1. Trang chủ >
  2. Thạc sĩ - Cao học >
  3. Luật >

3 Các trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (864.74 KB, 120 trang )


hưởng đến chế độ tài sản chung của vợ chồng, quyền và lợi ích của các thành

viên trong gia đình và lợi ích của người thứ ba trong các giao dịch dân sự liên

quan đến tài sản chung của vợ chồng. Chính vì những hậu quả về mặt pháp lý

và về mặt xã hội của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân nên pháp

luật quy định thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân bắt buộc

phải được lập thành văn bản. Quy định này là cần thiết vì những lý do sau đây:

- Văn bản thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là cơ sở

pháp lý quan trọng nhất để giải quyết tranh chấp tài sản giữa hai vợ chồng khi

có mâu thuẫn xảy ra;

- Nó là cơ sở pháp lý để giải quyết các tranh chấp liên quan đến quyền lợi

của người thứ ba trong các giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của vợ chồng;

- Đây là căn cứ để xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng để

khôi phục lại chế độ tài sản chung của vợ chồng (nếu có);

- Là cơ sở pháp lý nhằm ngăn chặn các hành vi chia tài sản chung nhằm

mục đích trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản với bên thứ ba trong các

giao dịch dân sự hoặc các hành vi vi phạm pháp luật.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 29 Luật HN&GĐ năm 2000 cũng như

khoản 1, 2 Điều 6 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP quy định thỏa thuận chia tài

sản trong thời kỳ hôn nhân phải được lập thành văn bản nhưng không quy

định cụ thể một hình thức văn bản nhất định. Vì vậy, trên thực tế văn bản thỏa

thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân rất đa dạng, có thể được thể

hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như văn bản viết tay, văn bản đánh máy,

fax, telex,… và tất cả các hình thức này đều được pháp luật chấp nhận.

2.3.1.2 Nội dung của thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng trong

thời kỳ hôn nhân

Bên cạnh việc tuân thủ quy định về mặt hình thức của văn bản thỏa

thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, Luật HN&GĐ còn đặt ra các



44



yêu cầu về mặt nội dung của thỏa thuận chia tài sản chung. Điều 6 Nghị định

70/2001/NĐ-CP quy định văn bản thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ

hôn nhân phải ghi rõ các nội dung sau:

- Lý do chia tài sản;

- Phần tài sản chia (bao gồm động sản, bất động sản, các quyền tài sản),

trong đó cần mô tả chi tiết những tài sản nào được chia hoặc giá trị phần tài

sản được chia;

- Phần tài sản còn lại không chia (nếu có);

- Thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản chung;

- Các nội dung khác (nếu có).

Ngoài ra, văn bản thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân

phải ghi rõ ngày, tháng, năm lập văn bản và phải có chữ ký của cả hai vợ

chồng, văn bản phải có người làm chứng hoặc được công chứng, theo yêu cầu

của vợ chồng hoặc yêu cầu của pháp luật.

Để có cơ sở giải quyết các tranh chấp phát sinh giữa vợ và chồng và

các tranh chấp khác liên quan đến lợi ích của người thứ ba trong các giao dịch

dân sự thì văn bản thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân phải

ghi rõ ngày, tháng, năm lập văn bản. Việc quy định như trên là tất yếu vì đây

chính là một trong những căn cứ xác định thời điểm phát sinh hiệu lực của

thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân.

Nhằm đảm bảo văn bản thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn

nhân có giá trị pháp lý thì văn bản đó còn phải có chữ ký của cả hai vợ chồng.

Chữ ký là của cả hai vợ chồng thể hiện sự thống nhất và mặt ý chí của cả hai

bên về việc thỏa thuận chia tài sản chung. Nếu văn bản thiếu chữ ký của bất

kỳ người nào thì đều không có giá trị pháp lý. Quy định này nhằm đảm bảo

lợi ích chính đáng của vợ chồng và các thành viên trong gia đình, tránh

trường hợp phá tán tài sản chung của vợ chồng.



