Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (864.74 KB, 120 trang )
đáng”. Trên thực tế có rất nhiều vợ chồng có mâu thuẫn cá nhân và không
thỏa thuận được nên yêu cầu chia tài sản chung nhưng không muốn chấm dứt
hôn nhân. Tuy nhiên, trong Luật HN&GĐ năm 2000 và các văn bản hướng
dẫn chi tiết chưa hướng dẫn chi tiết về lý do này.
Ví dụ, Chị Vương Thị Hạnh và anh Nguyễn Văn Nhiên kết hôn với
nhau vào năm 2000, có đăng ký kết hôn. Sau khi kết hôn, chị Hạnh về sống
chung với gia đình chồng. Chưa đầy một năm thì hai vợ chồng phát sinh mâu
thuẫn và sống ly thân với nhau. Quá trình chung sống hai người có một người
con chung tên là Nguyễn Minh Tâm, sinh ngày 15/9/2001. Sự việc đã được
chính quyền địa phương động viên hòa giải để hàn gắn tình cảm vợ chồng
nhưng không thành. Anh Nhiên nhất quyết đòi ly hôn với chị Hạnh, còn chị
Hạnh thì không đồng ý ly hôn nhưng có yêu cầu chia tài sản chung.
Về tài sản chung của vợ chồng: chị Hạnh khai gồm tư trang ngày cưới
10 chỉ vàng 24K; tiền 3.000.000 đồng cộng thêm tài sản riêng của chị số tiền
2.000.000 đồng và 3 chỉ vàng 24K. Toàn bộ tài sản trên hai vợ chồng gom
vào mở tiện mua bán phụ tùng xe gắn máy do anh Nhiên quản lý. Ngoài ra chị
Hạnh còn đưa anh Nhiên số tiền 2.000.000 đồng để anh Nhiên mua chiếc xe
gắn máy Trung Quốc mà anh Nhiên đang chạy. Còn anh Nhiên thì thừa nhận
tài sản anh đang quản lý như chị Hạnh khai là đúng. Duy chỉ có chiếc xe máy
Trung Quốc anh đang chạy, chị Hạnh khai có đưa 2.000.000 đồng để hùn mua
là không có, đây là tài sản riêng của anh. Do mâu thuẫn gay gắt không thể hàn
gắn được nên anh yêu cầu xin ly hôn, chia tài sản chung và hoàn lại phần tài
sản riêng của chị Hạnh như chị Hạnh yêu cầu.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 10/DSST ngày 17/9/2002 của TAND
huyện C.K đã tuyên bố chấp nhận yêu cầu xin chia tài sản chung của chị
Hạnh căn cứ theo điều 29 của Luật HN&GĐ năm 2000. TAND huyện C.K đã
tuyên xử buộc anh Kiên thanh toán cho chị Hạnh 5 chỉ vàng 24K, số tiền
76
1.500.000đ trong khối tài sản chung của vợ chồng. Đồng thời thanh toán tiếp
cho chị Hạnh 3 chỉ vàng 24K và 2.000.000đ là tài sản riêng của chị Hạnh.
Tổng cộng là 8 chỉ vàng 24K và 3.500.000đ (Ba triệu năm trăm ngang đồng).
Bác yêu cầu của chị Hạnh cho rằng có đưa 2.000.000 đồng tiền góp vào mua
xe gắn máy với anh Nhiên.
Khi chị Hạnh và anh Nhiên không đồng ý với nên đã có đơn kháng cáo
không đồng ý với toàn bộ quyết định của án sơ thẩm nên yêu cầu tòa án xem
xét lại. Tại Bản án số 04/DSPT ngày 15/1/2003 của TAND tỉnh TV không có
thay đổi nhiều về nội dung so với bản án sơ thẩm trước đó. Tòa án cấp phúc
thẩm đã chấp nhận kháng cáo của chị Hạnh và yêu cầu anh Nhiên phải thanh
toán cho chị Hạnh số tiền 3.000.000 đồng trong khối tài sản chung của vợ
chồng. Đồng thời thanh toán tiếp cho chị Hạnh 3 chỉ vàng 24K và 2.000.000
đồng là tài sản riêng của chị Hạnh. Tổng cộng anh Nhiên phải thanh toán cho
chị Hạnh 8 chỉ vàng 24K và 5.000.000 đồng.
