Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (864.74 KB, 120 trang )
vợ”, chưa hề có sự phân định rạch ròi tài sản của mỗi bên vợ chồng trong thời
kỳ hôn nhân.
Luật HN&GĐ năm 1959 không đề cập đến nội dung này. Điều này
xuất phát từ điều kiện kinh tế xã hội chi phối, quan hệ hôn nhân chịu ảnh
hưởng bởi phong tập, tập quán nên trong Luật HN&GĐ năm 1959 xác định sở
hữu chung của vợ chồng là chế độ cộng đồng toàn sản. Việc quy định chế độ
tài sản này là hoàn toàn phù hợp với điều kiện xã hội lúc bấy giờ, phù hợp với
tập quán gia đình truyền thống ở Việt Nam. Tuy nhiên, Luật HN&GĐ năm
1959 còn quá cô đọng, khái quát, chưa có quy định về chia tài sản chung của
vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
Luật HN&GĐ năm 1986 ra đời trong điều kiện kinh tế - xã hội đã phát
triển hơn, do đó đã làm thay đổi căn bản nền kinh tế xã hội, ảnh hưởng sâu
sắc đến đời sống gia đình. Luật HN&GĐ đã có sự thay đổi lớn khi xác lập tài
sản chung của vợ chồng dựa trên chế độ cộng đồng tạo sản. Quan hệ tài sản
của vợ chồng tồn tại dưới hình thức tài sản chung của vợ chồng và tài sản
riêng của mỗi bên vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Bên cạnh đó, Luật
HN&GĐ năm 1986 đã có một quy định mới khi mở rộng phạm vi chia tài sản
chung của vợ chồng. Theo đó, luật này đã dự liệu ba trường hợp chia tài sản
chung của vợ chồng bao gồm: khi một bên vợ chồng chết trước (Điều 17); khi
vợ, chồng ly hôn (Điều 42) và trường hợp khi hôn nhân đang tồn tại nếu có lý
do chính đáng (Điều 18).
Trên cơ sở kế thừa và phát triển Luật HN&GĐ năm 1986, Luật
HN&GĐ năm 2000 tiếp tục ghi nhận quy định chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân tại Điều 29 và Điều 30. Tuy nhiên, so với Luật
HN&GĐ năm 1986, Luật HN&GĐ năm 2000 đã quy định cụ thể hơn về điều
kiện, quyền yêu cầu và hậu quả pháp lý sau khi chia tài sản chung trong thời
kỳ hôn nhân.
9
Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân đã được
quy định trong Luật HN&GĐ năm 1986 và Luật HN&GĐ năm 2000, nhưng
vẫn còn có nhiều cách hiểu khác nhau về chia tài sản chung trong thời kỳ hôn
nhân. Tác giả Phạm Thị Tươi đã đưa ra khái niệm về chia tài sản chung trong
thời kỳ hôn nhân như sau: “Chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là việc
chuyển một phần hoặc toàn bộ tài sản vốn là tài sản chung của vợ chồng
thành tài sản riêng của mỗi bên vợ, chồng theo sự thỏa thuận của vợ chồng
hoặc do Tòa án quyết định theo yêu cầu của vợ, chồng khi có những lý do
nhất định nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mỗi bên vợ, chồng và
người thứ ba có liên quan mà không làm chấm dứt quan hệ giữa vợ và chồng
trước pháp luật” [46]. Khái niệm này đã chứa đựng đầy đủ bản chất của việc
chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân.
Ngoài nghiên cứu trên, qua quá trình tìm hiểu hiện nay chưa có bất kỳ
văn bản quy phạm pháp luật nào đưa ra khái niệm về chia tài sản chung của
vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Chính vì vậy, chúng tôi mạnh dạn đưa ra
khái niệm về chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân như sau:
“Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là việc thay
đổi một phần hoặc toàn bộ tài sản chung của vợ chồng thành tài sản riêng
của mỗi bên vợ chồng theo thỏa thuận hoặc do Tòa án quyết định trong
trường hợp vợ chồng đầu tư kinh doanh riêng, thực hiện nghĩa vụ dân sự
riêng hoặc có lý do chính đáng khác. Việc chia tài sản chung của vợ chồng
được thực hiện trong thời kỳ hôn nhân và hậu quả của việc này không làm
chấm dứt quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng trước pháp luật”.
