1. Trang chủ >
  2. Thạc sĩ - Cao học >
  3. Luật >

2 Đặc điểm của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (864.74 KB, 120 trang )


sản trong phần tài sản yêu cầu chia. Tuy nhiên, trên thực tế để tạo điều kiện

cho vợ hoặc chồng thực hiện một nghĩa vụ riêng hoặc một dự án kinh doanh

riêng, có rất nhiều trường hợp các cặp vợ chồng thỏa thuận về việc dành cho

người cần có tài sản riêng phần lớn tài sản nhằm đáp ứng đến mức có thể

được nhu cầu huy động tài sản để trả nợ hoặc kinh doanh của người này, mà

họ không cần quan tâm đến công sức đóng góp của bản thân vào việc tạo lập,

phát triển khối tài sản chung đó. Trong trường hợp này, việc xác định phần

quyền của vợ, chồng trong khối tài sản chung được phân chia thường chỉ để

được thực hiện sau khi đã chia xong khối tài sản chung. Do đó, khối tài sản

riêng của mỗi người được phân chia từ tài sản chung là không đồng đều nhau.

Vì vậy, việc phân chia tài sản chung khi hôn nhân còn tồn tại được

phân chia theo một cơ chế đặc biệt, có thể không cần dựa vào việc xác định

công sức đóng góp của từng người vào việc tạo lập và phát triển khối tài sản

chung. Cơ chế này hoàn toàn khác hẳn với việc phân chia tài sản chung khi ly

hôn hay khi một bên vợ hoặc chồng chết trước. Đây cũng chính là ưu điểm

của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân tạo thời cơ

cho vợ hoặc chồng nhanh chóng có được tài sản để thực hiện các hoạt động

kinh doanh của mình. Nhưng đồng thời nó cũng có một điểm hạn chế khi vợ

hoặc chồng có thể lợi dụng để trốn tránh việc thực hiện các nghĩa vụ sau khi

chia tài sản chung khi hôn nhân còn tồn tại. Do đó, luật cần dự liệu hậu quả

pháp lý đối với việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân,

đặc biệt đối với việc thực hiện nghĩa vụ chung trong gia đình.

1.2.2 Không làm chấm dứt quan hệ hôn nhân trước pháp luật

Theo luật HN&GĐ hiện hành quy định việc chia tài sản chung của vợ

chồng được thực hiện trong ba trường hợp khi vợ chồng ly hôn, khi một trong

hai bên vợ hoặc chồng chết trước và khi hôn nhân đang tồn tại. Trong ba

trường hợp này chỉ có trường hợp chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là

không làm chấm dứt quan hệ hôn nhân trước pháp luật.

19



Kết hôn và ly hôn là hai mặt của quan hệ hôn nhân, kết hôn được xem

là hiện tượng bình thường thì ly hôn là một hiện tượng bất bình thường, là

mặt trái của hôn nhân nhưng không thể thiếu được khi quan hệ hôn nhân đã

thực sự đổ vỡ. Trong trường hợp này, ly hôn là hậu quả tất yếu đồng thời là

một giải pháp tối ưu nhằm làm cho gia đình thoát khỏi những xung đột, mâu

thuẫn, bế tắc trong cuộc sống; đảm bảo nguyên tắc hôn nhân tự nguyện và

tiến bộ; bảo đảm quyền tự do hôn nhân bao gồm quyền tự do kết hôn của

nam, nữ và quyền tự do ly hôn của vợ chồng. Khi bản án hoặc quyết định ly

hôn của Tòa án có hiệu lực pháp luật thì quan hệ hôn nhân sẽ chấm dứt. Về

nguyên tắc, tài sản chung của vợ chồng trong trường hợp này được chia theo

thỏa thuận của vợ chồng hoặc theo quyết định của Tòa án.

Nếu kết hôn là sự kiện bình thường, là thời điểm đầu tiên của quan hệ

hôn nhân thì khi vợ hoặc (chồng) chết trước là thời điểm cuối cùng tất yếu

của hôn nhân. Việc một trong hai vợ chồng chết trước, hoặc bị Tòa án tuyên

bố đã chết sẽ đương nhiên chấm dứt quan hệ vợ chồng. Lúc này tài sản chung

của vợ chồng sẽ được chia theo yêu cầu của người còn sống hoặc người thừa

kế của vợ chồng đã chết.

