Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (864.74 KB, 120 trang )
thành các quy tắc xử sự chung. Quyền và nghĩa vụ về nhân thân của vợ chồng
đối với nhau là những giá trị tinh thần gắn kết giữa hai người, không tính
được bằng tài sản và không thể chuyển giao cho người khác, nhằm mục đích
thỏa mãn nhu cầu tình cảm trong đời sống chung của vợ chồng. Vì vậy, sau
khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, quyền và nghĩa vụ về nhân thân
của vợ chồng vẫn tiếp tục chịu sự điều chỉnh từ Điều 18 đến Điều 26 của Luật
HN&GĐ năm 2000 vì quan hệ vợ chồng không chấm dứt.
Điều 18 Luật HN&GĐ năm 2000 ghi nhận vợ chồng có quyền và
nghĩa vụ chung thủy, thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau.
Tình nghĩa vợ chồng là nền tảng quan trọng để đảm bảo xây dựng một gia
đình hạnh phúc, hòa thuận và đảm bảo tính bền vững trong quan hệ hôn
nhân. Đây không chỉ là yêu cầu của pháp luật mà còn là những giá trị đạo
đức tồn tại từ xưa đến này mà vợ chồng cần phải tôn trọng trong đời sống
chung. Không chỉ dừng lại ở việc thực hiện tình nghĩa của vợ chồng đối với
nhau, pháp luật còn đặt ra yêu cầu vợ chồng phải tôn trọng nhau, giữ gìn uy
tín, danh dự, nhân phẩm cho nhau. Vợ chồng cùng nhau bàn bạc, thỏa thuận
và giúp đỡ nhau trong mọi hoàn cảnh để phát huy khả năng, thế mạnh của
từng người góp phần hoàn thành những nhiệm vụ, vai trò của mỗi người đối
với gia đình nói riêng và xã hội nói chung. Đồng thời cấm vợ, chồng có
hành vi ngược đãi, hành hạ, xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của
nhau.Việc quy định vợ chồng có nghĩa vụ chung thủy, chăm sóc, giúp đỡ
nhau cũng như tôn trọng danh dự, uy tín, nhân phẩm cho nhằm đảm bảo
quyền bình đẳng giữa vợ, chồng trong các quan hệ nhân thân, ngăn chặn tình
trạng vợ hoặc chồng có quan hệ nam nữ bất chính với người khác và ngăn
ngừa các hành vi bạo lực trong gia đình.
Vợ chồng có quyền bình đẳng với nhau về mọi mặt trong gia đình.
Hiện nay, quyền bình đẳng giữa vợ và chồng được BLDS năm 2005 và Luật
56
HN&GĐ điều chỉnh, cụ thể Điều 40 BLDS năm 2005 quy định: “vợ chồng
bình đẳng với nhau, có quyền, nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt trong gia
đinh và trong quan hệ dân sự, cùng nhau xây dựng gia đình ấm no, bình
đẳng, tiến bộ, hạnh phúc bề vững” [32], và Điều 19 Luật HN&GĐ năm 2000
quy định: “vợ, chồng bình đẳng với nhau, có nghĩa vụ và quyền ngang nhau
về mọi mặt trong gia đình” [31]. Quy định này thể hiện sự bình đẳng của vợ
chồng khi cùng nhau bàn bạc, quyết định các vấn đề liên quan đến nhân thân
và về tài sản của vợ chồng và của mỗi thành viên trong gia đình, liên quan
đến đời sống chung của gia đình. Quyền bình đẳng này thể hiện ở quyền và
nghĩa vụ của vợ chồng trong việc nuôi dạy con cái; về nghĩa vụ thực hiện
chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình; về quyền được lựa chọn nghề
nghiệp, học tập và tham gia các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội;
tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhau,… Luật HN&GĐ năm
2000 còn ghi nhận vợ chồng có quyền tự do lựa chọn nơi cư trú, không bị
ràng buộc bởi tập quán và địa giới hành chính. Vợ chồng có thể lựa chọn nơi
cư trú hoàn toàn dựa vào hoàn cảnh thực tế, tính chất hoạt động nghề nghiệp,
khả năng tài chính của mỗi người… Ngoài ra, trong trường hợp vợ chồng vì lí
do công việc mà không thể cùng lựa chọn một nơi cư trú thì vợ chồng hoàn
toàn có thể tự lựa chọn nơi cư trú riêng mà không ảnh hưởng tới việc thực
hiện nghĩa vụ đối với nhau và với gia đình.