Qua vụ việc trên cho thấy, việc giải quyết của cơ quan tòa án tại hai
bản án sơ thẩm và phúc thẩm nêu trên là chưa thực sự chính xác, bởi cả hai
bản án đều lấy lý do chia tài sản chung do vợ chồng mâu thuẫn không thể hàn
gắn được và có yêu cầu chia tài sản chung. Vậy, dẫn chiếu theo quy định của
pháp luật hiện hành, lý do chị Hạnh đưa ra có phù hợp hay không? Trong khi
đó, anh Dũng lại có đơn xin ly hôn và không muốn chia tài sản chung, cơ
quan tòa án lại không xem xét đến nguyện vọng chính đáng này. Bởi vậy, cả
hai bản án này chưa bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của anh Dũng.
Trên thực tế, bên cạnh lý do vợ chồng mâu thuẫn không thể hàn gắn
được và yêu cầu chia tài sản chung để ở riêng, còn có một số lý do khác Tòa
án vẫn thụ lý và giải quyết cho vợ chồng. Chẳng hạn như trường hợp của bà
Tô Thị Niển và ông Huỳnh Văn Chi.
Bà Tô Thị Niển và ông Huỳnh Văn Chi chung sống với nhau trên 44
77
năm và sinh được 11 người con chung, hiện còn sống 9 người, có gia đình ở
riêng 6 người, còn lại 3 người sống chung với ông bà. Cuộc sống gia đình ấm
no, hạnh phúc. Đến năm 1995 thì phát sinh mâu thuẫn, bà cho rằng ông Chi
hà hiếp, đánh đạp bà, từ đó bà Niên bỏ nhà ra đi cho đến năm 2001. Vì ông bà
lớn tuổi không làm đơn xin ly hôn mà chỉ yêu cầu chia tài sản chung của bà
Niển và ông Chi. Tài sản chung của vợ chồng ông bà gồm có: 01 căn nhà
trên; 01 căn nhà dưới 03 căn tất cả là đòn tay cột kèo bằng cây dầu, lợp lá; đất
ruộng 25.580 m2 đã cho anh Bóng trước đây hết 5.580m2, còn lại 20.000m2;
đất trồng cây hàng năm 4.820 m2; đất trồng cây lâu năm 3.620m2.
Tại bản án số 27/DSST ngày 21/11/2001 của TAND huyện D.H đã
chấp nhận chia tài sản chung của vợ chồng ông Chi, bà Niển. Công nhận sự
thỏa thuận giữa bà Niển và ông Chi, ông Chi đồng ý giao cho bà Niển được
hưởng 10.000m2 đất trồng lúa tại thửa 674 trong diện tích chung 25.580 m2;
buộc ông Chi giao cho bà Niển được quyền sử dụng 4.820 m2 đất trồng cây
lâu năm; buộc ông Chi giao cho bà Niển số tiền 2.892.000 đồng trị giá một
nửa căn nhà giao cho ông Chi được quyền sở hữu.
Việc TAND huyện D.H giải quyết như trên là đúng đắn, tuân thủ quy
định của pháp luật về xác định lý do chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân
và phù hợp với mong muốn chính đáng của ông Chi và bà Niển, đảm bảo tính
bền vững của gia đình.