45



Luật HN&GĐ năm 1986 quy định văn bản thỏa thuận chia tài sản

chung của vợ chồng phải được Tòa án công nhận, còn theo Luật HN&GĐ

năm 2000 quy định văn bản thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn

nhân có thể được công chứng (hoặc không) tùy theo yêu cầu của vợ chồng,

trừ trường hợp pháp luật quy định một số trường hợp văn bản thỏa thuận chia

tài sản chung của vợ chồng bắt buộc phải được công chứng thì văn bản đó

phải được công chứng theo đúng quy định (chẳng hạn văn bản thỏa thuận liên

quan đến bất động sản). Như vậy, có thể thấy rằng Luật HN&GĐ hiện hành

rất tôn trọng quyền tự định đoạt của vợ chồng đối với tài sản chung của họ.

Vợ chồng có quyền thỏa thuận những tài sản nào được chia, phần tài sản nào

không chia; tỷ lệ phần chia cho mỗi bên; các yêu cầu khác mà không trái với

quy định của pháp luật.

Về cơ bản các thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân chứa

đựng tương đối đầy đủ các nội dung cần thiết theo quy định của pháp luật. Tuy

nhiên, việc không quy định thỏa thuận chia tài sản chung phải theo một mẫu

văn bản thống nhất, do đó trên thực tế có rất nhiều nội dung không được đề

cập. Chẳng hạn như lý do chia tài sản chung, qua nghiên cứu chúng tôi nhận

thấy không có thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân nào được

công chứng tại các văn phòng công chứng ghi nhận lý do chia vì vợ chồng đầu

tư kinh doanh riêng, thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng hoặc các lý do khác, mặc

dù đây là điều khoản bắt buộc. Chính điều này đã tạo ra sự “tùy tiện” để vợ

chồng có cơ hội chia tài sản chung không theo đúng quy định của pháp luật, giả

sử như trường hợp vợ chồng mâu thuẫn về mặt tình cảm nhưng không muốn ly

hôn và không muốn chung sống với nhau mà chỉ muốn chia tài sản chung.

Trong những trường hợp như vậy, luật cần dự liệu cần thiết bắt buộc phải ghi

nhận lý do chia tài sản chung trong văn bản thỏa thuận để tránh việc gián tiếp

thừa nhận chế độ ly thân và đảm bảo đúng bản chất của việc chia tài sản chung

trong thời kỳ hôn nhân.

46



Một vấn đề nữa là trong thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn

nhân không ghi nhận hậu quả sau khi chia tài sản chung là một điều khoản bắt

buộc, trong đó có quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với nhau và đối với gia

đình sau khi chia tài sản chung. Dù là chia một phần hay chia toàn bộ tài sản

thì trách nhiệm của vợ chồng đối với gia đình và đối với nhau vẫn tồn tại trên

cơ sở quan hệ nhân thân chưa chấm dứt theo quy định của pháp luật. Thực tế

cho thấy, việc thực hiện nghĩa vụ sau khi chia tài sản chung phụ thuộc hoàn

toàn vào ý chí của vợ, chồng. Nếu trong trường hợp sau khi chia tài sản chung

mà một trong hai bên vợ chồng rơi vào hoàn cảnh khó khăn, túng thiếu và bên

kia không quan tâm, chăm sóc thì giải quyết như thế nào? Hoặc trường hợp

sau khi chia tài sản chung và mỗi người ở riêng mỗi nơi, con cái ai sẽ chịu

trách nhiệm nuôi dạy, hoặc yêu cầu tòa án giải quyết xác định quyền nuôi con

sau khi chia tài sản chung thì tòa án có được thụ lý vụ việc và hướng xử lý

như thế nào? Với những vấn đề vừa đề cập, luật cần xem xét và có hướng quy

định cho phù hợp với thực tiễn.

2.3.1.3 Thời điểm có hiệu lực của thỏa thuận chia tài sản chung của vợ

chồng trong thời kỳ hôn nhân

Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là một quá

trình phức tạp và tốn kém thời gian. Tuy nhiên, việc chia tài sản chung trong

thời kỳ hôn nhân không phải luôn luôn có hiệu lực pháp luật. Do đó, việc xác

định thời điểm có hiệu lực của thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn

nhân rất quan trọng và cần thiết, vì hai lý do sau: thứ nhất, đây là cơ sở pháp

lý để xác định khi nào vợ (chồng) có quyền sở hữu tài sản chung đã chia; thứ

hai, căn cứ vào thời điểm có hiệu lực của văn bản thỏa thuận chia tài sản

chung, vợ (chồng) đã được chia tài sản không cần có sự bàn bạc, thỏa thuận

với người còn lại đối với tài sản đã chia.