Sau khi chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, quyền
đại diện cho nhau giữa vợ, chồng vẫn tồn tại. Luật HN&GĐ năm 2000 quy
định vợ chồng có quyền đại diện cho nhau theo ủy quyền hoặc theo pháp luật,
vợ chồng có thể ủy quyền cho nhau xác lập, thực hiện và chấm dứt các giao
dịch mà theo quy định cần có sự đồng ý của cả vợ và chồng. Đồng thời, vợ,
chồng cũng có thể đại diện cho nhau khi một bên mất năng lực hành vi dân sự
mà bên kia có đủ điều kiện làm người giám hộ hoặc một bên bị hạn chế năng
lực hành vi dân sự mà bên kia được tòa án chỉ định là người đại diện.
57
Bên cạnh việc quy định quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với nhau,
sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân trách nhiệm liên đới của vợ,
chồng đối với giao dịch do một bên thực hiện vẫn phát sinh trong trường hợp
nghĩa vụ phát sinh do một bên vợ, chồng tham gia giao dịch dân sự hợp pháp
nhằm mục đích phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt chung của gia đình. Thông
thường các trong trường hợp này đã được vợ chồng mặc nhiên thỏa thuận nên
vợ chồng phải chịu trách nhiệm bằng tài sản chung hợp nhất vì các giao dịch
này vì mục đích gia đình chứ không phải vì lợi ích riêng của vợ hoặc chồng.
Thực tế cho thấy, nhiều cặp vợ chồng yêu cầu chia tài sản chung trong
thời kì hôn nhân nhằm mục đích tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh
riêng vì không muốn ảnh hưởng đến lợi ích gia đình, mặt khác đảm bảo đời
sống ổn định của gia đình, đây là điểm tích cực cần khuyến khích. Nếu sau
khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân mà vợ chồng tiếp tục sống
chung thì việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ về nhân thân đối với nhau
không có thay đổi nhiều so với trước khi chưa chia tài sản chung, việc thực
hiện các quyền và nghĩa vụ này là tương đối đầy đủ. Bởi khi sống chung, họ
sẽ dễ dàng hiểu được tâm tư, nguyện vọng của nhau nên có thể cùng nhau trao
đổi, góp ý để tránh được những mâu thuẫn, hiểu lầm có thể gây ngụy hại đến
đời sống chung của gia đình. Nếu do hoàn cảnh mà sau đó mỗi người sống
riêng mỗi nơi thì việc thực hiện quyền và nghĩa vụ về nhân thân đối với nhau
lúc này có bị ảnh hưởng hay không? Khi vợ chồng cư trú mỗi người một nơi
sau khi chia tài sản chung thì sự quan tâm, giúp đỡ, chăm sóc lẫn nhau sẽ gặp
nhiều khó khăn. Điều này phần nào đã phản ánh những rạn nứt trong quan hệ
vợ chồng. Nếu vậy có gián tiếp thừa nhận chế định ly thân như quy định của
một số quốc gia trên thế giới hay không? Ly thân được hiểu là một chế định
pháp luật và là một thuật ngữ pháp lý để chỉ trường hợp vợ chồng phải chung
sống riêng rẽ (biệt cư) và tách bạch về tài sản (chế độ biệt sản) mà pháp luật
58
của một số quốc gia trên thế giới và hệ thống pháp luật HN&GĐ dưới chế độ
cũ của Nhà nước ta quy định [9, tr.120]. Nhà triết học lỗi lạc Ph.Ăngghen
trong tác phẩm Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của Nhà nước
đã cho rằng vấn đề ly thân có nguồn gốc từ tôn giáo, do ảnh hưởng nặng nề tư
tưởng của Giáo hội thiên chúa [1]. Vì vậy, chế định ly thân và việc chia tài
sản chung trong thời kỳ hôn nhân có một số điểm khác nhau sau:
Một là, ly thân đặt vợ chồng vào tình trạng sống tách biệt nhau, không
có đời sống chung cùng với nhau nhưng chia tài sản chung của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân không như vậy, sau khi chia tài sản chung vợ chồng có
quyền sống chung hay riêng là quyền của vợ chồng pháp luật không thể can
thiệp. Nếu sau khi chia mà vợ chồng có ở riêng thì chỉ là trường hợp cá biệt,
không phổ biến [21, tr.22].