Qua hai bản án trên cho thấy lý do vợ chồng có mâu thuẫn hoặc vợ
chồng lớn tuổi không muốn ly hôn để yêu cầu chia tài sản chung khi hôn nhân
còn tồn tại là rất phổ biến. Ngoài hai lý do trên, thực tế vợ chồng có thể yêu
cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân vì lý do một bên vợ hoặc chồng
có hành vi ngoại tình và đem tài sản chung cho người khác, hoặc trường hợp
vợ chồng có hành vi phá tán tài sản (nghiện hút, cờ bạc, rượu chè,…), đây là
những lý do chính đáng tòa án cần xem xét để chấp nhận yêu cầu của vợ
78
chồng, đảm bảo duy trì đời sống chung của gia đình. Liên quan nội dung này,
BLDS và Thương mại Thái Lan có quy định nếu có những lý do chính đáng
sau đây thì có thể yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân bao gồm:
“vợ hoặc chồng gây ra những mất mát tài sản không hợp lý cho tài sản chung
hoặc tình trạng có thể dẫn đến phá hủy tài sản chung hay do quản lý kém
hoặc thiếu đạo đức mà việc duy trì cộng đồng tài sản sẽ gây phương hại cho
người kia” [2]. Vì vậy, pháp luật hiện hành cần đưa ra hướng dẫn cụ thể về
việc xác định lý do chính đáng để tạo điều kiện cho vợ chồng thực hiện quyền
tài sản của bản thân.
Thứ hai, Luật HN&GĐ năm 2000 không quy định cụ thể về nguyên tắc
chia tài sản trong thời kỳ hôn nhân, tuy nhiên thông qua cách giải quyết của
Tòa án các trường hợp chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân đã cho thấy
đều áp dụng nguyên tắc chia đôi phần tài sản mà vợ chồng có yêu cầu chia.
Việc phân chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân được các
thẩm phán vận dụng dựa trên nguyên tắc chia đôi khi ly hôn nhằm đảm bảo sự
bình đẳng giữa vợ chồng đối với tài sản chung. Khi áp dụng nguyên tắc chia
đôi cần được hiểu là khi một bên vợ (chồng) được chia một phần tài sản trong
khối tài sản chung thì người vợ (chồng) còn lại cũng được chia một phần
tương ứng trừ khi vợ chồng có thỏa thuận khác. Do vậy để tránh sự tùy tiện
của tòa án khi giải quyết việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân và
đảm bảo quyền bình giữa vợ và chồng trong việc chiếm hữu, sử dụng, định
đoạt tài sản chung, luật cần bổ sung nguyên tắc chia tài sản chung trong thời
kỳ hôn nhân tương tự Luật HN&GĐ năm 1986, cụ thể là việc chia tài sản
chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân phải đảm bảo nguyên tắc bình
đẳng giữa và chồng.
Thứ ba, một trường hợp thực tế xảy ra là nếu vợ chồng lấy lý do chia
tài sản chung do có mâu thuẫn nên tòa án giải quyết cho vợ chồng được chia.
79
Sau khi chia tài sản chung, mỗi người sống riêng mỗi nơi và không còn quan
tâm đến lợi ích của các thành viên trong gia đình. Điều này mặc nhiên thừa
nhận chế định ly thân hay không? Trên thực tế, hiện tượng ly thân tồn tại khá
phổ biến do sự thay đổi về tư duy và những biến động của thị trường. Vì vậy,
hiện tượng này được rất nhiều người quan tâm và chia sẽ trên các diễn đàn và
các phương tiện truyền thông khác.
Khi mâu thuẫn vợ chồng đi đến căng thẳng, mọi nỗ lực hòa giải hầu
như bế tắc thì ý định ly hôn xuất hiện. Nhiều người nảy sinh tâm lý giải quyết
càng nhanh càng tốt, không muốn kéo dài tình trạng căng thẳng, bầu không
khí gia đình ô nhiễm đầu độc con cái, để lại nhiều di hại. Tuy nhiên do nhiều
lý do vướng mắc như con cái, tài sản, danh tiếng mà nhiều gia đình chỉ dừng
ở ly thân. Xu hướng này đang xuất hiện ngày càng nhiều tại các khu vực
thành thị [51].