Kể từ khi Luật HN&GĐ năm 2000 ra đời và có hiệu lực cho đến nay,
các quy định về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân đã
phát huy được hiệu quả, góp phần củng cố chế độ HN&GĐ Việt Nam; bảo vệ
được quyền và lợi ích chính đáng của vợ chồng, các thành viên trong gia đình
và lợi ích của bên thứ ba.
10
1.1.2 Nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
Nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
được xác định là tư tưởng chỉ đạo mang tính chi phối, định hướng cho mọi
hoạt động và hành vi của các chủ thể tham gia vào việc giải quyết các vụ việc
có liên quan đến yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn
nhân. Pháp luật hiện hành không có quy định gì về nguyên tắc chia tài sản
chung trong thời kỳ hôn nhân nên đã ít nhiều gây khó khăn trong thực tiễn áp
dụng pháp luật. Trước đây Luật HN&GĐ năm 1986 quy định việc chia tài sản
chung khi hôn nhân còn tồn tại được chia Điều 42 - Luật HN&GĐ năm 1986,
tức là chia như khi ly hôn. Tuy nhiên Luật HN&GĐ năm 2000 không quy
định gì về nguyên tắc chia.
Căn cứ từ lý luận và thực tế cho thấy việc chia tài sản chung trong thời
kỳ hôn nhân cần tuân thủ một số nguyên tắc nhất định. Theo chúng tôi, việc
chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân được thực hiện theo
những nguyên tắc cụ thể sau:
* Nguyên tắc tôn trọng sự thỏa thuận của vợ chồng
BLDS năm 2005 và Luật HN&GĐ năm 2000 cũng như các văn bản
quy phạm pháp luật khác đều tôn trọng quyền tự định đoạt của vợ chồng đối
với tài sản chung. So với Luật HN&GĐ năm 1986, Luật HN&GĐ năm 2000
đã có quy định mới cho phép vợ chồng có thể tự thỏa thuận chia tài sản chung
trong thời kỳ hôn nhân. Đây là điểm khác so với BLDS Pháp và BLDS
thương mại Thái Lan khi chỉ quy định việc chia tài sản chung phải được thực
hiện qua con đường tư pháp, do Tòa án quyết định. “Thỏa thuận” có nghĩa là
“đi tới sự đồng ý sau khi cân nhắc, thảo luận” [51]. Theo đó, vợ chồng đã bàn
bạc, thảo luận trước đó rồi mới đi đến sự đồng ý chia tài sản chung. Trong đó
họ đã cân nhắc đến vấn đề như hậu quả sau khi chia, nghĩa vụ của mỗi người
đối với con cái và các thành viên trong gia đình. Người thứ ba hoặc các chủ
11
thể khác có liên quan đến tài sản chung của vợ chồng đều không thể can thiệp
đến thỏa thuận chia này.
Luật HN&GĐ hiện hành quy định việc thỏa thuận chia tài sản chung
phải lập thành văn bản và ghi rõ các nội dung như: lý do chia tài sản, phần tài
sản chia, phần tài sản còn lại không chia (nếu có), thời điểm có hiệu lực của
việc chia tài sản chung và những nội dung khác (nếu có). Điều này nhằm
tránh việc vợ chồng thỏa thuận với mục đích tẩu tán tài sản, trốn tránh việc
thực hiện nghĩa vụ dân sự với người khác. Ngoài ra, văn bản thỏa thuận chia
tài sản chung có thể có người làm chứng hoặc được công chứng theo yêu cầu
của vợ, chồng hoặc theo quy định của pháp luật [4].
Bên cạnh đó, thực tế cho thấy khi có tranh chấp về tài sản xảy ra, pháp
luật cho phép vợ chồng có thể thỏa thuận được với nhau về những vấn đề
đang tranh chấp. Đây là biện pháp hữu hiệu nhất để vợ chồng tránh được
những bất đồng khi chia tài sản chung khi hôn nhân đang tồn tại hơn là việc
yêu cầu tòa án giải quyết. Vợ chồng có thể thỏa thuận về hoa lợi, lợi tức phát
sinh từ tài sản đã chia là sở hữu riêng của mỗi người hay là tài sản chung hoặc
có thể thỏa thuận về thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và
những thu nhập hợp pháp khác của một bên sau khi chia tài sản chung là tài
sản riêng của vợ, chồng hay vẫn là tài sản chung. Với quy định này đã cho
thấy sự tự do thỏa thuận của vợ chồng là hoàn toàn tuyệt đối về việc định đoạt
tài sản chung của vợ chồng.