Hai là, ly thân dưới chế độ cũ chỉ dựa vào yếu tố “lỗi” để làm căn cứ
Tòa án giải quyết cho ly thân nhưng chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân
lại dựa vào 3 trường hợp là đầu tư kinh doanh riêng, thực hiện nghĩa vụ dân
sự riêng và có lý do chính đáng khác. Đây là những lý do chia tài sản chung
trong thời kỳ hôn nhân không dựa vào bất kỳ một lỗi nào của vợ chồng và
hoàn toàn phù hợp với yêu cầu của cuộc sống.
Ba là, khi áp dụng chế độ ly thân với vợ chồng sẽ đặt tài sản chung vào
tình trạng riêng rẽ, chấm dứt quan hệ tài sản chung giữa vợ và chồng. Tuy
nhiên chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân thì chỉ chia một phần hoặc
toàn bộ theo yêu cầu của vợ chồng, nên chế độ tài sản chung giữa họ vẫn còn
tồn tại, vợ chồng vẫn cùng nhau chăm lo đời sống chung của gia đình phù hợp
với tình cảm và nguyện vọng của bản thân.
Như vậy, cần khẳng định rằng pháp luật HN&GĐ không quy định chế
độ ly thân, việc chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân không phải là gián
tiếp quy định chế định ly thân. Tuy nhiên khi không cùng sống chung với
59
nhau, tình cảm vợ chồng dễ phai nhạt, dễ có quan hệ ngoài hôn nhân, lúc này
tính bền vững của gia đình không thực hiện được nên mục đích xây dựng gia
đình ấm no, hạnh phúc khó đảm bảo. Vấn đề này khá phức tạp nên pháp luật
cần dự liệu các quy định cụ thể để tránh các hậu quả xấu xảy ra trong quan hệ
vợ chồng nói riêng và quan hệ gia đình nói chung.
Thứ hai, quan hệ nhân thân của vợ và chồng đối với gia đình sau khi
chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân.
Việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân không chấm dứt quan
hệ hôn nhân, đồng thời không làm thay đổi quyền và nghĩa vụ về nhân thân
của vợ chồng đối với gia đình, đặc biệt là đối với con chưa thành niên, con đã
thành niên không có khả năng lao động, tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự.
Khoản 1 Điều 34 Luật HN&GĐ năm 2000 quy định:
Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền thương yêu, trông nom, nuôi dưỡng,
chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con; tôn trọng ý kiến của con;
chăm lo việc học tập và giáo dục để con phát triển lành mạnh về thể chất, trí
tuệ và đạo đức, trở thành người con hiếu thảo của gia đình, công dân có ích
cho xã hội [31].
Nuôi dạy con không chỉ là nghĩa vụ của vợ chồng đối với con mà còn là
nghĩa vụ của họ trước Nhà nước và xã hội. Cha mẹ phải thương yêu, chăm lo
cho sự phát triển của con về thể chất, trí tuệ, đạo đức để giúp con trở thành con
ngoan của gia đình, một công dân có ích cho xã hội. Thực tiễn cho thấy, có rất
nhiều bậc làm cha làm mẹ do chạy theo của vòng xoáy của công việc, mải lo
kiếm tiền nên nghĩ rằng chu cấp tiền bạc đầy đủ cho con là đủ mà quên rằng
đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến con đường sa ngã của con. Vì
vậy, cha mẹ thực hiện quyền và nghĩa vụ nhân thân đối với con không chỉ
bằng vật chất là đủ mà cần phải có tình cảm thể hiện tình thương yêu, chăm
sóc thông qua từng hành động, cử chỉ của bản thân để vừa có tác dụng mang
60
tình thương yêu đến với con, vừa giáo dục con trở thành một người có ích cho
gia đình, cộng đồng và xã hội.