Một cuộc điều tra do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp với
Tổng cục Thống kê, với sự hỗ trợ của UNICEF cho thấy, số vụ ly hôn đang
tăng nhanh. Nếu năm 2000 chỉ có 51.361 vụ ly hôn thì năm 2005 đã tăng lên
65.929 vụ [3]. Kết quả điều tra cũng cho thấy:
Số lượng các vụ án ly hôn tăng theo các năm có thể do quan niệm xã
hội đối với vấn đề ly hôn không nặng nề như trước. Ba nguyên nhân chính về
ly hôn là: mâu thuẫn về lối sống, ngoại tình và kinh tế khó khăn [3, tr.21].
Theo quy định của pháp luật hiện hành, nếu vợ chồng có sống ly thân
thì tài sản của mỗi bên tạo ra vẫn đương nhiên được xem là tài sản chung của
vợ chồng vì nó được tạo ra trong thời kỳ hôn nhân. Vậy giả sử có trường hợp
hai vợ chồng sống ly thân nhưng một bên không chịu lao động và có hành vi
phá tán tài sản, còn một bên ra sức lao động để tạo ra của của thì xử lý như
thế nào? Quy định này của Luật HN&GĐ năm 2000 đã không đảm bảo quyền
lợi chính đáng của vợ chồng. Mặt khác, nhiều vấn đề khác nảy sinh khi vợ
80
chồng sống ly thân, chẳng hạn như việc chăm sóc và nuôi dưỡng con cái, khi
người vợ mang thai trong thời gian sống ly thân được giải quyết như thế nào?
Đây là một vướng mắc từ chính những quy định của pháp luật cần được dự
liệu phù hợp với xu thế phát triển chung của xã hội.
Thứ tư, đối với quyền và nghĩa vụ của vợ chồng sau khi chia tài sản
chung chưa được pháp luật hiện hành ghi nhận. Điều này đã ảnh hưởng rất
lớn đến đời sống chung của gia đình, đặc biệt là con chưa thành niên, con đã
thành niên không có khả năng lao động, hoặc mất năng lực hành vi dân sự, bị
tàn tật,… Sau khi tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, về mặt pháp lý quan
hệ nhân thân không chấm dứt nhưng quan hệ tài sản giữa vợ chồng đã thay
đổi. Trong một vài trường hợp mục đích của hôn nhân không thực hiện
được.Việc pháp luật cho phép vợ chồng có thể chia tài sản chung mà không
quy định trách nhiệm của họ đối với gia đình sau khi chia tài sản chung là một
điều cần được xem xét lại. Giả sử, với lý do kinh doanh riêng, vợ chồng thỏa
thuận chia toàn bộ tài sản chung, tài sản của ai làm ra thuộc về người đó, thì
khi đó cuộc sống chung của vợ chồng, lợi ích gia đình được đặt ở vị trí nào?
Trách nhiệm của vợ chồng với con cái sẽ được xử lý như thế nào?... Pháp luật
đã quy định: “Tài sản chung của vợ chồng được chi dùng để bảo đảm nhu cầu
của gia đình, thực hiện các nghĩa vụ chung của vợ chồng” (khoản 2, Điều 28
Luật HN&GĐ), do vậy không nên đặt ra một quy định quá “mở” như Điều 29
Luật HN&GĐ đã ghi nhận; không nên cho phép vợ chồng được phân chia
phần tài sản chung dùng cho nhu cầu của gia đình và thực hiện các nghĩa vụ
chung của vợ chồng; nên quy định phương án cụ thể về việc đóng góp chi phí
cho đời sống chung của gia đình tương tự như quy định của BLDS Pháp [27].