Như vậy Luật HN&GĐ năm 2000 rất đề cao nguyên tắc tự thỏa thuận
khi chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Pháp luật
HN&GĐ hiện hành tôn trọng quyền tự do thỏa thuận của vợ chồng, nhưng sự
thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân nhằm mục
đích trốn tránh nghĩa vụ tài sản đối với người khác thì không được công nhận
theo quy định tại Khoản 2 Điều 29 Luật HN&GĐ năm 2000.
12
* Nguyên tắc bình đẳng giữa vợ chồng trong việc chia tài sản chung
Nguyên tắc bình đẳng giữa vợ chồng về tài sản là một trong những quyền
bình đẳng cơ bản của công dân được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Đây là sự cụ
thể hóa quyền bình đẳng trước pháp luật của công dân giữa công dân nam và
công dân nữ, hay còn gọi là quyền bình đẳng giới. Chính vì vậy, để tạo điều
kiện và cơ hội phát triển ngang bằng cho vợ chồng, pháp luật nước ta đã ghi
nhận sự bình đẳng giữa nam và nữ nói chung và sự bình đẳng giữa vợ chồng
trong việc chia tài sản chung nói riêng trong nhiều văn bản luật khác nhau.
Trước tiên, việc bình đẳng giữa vợ chồng được ghi nhận trong Hiến
pháp theo những nguyên tắc nhất định. Điều 52 Hiến pháp năm 1992 đã quy
định: “Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật”. Bình đẳng trước pháp
luật theo quy định này còn bao hàm cả nội dung bình đẳng nam nữ, bình đẳng
vợ chồng. Đó là một trong những tiêu chuẩn cơ bản để đánh giá mức độ tiến
bộ của một xã hội, là mức độ giải phóng phụ nữ, giải phóng vị trí lệ thuộc của
người vợ trong gia đình. Ngoài ra, xuất phát từ Điều 57 Hiến Pháp năm 1992
công nhận: “Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp
luật”. Cụ thể hóa quyền này, Bộ luật Dân sự, Luật Doanh Nghiệp và một số
văn bản pháp luật khác đã quy định cho các chủ thể khi tham gia vào hoạt
động kinh doanh có các quyền như: “thành lập doanh nghiệp, lựa chọn ngành
nghề, hình thức đầu tư, kinh doanh những ngành nghề mà pháp luật không
cấm”. Bên cạnh đó, Điều 63 Hiến pháp năm 1992 cũng quy định: “Công dân
nữ và nam có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội
và gia đình”. Đây là sự ghi nhận quyền bình đẳng về giới, với tư cách là công
dân của nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, phụ nữ và nam giới đều bình đẳng
trước pháp luật.
Bình đẳng giữa nam nữ nói chung và bình đẳng vợ chồng nói riêng đã
được cụ thể hóa trong các văn bản quy phạm pháp luật. Điều 5 BLDS năm
13
2005 đã ghi nhận trong quan hệ dân sự các chủ thể đều bình đẳng, không
được lấy bất cứ lý do nào về sự khác biệt để đối xử không bình đẳng. Các chủ
thể bình đẳng về năng lực pháp luật, về hình thức sở hữu khi giao kết hợp
đồng dân sự, đều được hưởng các quyền và phải gánh vác những nghĩa vụ
như nhau. Tại Điều 8 BLDS năm 2005 cũng quy định trong quan hệ vợ
chồng, vợ, chồng là những chủ thể độc lập khi tham gia bất kỳ một giao dịch
hợp pháp mà bên kia không có quyền ngăn cản, mỗi bên vợ chồng phải tôn
trọng quyền bình đẳng đó. Có như vậy, thì gia đình mới hạnh phúc và xã hội
mới phát triển được. Mặt khác, các chủ thể phải luôn tôn trọng lợi ích của nhà
nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác (Điều 10
Bộ Luật Dân Sự năm 2005). Có nghĩa rằng, quyền bình đẳng luôn nằm trong
khuôn khổ pháp luật. Quyền bình đẳng của vợ chồng trong việc chia tài sản
luôn được tôn trọng phát huy, luôn hướng tới sự đảm bảo quyền, lợi ích hợp
pháp của các chủ thể, và trong một chừng mực có thể, bảo vệ lợi ích chung
của gia đình và xã hội. Ngoài ra, Điều 40 BLDS năm 2005 quy định: “Vợ
chồng bình đẳng với nhau, có quyền, nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt trong
gia đình và trong quan hệ dân sự, cùng nhau xây dựng gia đình no ấm, bình
đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững”. Quy định này đã thể hiện sự bình đẳng
về mọi mặt giữa vợ chồng trong gia đình, cũng như phải có sự bình đẳng
trong việc chia tài sản của vợ chồng, nhằm mục đích xây dựng gia đình no
ấm, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững, đồng thời có thể hạn chế được các mâu
thuẫn phát sinh trong đời sống vợ chồng và đảm bảo quyền lợi chính đáng
cho các bên.