Tùy từng trường hợp cụ thể mà việc xác định thời điểm có hiệu lực của



47



thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là khác nhau. Luật

HN&GĐ năm 2000 không quy định cụ thể về hiệu lực của văn bản thỏa thuận

chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Để giải quyết về vấn đề hiệu lực

này, Điều 7 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP quy định hiệu lực của thỏa thuận

chia tài sản chung gồm một số trường hợp cụ thể như sau:

- Trong trường hợp văn bản thỏa thuận chia tài sản của vợ chồng không

xác định rõ thời điểm có hiệu lực của việc chia, thì hiệu lực được tính từ ngày,

tháng, năm lập văn bản;

Thực tế có rất nhiều cặp vợ chồng muốn chia tài sản chung trong thời

kỳ hôn nhân nhưng vì một vài lý do nào đó, trong văn bản thỏa thuận chia

không xác định thời điểm có hiệu lực của văn bản thỏa thuận chia dẫn đến

văn bản này không có hiệu lực thi hành. Để đảm bảo khả năng thực thi của

văn bản thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, pháp luật yêu

cầu văn bản thỏa thuận phải ghi rõ ngày, tháng, năm lập biên bản để có cơ sở

giải quyết nếu có mâu thuẫn xảy ra.

- Thời điểm có hiệu lực được xác định theo thỏa thuận của vợ chồng

ghi trong văn bản thỏa thuận chia tài sản chung.

Trên cơ sở tôn trọng tuyệt đối quyền định đoạt của chủ sở hữu tài sản,

pháp luật HN&GĐ cho phép vợ chồng được quyền thỏa thuận chia tài sản

chung trong thời kỳ hôn nhân đồng nghĩa họ có quyền ấn định thời điểm thỏa

thuận chia đó có hiệu lực pháp luật. Có nghĩa vợ chồng được quyền ấn định

ngày, tháng, năm làm phát sinh hiệu lực của thỏa thuận chia tài sản chung

trong thời kỳ hôn nhân mà không cần có sự can thiệp của bất kỳ chủ thể nào.

Việc cho phép vợ chồng có quyền ấn định ngày làm phát sinh hiệu lực của

văn bản thỏa thuận chia sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho vợ chồng có sự chuẩn

bị kỹ về mọi mặt sau khi chia tài sản chung và chủ động thực hiện đúng kế

hoạch đã đề ra. Tuy nhiên, thực tế đã có một số cặp vợ chồng lợi dụng quyền



48



năng này để chia tài sản chung nhằm trốn tránh việc thực hiện các nghĩa vụ

dân sự hoặc các hành vi vi phạm pháp luật. Vì vậy, để bảo vệ quyền và lợi ích

chính đáng của các bên và nhằm mục đích ngăn ngừa các hành vi vi phạm

pháp luật, pháp luật cần quy định văn bản thỏa thuận chia tài sản chung của

vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân nhất thiết phải có công chứng, chứng thực

của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định.

- Trường hợp văn bản thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn

nhân được công chứng, chứng thực theo yêu cầu của vợ chồng thì thời điểm

có hiệu lực của văn bản được tính như sau:

+ Nếu trong văn bản thỏa thuận xác định rõ ngày có hiệu lực thì thời

điểm có hiệu lực được tính từ ngày xác định trong văn bản thỏa thuận đó.

+ Nếu trong văn bản không xác định ngày có hiệu lực thì thời điểm có

hiệu lực được tính từ ngày văn bản đó được công chứng, chứng thực.

- Trong trường hợp văn bản thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng

phải được công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật như chia

quyền sử dụng đất, chia nhà ở,… thì hiệu lực được tính từ ngày văn bản đó

được công chứng, chứng thực.

Tóm lại, thời điểm có hiệu lực của thỏa thuận chia tài sản chung của vợ

chồng trong thời kỳ hôn nhân là một yếu tố rất quan trọng để văn bản thỏa

thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân có hiệu lực pháp lý, do đó cần

thiết phải tuân thủ theo đúng các yêu cầu của pháp luật về nội dung và hình

thức của văn bản thỏa thuận.