Trường hợp vợ chồng có yêu cầu chia một phần hoặc toàn bộ tài sản

chung trong thời kỳ hôn nhân theo thỏa thuận của vợ chồng hay do Tòa án

quyết định thì giữa họ vẫn còn tồn tại quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với

nhau, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với con cái và các thành viên trong

gia đình theo quy định tại Chương III và Chương IV Luật HN&GĐ năm

2000. Đây chính là một điểm khác biệt so với hai trường hợp chia tài sản

chung khi vợ hoặc chồng chết trước và khi vợ chồng ly hôn. Vì vậy, trái với

hai trường hợp trên, việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân không làm

chấm dứt quan hệ nhân thân của vợ chồng trước pháp luật.



20



1.2.3 Làm thay đổi căn cứ xác định tài sản chung, tài sản riêng của

vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân

Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là một biện

pháp giúp vợ, chồng chuyển các tài sản chung đã được tạo ra và hiện hữu

trong khối tài sản chung của vợ chồng thành tài sản riêng theo thỏa thuận của

vợ, chồng hoặc do Tòa án quyết định theo yêu cầu của hai vợ chồng. Khác

với trường hợp chia tài sản chung khi ly hôn và khi một bên vợ hoặc chồng

chết trước làm chấm dứt quan hệ hôn nhân, đồng thời chấm dứt chế độ tài sản

chung của vợ chồng, chia tài sản chung của vợ chồng khi hôn nhân còn tồn tại

không làm chấm dứt chế độ tài sản chung mà chỉ làm thay đổi căn cứ xác định

tài sản chung, tài sản riêng của mỗi người.

Pháp luật hiện hành cho phép vợ chồng có thể yêu cầu chia một phần

hoặc toàn bộ tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Sau khi chia tài sản chung

trong thời kỳ hôn nhân thì phần tài sản chung đã chia cũng như hoa lợi, lợi

tức phát sinh từ tài sản riêng này trở thành tài sản riêng của mỗi bên vợ

chồng, phần tài sản còn lại không chia và hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản

chung còn lại vẫn thuộc sở hữu chung của vợ chồng. Điều này không làm

chấm dứt chế độ sở hữu chung ngay trong trường hợp chia toàn bộ cũng

không làm chấm dứt vì vợ chồng vẫn có thể được thừa kế chung, tặng cho

chung sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Việc chia này chỉ

làm thay đổi khối lượng tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng. Chẳng hạn,

vợ chồng có thể thỏa thuận tiền lương, những thu nhập hợp pháp khác của

mỗi bên vợ chồng sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là tài sản

riêng của mỗi người mặc dù trước đó tài sản này là tài sản chung hợp nhất của

vợ chồng. Như vậy, việc chia tài sản chung đã làm thay đổi căn cứ xác định

nguồn gốc tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng

Vì vậy, việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân không làm



21



chấm dứt hoàn toàn chế độ sở hữu chung của vợ chồng vì việc chia tài sản

chung này không chỉ đơn thuần như việc chia tài sản chung thuộc các hình

thức sở hữu chung như quy định của BLDS. Khối tài sản chung vẫn có thể

tồn tại trong trường hợp không chia hết tài sản hoặc sau khi chia lại được

thừa kế chung, tặng cho chung hay vợ chồng thỏa thuận khôi phục chế độ tài

sản chung, nên chỉ làm thay đổi căn cứ xác định tài sản chung, tài sản riêng

của vợ chồng.

1.3 Ý nghĩa của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân

Pháp luật về HN&GĐ của Nhà nước ta từ khi ra đời đến nay, vấn đề chia tài

sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân chỉ mới được ghi nhận tại Điều 18

Luật HN&GĐ năm 1986. Luật HN&GĐ năm 1959 chưa quy định nội dung này.