Luật HN&GĐ năm 2000 đã quy định cụ thể hơn về bình đẳng giữa vợ
chồng, Điều 19 Luật HN&GĐ năm 2000: “Vợ chồng bình đẳng với nhau, có
nghĩa vụ và quyền ngang nhau về mọi mặt trong gia đình”. Có nghĩa vợ
chồng không chỉ được bình đẳng trong quan hệ nhân thân mà còn được bình
14
đẳng trong quan hệ tài sản: chiếm hữu, sử dụng, định đoạt cũng như phân chia
tài sản. Quyền bình đẳng giữa vợ và chồng đối với tài sản chung thể hiện ở
việc: tài sản chung đó không nhất thiết phải do cả hai vợ chồng cùng tạo ra
một cách trực tiếp mà có thể do một bên vợ hoặc chồng tạo ra và cũng không
phụ thuộc vào công sức đóng góp của mỗi bên. Điều này xuất phát từ tính
chất đặc biệt của quan hệ vợ chồng, được gắn kết bởi mối quan hệ tình cảm
gia đình, vợ chồng cùng chung sức chung lòng để tạo dựng khối tài sản
chung, cùng có trách nhiệm và nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dạy con cái [7].
Do đó dưới góc độ bình đẳng thì việc chia tài sản của vợ chồng trong
thời kỳ hôn nhân là hoàn toàn cần thiết khi nền kinh tế của đất nước đang phát
triển mạnh mẽ như hiện nay. Nền kinh tế thị trường đã mở ra cho vợ chồng
nhiều cơ hội nhưng cũng chứa đựng những rủi ro không lường trước được.
Chính vì vậy, chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân cần phải đảm bảo
quyền bình đẳng của vợ chồng nhằm thực hiện được các quyền năng về tài
sản của mỗi người và giúp cho cuộc sống gia đình bền vững, hôn nhân đạt
được mục đích.
* Nguyên tắc tự do thỏa thuận nhưng không được trái pháp luật và đạo
đức xã hội
Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân theo quy
định của Luật HN&GĐ cho phép vợ chồng có quyền tự thỏa thuận. Quy định
này đã thể hiện sự tự do của vợ chồng đối với khối tài sản chung nhằm tạo
điều kiện thuận lợi cho vợ chồng có thể thỏa mãn những nhu cầu cá nhân nhất
định. Dựa trên nguyên tắc này, khi vợ chồng có đủ điều kiện theo quy định
của pháp luật HN&GĐ và pháp luật dân sự có thể thỏa thuận với nhau bất kỳ
các vấn đề liên quan đến tài sản chung của vợ chồng, nếu vợ chồng có yêu
cầu. Tuy nhiên thỏa thuận chỉ có hiệu lực pháp luật, được pháp luật công nhận
và bảo vệ khi ý chí của vợ chồng khi thỏa thuận đó phù hợp với ý chí của nhà
15
nước. Hay nói cách khác, sự tự do ý chí trong thỏa thuận của vợ chồng phải
nằm trong khuôn khổ, giới hạn nhất định - giới hạn lợi ích của các cá nhân
khác, lợi ích chung của xã hội và trật tự công cộng. Nếu để vợ chồng tự do
thỏa thuận vô hạn thì thỏa thuận đó sẽ trở thành phương tiện để trốn tránh
việc thực hiện các nghĩa vụ dân sự với người khác và ảnh hưởng đến lợi ích
chung của xã hội. Lênin đã viết “phải đi xa hơn nữa trong vấn đề tăng cường
sự can thiệp của nhà nước vào các quan hệ pháp luật tư, các việc dân sự…
không được bỏ qua một khả năng tối thiểu nào để mở rộng sự can thiệp của
nhà nước vào các quan hệ dân luật” [24, tr.577]. Chính vì vậy, trong xã hội
ta - xã hội xã hội chủ nghĩa, lợi ích chung của toàn xã hội (lợi ích cộng đồng)
và đạo đức xã hội không cho phép bất cứ cá nhân, tổ chức, kể các vợ chồng
được lợi dụng ý chí tự do để biến những thỏa thuận của cá nhân thành phương
tiện trốn tránh việc thực hiện các nghĩa vụ dân sự. Do đó, thỏa thuận chia tài
sản của vợ chồng không nhằm mục đích tẩu tán tài sản, trốn tránh việc thực
hiện nghĩa vụ dân sự với người khác; không nhằm mục đích trốn tránh việc
thực hiện các nghĩa vụ dân sự chung đối với gia đình thì có thể thực hiện
được. Nếu thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân không tuân
theo quy định của pháp luật, trốn tránh nghĩa vụ tài sản đối với người khác và
trái đạo đức xã hội sẽ bị tuyên bố vô hiệu theo các quy định của pháp luật
HNGĐ và pháp luật dân sự về giao dịch dân sự.