Thứ năm, hiện nay pháp luật hiện hành chưa ghi nhận hậu quả pháp lý
của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân bị vô hiệu. Điều này gây
khó khăn cho việc xác định trách nhiệm trong việc thực hiện nghĩa vụ dân sự
81
với người thứ ba có liên quan, đặc biệt là khi có tranh chấp xảy ra. Có nhiều
trường hợp đã lợi dụng việc chia tài sản chung để trốn tránh việc thanh toán
nghĩa vụ với người khác. Chẳng hạn:
Trước đây, chị V có cho bà Nguyễn Thị C. vay tiền. Đến hạn, chị V yêu
cầu bà C. thanh toán tiền cho chị V nhưng do bà này không thanh toán nên chị
V đã gửi đơn khởi kiện, yêu cầu bà C. thanh toán tiền nợ. Tòa án đã xét xử,
tuyên bà C. có nghĩa vụ thanh toán cho chị V số tiền nợ và lãi suất quá hạn.
Bản án có hiệu lực pháp luật và chị V làm đơn yêu cầu Thi hành án bằng cách
phát mại tài sản là miếng đất diện tích 10 ha. Cơ quan Thi hành án cho biết
năm 2003 vợ chồng bà C. có lập văn bản thỏa thuận phân chia tài sản chung
với nội dung: Chồng bà C. được toàn quyền quản lý sử dụng phần đất nói trên.
Do đó, Cơ quan Thi hành án không thể kê biên khối tài sản này được [50].
Trong trường hợp trên, để chứng minh thỏa thuận chia tài sản chung
của vợ chồng bà C nhằm trốn tránh nghĩa vụ về tài sản đối với chị V là rất
phức tạp, nếu tòa án tuyên bố là vô hiệu thì sẽ căn cứ cơ sở pháp lý nào để
giải quyết nhằm đảm bảo lợi ích chính đáng của chị V? Một trường hợp
khác cũng khó xác định trách nhiệm của vợ chồng khi vợ chồng đầu tư kinh
doanh theo loại hình doanh nghiệp tư nhân. Theo quy định tại Điều 141 Luật
Doanh nghiệp, doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm
chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động
của doanh nghiệp. Tính chịu trách nhiệm vô hạn về tài sản là một trong
những hạn chế của chủ doanh nghiệp. Giả sử trong trường hợp người chồng
thành lập doanh nghiệp, nhưng hoạt động không có hiệu quả, dẫn đến thua
lỗ. Để trốn tránh việc trả nợ cho các chủ nợ, hai vợ chồng đã thỏa thuận chia
tài sản chung cho người vợ được hưởng phần lớn tài sản. Sau khi thỏa thuận
chia có hiệu lực, chủ nợ yêu cầu trả nợ thì người chồng không có đủ tài sản
riêng để thanh toán vì lúc này các thủ tục hợp thức hóa quyền sở hữu tài sản
82
cho người vợ đã thực hiện xong. Vậy, trong trường hợp này, làm thế nào để
đảm bảo lợi ích cho các chủ nợ?
Mặc dù Điều 11 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP đã quy định các trường
hợp người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được phép yêu cầu Tòa án tuyên
bố thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng là vô hiệu, nhưng chưa quy
định hậu quả pháp lý của việc Tòa án tuyên bố vô hiệu đó. Do vậy, đã nảy
sinh vấn đề sau khi bị Tòa án tuyên bố vô hiệu thì chế độ tài sản chung của vợ
chồng sẽ được khôi phục lại như thế nào? Việc thực hiện các nghĩa vụ tài sản
của vợ chồng với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan sẽ là như thế nào?
Thiết nghĩ, đây cũng là các vấn đề cần được quan tâm làm rõ, tránh tình trạng
xây dựng pháp luật chưa hoàn thiện.
Thứ sáu, pháp luật HN&GĐ hiện hành quy định thời điểm có hiệu lực
của thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân chưa thống nhất.