Trên cơ sở nội dung quy định tại Luật HN&GĐ năm 1986, Luật HN&GĐ năm

2000 tiếp tục kế thừa và phát triển quy định chia tài sản chung của vợ chồng trong

thời kỳ hôn nhân, thể hiện cụ thể tại Điều 19 và Điều 20. Quy định này khi áp dụng

vào thực tiễn đã thể hiện sự phù hợp với xu thế phát triển của xã hội. Chia tài sản

chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có ý nghĩa sau:

Thứ nhất, việc chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân là một giải

pháp để loại bỏ hoặc hạn chế đến mức thấp nhất những mâu thuẫn giữa vợ

chồng trong quản lí, sử dụng, định đoạt tài sản chung hợp nhất, đặc biệt trong

thời điểm nền kinh tế đất nước vận hành mạnh mẽ theo cơ chế thị trường. Bản

chất của cơ chế thị trường là sự tự do cạnh tranh, do đó luôn chứa đựng những

cơ hội để mọi người có thể kiếm được lợi nhuận khi tiến hành một hoạt động

kinh doanh nào đó, nhưng đồng thời cũng chứa đựng những rủi ro bất ngờ

không kịp trở tay có thể dẫn đến tình trạng “khuynh gia bại sản”. Chính vì

bản chất đó và do tính chất công việc, nghề nghiệp của vợ chồng cần sự tự

chủ trong hoạt động đầu tư kinh doanh, nên nếu sử dụng tài sản chung của vợ

chồng để kinh doanh thì có thể ảnh hưởng đến lợi ích chung của gia đình

trong trường hợp có rủi ro xảy ra.



22



Thứ hai, đời sống chung hàng ngày của vợ chồng khó tránh khỏi những

mâu thuẫn, xung đột do nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến vợ chồng

không còn tình cảm, nhưng vì lý do nào đó như: sợ ảnh hưởng tới hòa khí

trong gia đình, ảnh hưởng tới con cái, hàng xóm chê cười, tới danh dự, uy tín

của nhau… mà vợ chồng không yêu cầu ly hôn, chỉ yêu cầu chia tài sản chung

của vợ chồng. Chính vì vậy, việc chia tài sản chung khi hôn nhân còn tồn tại

trở thành một nhu cầu tất yếu, bảo vệ quyền và lợi ích chung của gia đình

cũng như tôn trọng quyền tự định đoạt tài sản của cá nhân, quyền tự do kinh

doanh được pháp luật công nhận.

Thứ ba, việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân sẽ

đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bên thứ ba có liên quan đến tài sản

chung của vợ chồng. Trên thực tế có rất nhiều trường hợp vợ chồng phải thực

hiện các nghĩa vụ dân sự riêng với người thứ ba, chẳng hạn như các khoản nợ

mà vợ hoặc chồng đã vay từ trước khi kết hôn hoặc trong thời kỳ hôn nhân

mà sử dụng vào mục đích riêng của bản thân, … Trong trường hợp này nếu

tài sản riêng không có hoặc không đủ để thực hiện nghĩa vụ dân sự, đồng thời

vợ chồng không thể thỏa thuận được về việc lấy tài sản chung để trả nợ riêng

cho một bên thì vợ hoặc chồng có quyền yêu cầu chia tài sản chung trong thời

kỳ hôn nhân, để người có nghĩa vụ với người thứ ba có thể lấy phần tài sản

riêng trong khối tài sản chung của vợ chồng thanh toán nghĩa vụ riêng với

người thứ ba có liên quan.

Thứ tư, quy định về việc chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân đã

đánh dấu sự chuyển mình theo thời đại của các quy định pháp luật về quyền

sở hữu tài sản của vợ chồng. Việt Nam trong một thời gian dài tồn tại dựa vào

nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu nên tư duy của con người khó lòng thoát khỏi

nguyên tắc của xã hội trồng lúa nước. Chính vì thế mà người dân thường lạ

lẫm với việc rạch ròi về tài sản, nhất lại là tài sản của vợ chồng, nếu như cặp



23



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

×