Tóm lại các chủ thể tự do thỏa thuận trong bất kỳ trường hợp nào cũng
cần đặt lợi ích của cộng đồng, của xã hội lên hàng đầu. Vì lúc này, lợi ích của
cộng đồng, của toàn xã hội được quy định bởi pháp luật và đạo đức xã hội trở
thành giới hạn cho sự tự do ý chí của các chủ thể khi tham gia giao kết hợp
đồng nói riêng, và trong mọi hành vi của chủ thể nói chung.
* Nguyên tắc đảm bảo quyền lợi của con chưa thành niên và con đã
thành niên không có khả năng lao động sau khi chia tài sản chung trong thời
kỳ hôn nhân
16
Sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, dù chia một phần
hay chia toàn bộ tài sản chung thì mối quan hệ pháp lý và tình cảm giữa vợ
chồng vẫn chưa chấm dứt. Việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân
không làm thay đổi quyền và nghĩa vụ về nhân thân của cha mẹ đối với con
cái. Vì vậy, vợ chồng cần chú ý đảm bảo quyền lợi của các con, đặc biệt là
con chưa thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao động do mất
năng lực hành vi dân sự, tàn tật,… Khoản 1 Điều 34 Luật HN&GĐ năm
2000 đã ghi nhận:
Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền thương yêu, trông nom, nuôi dưỡng,
chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con; tôn trọng ý kiến của con;
chăm lo việc học tập và giáo dục để con phát triển lành mạnh về thể chất, trí
tuệ và đạo đức, trở thành người con hiếu thảo của gia đình, công dân có ích
cho xã hội [31].
Nuôi dạy con cái không chỉ là nghĩa vụ của cha mẹ đối với con, mà đó
còn là nghĩa vụ của cha mẹ trước Nhà nước và xã hội. Cha mẹ phải có nghĩa
vụ chăm lo cho sự phát triển về thể chất, trí tuệ và đạo đức của con, đặc biệt là
con chưa thành niên. Công ước về quyền trẻ em được Đại hội đồng Liên hợp
quốc đã cho rằng trẻ em là đối tượng “còn non nớt về thể chất và trí tuệ, cần
được chăm sóc và bảo vệ đặc biệt” [12]. Vì vậy, trẻ em là đối tượng cần được
chăm sóc đặc biệt, đồng thời đây là quyền cơ bản mà trẻ em được hưởng và
phải đảm bảo thực hiện.Vì vậy, việc chia tài sản chung đòi hỏi vợ chồng phải
có sự cân nhắc việc thực hiện các nghĩa vụ về chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục
các con sau khi chia tài sản chung, đặc biệt là khi chia toàn bộ tài sản chung
và khi vợ chồng sống riêng sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân.
Thực hiện nguyên tắc này nhằm đảm bảo lợi ích chung của con chưa thành
niên, con đã thành niên không có khả năng lao động, tàn tật hoặc mất năng
lực hành vi dân sự, đồng thời cũng thể hiện truyền thống tốt đẹp của gia đình
17
Việt Nam, luôn có sự yêu thương, chăm sóc, đùm bọc lẫn nhau giữa các thành
viên trong gia đình.
Tóm lại các nguyên tắc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là cơ
sở pháp lý để giải quyết khách quan, đúng pháp luật yêu cầu chia tài sản
chung của vợ chồng. Những nguyên tắc này có mối liên hệ mất thiết với nhau.