Khoản 1 Điều 7 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP quy định: “Trong trường hợp
văn bản thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng không xác định rõ thời
điểm có hiệu lực của việc chia tài sản, thì hiệu lực được tính từ ngày, tháng,
năm lập văn bản” [4]. Như vậy có thể hiểu rằng nếu nội dung này không
được xác định trong văn bản thì cũng không làm mất đi tính hợp pháp của nó,
bởi thời điểm có hiệu lực pháp định là thời điểm lập văn bản, mặc dù khoản 1
Điều 6 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP quy định trong văn bản thỏa thuận phải
ghi rõ thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản chung. Bên cạnh đó, văn bản
thỏa thuận chia tài sản chung sẽ không có hiệu lực trong trường hợp văn bản
thỏa thuận đó bắt buộc phải được công chứng.
Ngoài ra, nếu vợ chồng tự thỏa thuận và thực hiện lập văn bản chia tài
sản nhưng không ghi rõ thời điểm có hiệu lực thì thời điểm này được xác định
tính từ ngày, tháng, năm lập văn bản [4]. Điều này đã tạo ra một lỗ hổng lớn,
tạo điều kiện cho vợ chồng trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ riêng với người
83
khác. Chẳng hạn như trong trường hợp hai vợ chồng thành lập một doanh
nghiệp tư nhân nhưng đứng tên một bên. Khi doanh nghiệp này rơi vào tình
trạng khó khăn, thua lỗ kéo dài, số nợ phải trả quá lớn nhưng không có khả
năng thanh toán, họ đã lập văn bản thỏa thuận chia tài sản chung và ghi thời
gian thỏa thuận việc chia trước đó một thời gian dài, và theo quy định trên thì
thời gian được ghi nhận trong văn bản này chính là thời điểm có hiệu lực của
việc chia tài sản chung. Vì vậy, pháp luật hiện hành cần phải quy định thống
nhất về thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản chung trong trường hợp vợ
chồng tự thỏa thuận.
Thực tiễn cho thấy còn rất nhiều nội dung thiếu sót, bất hợp pháp từ
trong quy định của pháp luật thực định, do đó thiếu cơ sở pháp lý để đảm bảo
thực hiện các quyền của vợ chồng về tài sản, ảnh hưởng đến việc quyết định
của tòa án khi giải quyết yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng trong thời
kỳ hôn nhân. Vì vậy, cần thiết phải hoàn thiện các quy định của pháp luật về
việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân.
3.1.2 Những vướng mắc từ thực tiễn cần pháp luật điều chỉnh
Trên địa bàn cả nước hiện nay, việc chia tài sản chung trong thời kỳ
hôn nhân của vợ chồng xảy ra không nhiều, phụ thuộc rất lớn vào điều kiện
kinh tế - xã hội của từng địa phương. Địa phương tập trung nhiều yêu cầu
thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân chủ yếu ở Hà Nội,
Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Trà Vinh,.. Một số tỉnh, thành
còn lại số lượng vụ việc rất ít, hoặc không có trường hợp nào.
Chẳng hạn tại tỉnh Thừa Thiên - Huế, số lượng thụ lý yêu cầu Tòa án
chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân rất ít. Một phần do sự tác động của
nền kinh tế thị trường vào đời sống gia đình tại đây chưa lớn, một phần ảnh
hưởng tâm lý của người dân nên nhu cầu chia tài sản chung của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân chưa nhiều. Có thể thấy điều này qua bảng số liệu cụ
84
thể về yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân trên địa bàn tỉnh
Thừa Thiên - Huế sau [42]:
STT