2.3.2 Vợ chồng yêu cầu Tòa án chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân

Trên thực tế không phải mọi trường hợp các cặp vợ chồng có thể tự

chia tài sản chung theo thỏa thuận giữa hai người. Có thể vì một lý do nào đó

làm nảy sinh những bất đồng, mâu thuẫn mà vợ chồng không thể tự mình thực

hiện việc chia tài sản chung. Trong những trường hợp như vậy, Luật HN&GĐ

năm 2000 cho phép vợ chồng có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.



49



Tòa án có thể căn cứ vào các quy định của pháp luật hiện hành để giải

quyết những nguyện vọng chính đáng của vợ, hoặc chồng. Một trong những

căn cứ pháp lý quan trọng để giải quyết là nguyên tắc chia đôi tài sản chung.

Đa phần hiện nay các Tòa án giải quyết chia tài sản chung trong thời kỳ hôn

nhân đều áp dụng nguyên tắc này để chia. Tuy nhiên, hiện nay pháp luật hiện

hành lại không ghi nhận nguyên tắc này. Hồi chiếu Luật HN&GĐ năm 1986

cho thấy đã có ghi nhận nguyên tắc này trong quá trình giải quyết các vụ việc

về chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân như khi giải quyết các vụ án ly

hôn. Điều 18 Luật HN&GĐ năm 1986 quy định:

“Khi hôn nhân còn tồn tại, nếu một bên yêu cầu và có lý do chính đáng thì

có thể chia tài sản chung của vợ chồng theo quy định tại Điều 42 của Luật này”.

Như vậy, Tòa án phải căn cứ vào quy định tại Điều 42 Luật HN&GĐ

năm 1986 để giải quyết việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Theo

đó, tài sản của vợ chồng được chia như sau:

- Tài sản riêng của bên nào thì vẫn thuộc quyền sở hữu của bên ấy;

- Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi, nhưng có xem xét một

cách hợp lý đến tình hình tài sản, tình trạng cụ thể của gia đình và công sức

đóng góp của mỗi bên;

- Trong trường hợp vợ chồng do còn sống chung với gia đình mà tài

sản của bản thân vợ chồng không xác định được thì vợ hoặc chồng được chia

một phần trong khối tài sản chung của gia đình, căn cứ vào công sức của

người được chia đóng góp vào việc duy trì và phát triển khối tài sản chung,

cũng như vào đời sống chung của gia đình. Lao động trong gia đình được coi

như lao động sản xuất;

- Khi chia tài sản, phải bảo vệ quyền lợi của người vợ và của người con

chưa thành niên, bảo vệ lợi ích chính đáng của sản xuất và nghề nghiệp [29].

Tuy nhiên, Luật HN&GĐ năm 2000 không ghi nhận nguyên tắc này để



50



tòa án có căn cứ xử lý. Có thể đây là điểm “mở” để tòa án có thể căn cứ vào

từng điều kiện cụ thể của từng trường hợp để giải quyết yêu cầu hay có thể do

các nhà làm luật “bỏ sót” trong quá trình làm luật. Vì vậy, thực tiễn giải quyết

rất nhiều khó khăn, vướng mắc. Khi thụ lý vụ việc, một số tòa án lúng túng

không biết phải căn cứ vào đâu để giải quyết hợp lý yêu cầu của vợ chồng?

Xuất phát từ đặc trưng của tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất, trong đó tỷ lệ

phần quyền sở hữu tài sản của mỗi bên vợ chồng trong khối tài sản chung là

ngang bằng nhau. Vì vậy, thiết nghĩ pháp luật hiện hành nên bổ sung nguyên

tắc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân áp dụng theo nguyên tắc chia tài

sản chung khi ly hôn theo quy định tại Điều 95 Luật HN&GĐ năm 2000.

Khoản 2 - Điều 95 Luật HN&GĐ năm 2000 quy định:

Tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi, nhưng có

xem xét hoàn cảnh của mỗi bên, tình trạng tài sản, công sức đóng góp của

mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì, phát triển tài sản này. Lao động của vợ,

chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;

Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên hoặc đã

thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao

động và không có tài sản để tự nuôi mình;

Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và

nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;

Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật hoặc theo giá trị;

bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được

hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần giá trị chênh lệch.

Vì vậy, pháp luật hiện hành cần bổ sung nguyên tắc chia tài sản chung

của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có ý nghĩa thiết thực trong công tác xét

xử của tòa án nhằm đảm bảo lợi ích chính đáng của vợ chồng.



