các thành
viên trong gia đình và lợi ích của người thứ ba trong các giao dịch dân sự liên
quan đến tài sản chung của vợ chồng. Chính vì những hậu quả về mặt pháp lý
và về mặt xã hội của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân nên pháp
luật quy định thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân bắt buộc
phải được lập thành văn bản. Quy định này là cần thiết vì những lý do sau đây:
- Văn bản thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là cơ sở
pháp lý quan trọng nhất để giải quyết tranh chấp tài sản giữa hai vợ chồng khi
có mâu thuẫn xảy ra;
- Nó là cơ sở pháp lý để giải quyết các tranh chấp liên quan đến quyền lợi
của người thứ ba trong các giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của vợ chồng;
- Đây là căn cứ để xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng để
khôi phục lại chế độ tài sản chung của vợ chồng (nếu có);
- Là cơ sở pháp lý nhằm ngăn chặn các hành vi chia tài sản chung nhằm
mục đích trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản với bên thứ ba trong các
giao dịch dân sự hoặc các hành vi vi phạm pháp luật.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 29 Luật HN&GĐ năm 2000 cũng như
khoản 1, 2 Điều 6 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP quy định thỏa thuận chia tài
sản trong thời kỳ hôn nhân phải được lập thành văn bản nhưng không quy
định cụ thể một hình thức văn bản nhất định. Vì vậy, trên thực tế văn bản thỏa
thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân rất đa dạng, có thể được thể
hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như văn bản viết tay, văn bản đánh máy,
fax, telex,… và tất cả các hình thức này đều được pháp luật chấp nhận.
2.3.1.2 Nội dung của thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng trong
thời kỳ hôn nhân
Bên cạnh việc tuân thủ quy định về mặt hình thức của văn bản thỏa
thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, Luật HN&GĐ còn đặt ra các
44
yêu cầu về mặt nội dung của thỏa thuận chia tài sản chung. Điều 6 Nghị định
70/2001/NĐ-CP quy định văn bản thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ
hôn nhân phải ghi rõ các nội dung sau:
- Lý do chia tài sản;
- Phần tài sản chia (bao gồm động sản, bất động sản, các quyền tài sản),
trong đó cần mô tả chi tiết những tài sản nào được chia hoặc giá trị phần tài
sản được chia;
- Phần tài sản còn lại không chia (nếu có);
- Thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản chung;
- Các nội dung khác (nếu có).
Ngoài ra, văn bản thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân
phải ghi rõ ngày, tháng, năm lập văn bản và phải có chữ ký của cả hai vợ
chồng, văn bản phải có người làm chứng hoặc được công chứng, theo yêu cầu
của vợ chồng hoặc yêu cầu của pháp luật.
Để có cơ sở giải quyết các tranh chấp phát sinh giữa vợ và chồng và
các tranh chấp khác liên quan đến lợi ích của người thứ ba trong các giao dịch
dân sự thì văn bản thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân phải
ghi rõ ngày, tháng, năm lập văn bản. Việc quy định như trên là tất yếu vì đây
chính là một trong những căn cứ xác định thời điểm phát sinh hiệu lực của
thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân.
Nhằm đảm bảo văn bản thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn
nhân có giá trị pháp lý thì văn bản đó còn phải có chữ ký của cả hai vợ chồng.
Chữ ký là của cả hai vợ chồng thể hiện sự thống nhất và mặt ý chí của cả hai
bên về việc thỏa thuận chia tài sản chung. Nếu văn bản thiếu chữ ký của bất
kỳ người nào thì đều không có giá trị pháp lý. Quy định này nhằm đảm bảo
lợi ích chính đáng của vợ chồng và các thành viên trong gia đình, tránh
trường hợp phá tán tài sản chung của vợ chồng.
45
Luật HN&GĐ năm 1986 quy định văn bản thỏa thuận chia tài sản
chung của vợ chồng phải được Tòa án công nhận, còn theo Luật HN&GĐ
năm 2000 quy định văn bản thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn
nhân có thể được công chứng (hoặc không) tùy theo yêu cầu của vợ chồng,
trừ trường hợp pháp luật quy định một số trường hợp văn bản thỏa thuận chia
tài sản chung của vợ chồng bắt buộc phải được công chứng thì văn bản đó
phải được công chứng theo đúng quy định (chẳng hạn văn bản thỏa thuận liên
quan đến bất động sản). Như vậy, có thể thấy rằng Luật HN&GĐ hiện hành
rất tôn trọng quyền tự định đoạt của vợ chồng đối với tài sản chung của họ.
Vợ chồng có quyền thỏa thuận những tài sản nào được chia, phần tài sản nào
không chia; tỷ lệ phần chia cho mỗi bên; các yêu cầu khác mà không trái với
quy định của pháp luật.
Về cơ bản các thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân chứa
đựng tương đối đầy đủ các nội dung cần thiết theo quy định của pháp luật. Tuy
nhiên, việc không quy định thỏa thuận chia tài sản chung phải theo một mẫu
văn bản thống nhất, do đó trên thực tế có rất nhiều nội dung không được đề
cập. Chẳng hạn như lý do chia tài sản chung, qua nghiên cứu chúng tôi nhận
thấy không có thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân nào được
công chứng tại các văn phòng công chứng ghi nhận lý do chia vì vợ chồng đầu
tư kinh doanh riêng, thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng hoặc các lý do khác, mặc
dù đây là điều khoản bắt buộc. Chính điều này đã tạo ra sự “tùy tiện” để vợ
chồng có cơ hội chia tài sản chung không theo đúng quy định của pháp luật, giả
sử như trường hợp vợ chồng mâu thuẫn về mặt tình cảm nhưng không muốn ly
hôn và không muốn chung sống với nhau mà chỉ muốn chia tài sản chung.
Trong những trường hợp như vậy, luật cần dự liệu cần thiết bắt buộc phải ghi
nhận lý do chia tài sản chung trong văn bản thỏa thuận để tránh việc gián tiếp
thừa nhận chế độ ly thân và đảm bảo đúng bản chất của việc chia tài sản chung
trong thời kỳ hôn nhân.
46