TAND THỤ LÝ
1
NĂM
2007
2008
2009
2010
2011
TAND tỉnh Thừa Thiên - Huế
2
1
0
0
0
2
TAND thành phố Huế
0
0
1
0
0
3
TAND thị xã Hương Thủy
0
0
0
0
0
4
TAND thị xã Hương Trà
0
0
0
0
0
5
TAND huyện Phong Điền
0
0
0
0
0
6
TAND huyện Quảng Điền
0
0
0
0
0
7
TAND huyện Phú Vang
0
0
0
0
0
8
TAND huyện Phú Lộc
0
0
0
0
0
9
TAND huyện Nam Đông
0
0
1
0
0
10
TAND huyện A Lưới
0
0
0
0
0
2
1
2
0
0
Tổng cộng
Qua bảng thống kê số liệu trên cho thấy, yêu cầu chia tài sản chung của
vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân diễn ra trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên - Huế là
rất ít. Trong số những vụ việc trên, có một số vụ đã bị TAND các cấp đình chỉ
giải quyết do nhiều nguyên nhân khác nhau nên việc chia tài sản chung trong
thời kỳ hôn nhân cũng không thể thực hiện được. Điều này xuất phát từ đặc
điểm của tỉnh Thừa Thiên - Huế. Đây là nơi tồn tại triều đại phong kiến cuối
cùng của nước ta nên những ảnh hưởng mang nặng tư tưởng của một thời vẫn
còn tồn tại trong một số bộ phận gia đình, tính gia trưởng vẫn còn in sâu trong
tư tưởng của nam giới - phần lớn được xem người làm chủ trong gia đình. Vì
vậy, rất ít cặp vợ chồng muốn yêu cầu chia tài sản khi hôn nhân đang tồn tại,
họ rất sợ dư luận “dèm pha, chê cười”, sợ ảnh hưởng đến cuộc sống chung
85
của gia đình, đặc biệt ảnh hưởng tâm lý con cái của họ. Thêm vào đó, điều
kiện kinh tế ở đây chưa phát triển nhiều như một số tỉnh thành khác, hoạt
động đầu tư kinh doanh hoạt động chưa mạnh mẽ nên chưa tạo ra nhiều cơ
hội để vợ chồng mở rộng đầu tư kinh doanh.
Một số tòa án khác khi giải quyết việc chia tài sản chung trong thời kỳ
hôn nhân vẫn gặp một số vướng mắc từ thực tiễn cần được pháp luật điều
chỉnh. Chẳng hạn, tòa án chưa thống nhất trong việc xác định nguồn gốc tài
sản chung của vợ chồng để giải quyết việc chia tài sản chung trong thời kỳ
hôn nhân hoặc giải quyết chia tài sản trong thời kỳ hôn nhân khi vợ chồng yêu
cầu chia vì mục đích trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ với người khác, quyền
yêu cầu của người thứ ba có liên quan chưa được quan tâm,…
Ví dụ: Vụ việc của Ông Đặng Thành Phát và bà Huỳnh Thị Nga. Hai
ông bà kết hôn vào năm 1974 và có 4 người con chung. Tài sản chung của ông
bà gồm 01 lò bánh mì, 01 giường ngủ, 01 bàn dài, 01 quạt điện, 01 máy kole 7
và một số dụng cụ làm bánh mì. Năm 1998 ông Phát bị khởi tố hình sự và phải
đi tù giam, bà và các con ở nhà xây dựng 01 nhà tường lầu trên diện tích
108,4m2 đất của mẹ ông Phát ủy quyền cho bà sử dụng, tọa lạc tại thị trấn
Càng Long. Bà Nga cho rằng sau khi ra tù, ông Phát có vợ lẽ thường bỏ nhà đi
nên bà yêu cầu trọn quyền hưởng nhà đất và lò bánh mì nói trên là tài sản của
bà và các con bà. Ông Phát cũng đồng ý với lời khai của bà và đồng ý giao hết
tài sản bà Nga khai trên cho bà Nga và các con ông trọn quyền sở hữu.
Tại bản án số 62/2005/DSST ngày 04/05/2005 của TAND huyện C.L
đã chấp nhận yêu cầu của bà Nga. Tuy nhiên ngày 27/6/2005 VKSND tỉnh
TV đã kháng nghị bản án nói trên. Vì cho rằng vào năm 1991 ông Phát bị
khởi tố về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa, tại bản
án hình sự phúc thẩm số 1110/HSPT ngày 27/10/1992 của Tòa phúc thẩm
TAND tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đã xử buộc ông Phát bồi thường
86