Tuân thủ các nguyên tắc này là yêu cầu cần thiết, bắt buộc đối với vợ chồng,
mọi chủ thể và cơ quan trong hoạt động thực hiện và áp dụng pháp luật.
1.2 Đặc điểm của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân
Do tính chất đặc thù của yêu cầu chia tài sản chung được thực hiện khi hôn
nhân còn tồn tại giữa vợ và chồng nên việc chia này có những đặc điểm khác với
trường hợp chia tài sản chung khi ly hôn và chia tài sản chung khi một bên chết
trước. Vì vậy, việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có một
số đặc điểm cơ bản sau:
1.2.1 Cách phân chia đặc biệt
Khi hôn nhân đã đổ vỡ do nhiều nguyên nhân khác nhau thì vợ chồng
có thể tính toán một cách sòng phẳng phần quyền của mỗi người trong khối
tài sản chung hợp nhất. Đặc biệt, vợ chồng có thể dựa vào các quy định liên
quan đến công sức đóng góp của người này hay người kia vào sự phát triển
của khối tài sản chung để phân chia khối tài sản đó trước khi thực hiện việc
yêu cầu chia. Việc chia tài sản chung của vợ, chồng lúc này được thực hiện
theo đúng các quy định trong luật chung về chia tài sản thuộc sở hữu chung
theo phần, cũng như theo các quy định về chia tài sản sau khi ly hôn, đặc biệt
là các quy định về phân chia nhà ở, quyền sử dụng đất ở, đất nông nghiệp...
Việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là một trường hợp đặc
biệt. Đây được xem như một biện pháp hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh hoặc
nghề nghiệp của vợ chồng. Khi vợ chồng yêu cầu chia một phần hoặc toàn bộ
tài sản chung, thông thường họ có thể thỏa thuận mỗi người nhận một nửa tài
18
sản trong phần tài sản yêu cầu chia. Tuy nhiên, trên thực tế để tạo điều kiện
cho vợ hoặc chồng thực hiện một nghĩa vụ riêng hoặc một dự án kinh doanh
riêng, có rất nhiều trường hợp các cặp vợ chồng thỏa thuận về việc dành cho
người cần có tài sản riêng phần lớn tài sản nhằm đáp ứng đến mức có thể
được nhu cầu huy động tài sản để trả nợ hoặc kinh doanh của người này, mà
họ không cần quan tâm đến công sức đóng góp của bản thân vào việc tạo lập,
phát triển khối tài sản chung đó. Trong trường hợp này, việc xác định phần
quyền của vợ, chồng trong khối tài sản chung được phân chia thường chỉ để
được thực hiện sau khi đã chia xong khối tài sản chung. Do đó, khối tài sản
riêng của mỗi người được phân chia từ tài sản chung là không đồng đều nhau.
Vì vậy, việc phân chia tài sản chung khi hôn nhân còn tồn tại được
phân chia theo một cơ chế đặc biệt, có thể không cần dựa vào việc xác định
công sức đóng góp của từng người vào việc tạo lập và phát triển khối tài sản
chung. Cơ chế này hoàn toàn khác hẳn với việc phân chia tài sản chung khi ly
hôn hay khi một bên vợ hoặc chồng chết trước. Đây cũng chính là ưu điểm
của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân tạo thời cơ
cho vợ hoặc chồng nhanh chóng có được tài sản để thực hiện các hoạt động
kinh doanh của mình. Nhưng đồng thời nó cũng có một điểm hạn chế khi vợ
hoặc chồng có thể lợi dụng để trốn tránh việc thực hiện các nghĩa vụ sau khi
chia tài sản chung khi hôn nhân còn tồn tại. Do đó, luật cần dự liệu hậu quả
pháp lý đối với việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân,
đặc biệt đối với việc thực hiện nghĩa vụ chung trong gia đình.
1.2.2 Không làm chấm dứt quan hệ hôn nhân trước pháp luật
Theo luật HN&GĐ hiện hành quy định việc chia tài sản chung của vợ
chồng được thực hiện trong ba trường hợp khi vợ chồng ly hôn, khi một trong
hai bên vợ hoặc chồng chết trước và khi hôn nhân đang tồn tại. Trong ba
trường hợp này chỉ có trường hợp chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là
không làm chấm dứt quan hệ hôn nhân trước pháp luật.
19