51



2.4 Phương thức chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ

hôn nhân

Luật HN&GĐ năm 1986 chỉ ghi nhận vợ chồng có quyền yêu cầu chia

tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, nhưng không quy định có thể chia một

phần hay toàn bộ tài sản. Kế thừa và phát triển Luật HN&GĐ năm 1986, Luật

HN&GĐ năm 2000 đã quy định cụ thể hơn về phương thức chia tài sản chung

trong thời kỳ hôn nhân. Điều 29 Luật HN&GĐ năm 2000 quy định vợ chồng

có quyền thỏa thuận hoặc yêu cầu Tòa án khi không thỏa thuận được việc chia

tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Tuy nhiên điều 29 Luật HNGĐ năm 2000

không nêu rõ cụ thể phương thức chia như thế nào? Xem xét Điều 30 Luật

HN&GĐ năm 2000 có quy định: “Trong trường hợp chia tài sản chung của vợ

chồng thì hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã được chia thuộc sở hữu riêng

của mỗi người; phần tài sản còn lại không chia vẫn thuộc sở hữu chung của vợ

chồng”. Với quy định này có thể hiểu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn

nhân, vợ chồng được quyền chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung.

2.4.1 Chia một phần tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân

Chia một phần tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân có nghĩa là chỉ

chia một lượng nhất định trong khối tài sản chung của vợ chồng. Khối tài sản

chung của vợ chồng được xác định theo Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2000:

Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập

do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp

khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế

chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thỏa

thuận là tài sản chung.

Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung

của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn,

được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận [31].



52



Vợ chồng có quyền thỏa thuận hoặc yêu cầu Tòa án chỉ chia một lượng

tài sản nhất định trong toàn bộ khối tài sản được xác định tại Điều 27 Luật

HN&GĐ năm 2000. Thực tế có rất nhiều gia đình khi yêu cầu chia tài sản

chung trong thời kỳ hôn nhân chỉ chia một phần tài sản hoặc một nhóm tài sản

nhất định. Có thể vợ chồng chỉ yêu cầu chia một phần tài sản là quyền sử

dụng đất hoặc chỉ chia phần vốn góp vào một doanh nghiệp để sản xuất, kinh

doanh, làm dịch vụ hoặc chỉ chia một khoản tiền, một khoản đá quý, kim

cương, ngoại tệ hoặc chia một loại giấy tờ có giá…, còn các tài sản khác như

nhà ở, công xưởng sản xuất hoặc tư liệu sản xuất khác thì không chia, vẫn

thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng. Chẳng hạn có cặp vợ chồng có

mong muốn sau: “Vợ chồng tôi có một căn hộ cho thuê, mua bằng tiền của

hai vợ chồng. Tôi muốn bán nó để chia tài sản chung với chồng nhưng không

phải ly dị thì có được không? [25]”. Như vậy, trong tình huống trên ngoài một

căn hộ cho thuê, cặp vợ chồng này có thể còn có nhiều tài sản chung khác

nhưng họ chỉ muốn chia căn hộ cho thuê mà không phải chia phần tài sản còn

lại. Vì vậy, chúng tôi thấy rằng thông thường giá trị phần tài sản được chia chỉ

chiếm một lượng nhất định trong tổng giá trị tài sản chung của vợ chồng. Việc

chia một phần tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân được vợ chồng sử dụng

phổ biến trong cuộc sống, vì giải pháp này phù hợp với mong muốn chính

đáng của vợ chồng, vừa bảo đảm khả năng thực hiện nghĩa vụ về tài sản của

vợ hoặc chồng, đảm bảo được lợi ích chung của gia đình vừa có thể duy trì

tính bền vững của gia đình.

Khi chia một phần tài sản chung, vợ chồng có thể thỏa thuận chia phần

tài sản đem chia sẽ giao cho một bên vợ, chồng hoặc có thể chia đều cho vợ

chồng hoặc chia theo thỏa thuận khác. Đối với thỏa thuận chia một phần tài

sản thường ít có khả năng thực hiện việc chia để nhằm mục đích trốn tránh

việc thực hiện nghĩa vụ về tài sản vì phần tài sản đem chia chỉ chiếm rất ít so



53



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

×