Nếu sau khi tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân mà vợ chồng tiếp tục
sống chung với các con thì việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ nhân thân
được thực hiện tương đối dễ dàng, ít gây xáo trộn và ảnh hưởng so với trước
khi chưa chia tài sản chung. Nhưng nếu sau khi chia mỗi người sống riêng
mỗi nơi thì việc thực hiện quyền và nghĩa vụ nhân thân của cha mẹ đối với
con sẽ gặp nhiều khó khăn. Bởi việc chăm sóc, giáo dục con cái không phải là
ngày một ngày hai mà là một quá trình lâu dài thông qua hành vi, cách xử sự
hàng ngày của cha mẹ đối với con. Do chỉ còn sống với một bên cha hoặc bên
mẹ nên sự quan tâm của người còn lại đối với con sẽ hạn chế, phần nào ảnh
hưởng đến sự phát triển nhân cách của trẻ [36]. Vấn đề đặt ra là sau khi chia
tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân mà vợ chồng sống riêng thì con chưa
thành niên sẽ ở với ai? Có thể vợ chồng thỏa thuận con chưa thành niên ở với
cha hoặc với mẹ. Nếu vợ chồng không thể thỏa thuận được, có tranh chấp và
yêu cầu Tòa án giải quyết thì Tòa án có thụ lý không? Nếu thụ lý vụ án thì
Tòa án có quyền ra quyết định hoặc bản án giao con cho một bên trực tiếp
nuôi dưỡng và bên còn lại có nghĩa vụ cấp dưỡng không? Vấn đề này cần
được pháp luật xem xét và xác lập quy phạm pháp luật để điều chỉnh cho phù
hợp với thực tiễn hiện nay.
Tóm lại, sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân thì quan hệ
nhân thân giữa vợ chồng đối với nhau và đối với gia đình không chấm dứt
trên cơ sở tính chất cộng đồng của hôn nhân, ngay cả trong trường hợp vợ
chồng thỏa thuận ở riêng thì quan hệ vợ chồng cũng không chấm dứt trước
pháp luật. Vì vậy, việc chia tài sản chung của vợ chồng không làm thay đổi
quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng.
61
2.5.2 Về tài sản
Hậu quả pháp lý về tài sản của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn
nhân chính là sự thay đổi tình trạng các khối tài sản của vợ chồng. Điều này
dẫn đến việc thay đổi quyền và nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng đối với nhau,
đối với gia đình và người thứ ba có liên quan. Vì vậy, việc xác định đúng các
quyền và nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng có ý nghĩa vô cùng quan trọng
nhằm đảm bảo lợi ích chính đáng của mỗi bên, của gia đình và người thứ ba.
Thứ nhất, quan hệ về tài sản của vợ chồng đối với nhau sau khi chia tài
sản chung trong thời kỳ hôn nhân
Như đã phân tích tại mục 2.4, tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ
hôn nhân có thể chia một phần hoặc toàn bộ tùy theo sự thỏa thuận của vợ
chồng. Do đó, hậu quả pháp lý về tài sản trong hai trường hợp chia có những
điểm khác nhau.
Trường hợp chia một phần tài sản chung thì phần tài sản đã chia và hoa
lợi, lợi tức phát sinh từ phần tài sản này sẽ thuộc sở hữu riêng của mỗi người
theo quy định tại Điều 30 Luật HN&GĐ năm 2000 và khoản 1 Điều 8 Nghị
định số 70/2001/NĐ-CP. Chẳng hạn: vợ chồng có rất nhiều tài sản chung khác
nhau nhưng chỉ muốn bán một ngôi nhà là tài sản trong khối tài sản chung để
chia. Họ thỏa thuận sau khi bán ngôi nhà sẽ chia đều số tiền cho mỗi bên. Số
tiền được chia từ việc bán ngôi nhà, vợ chồng có thể độc lập quyết định việc
dùng số tiền đó đem cho người khác vay để lấy lãi, hoặc đầu tư vào chứng
khoán,… Tiền lãi, lợi tức phát sinh từ số tiền trên là tài sản riêng của mỗi bên.
Đối với những tài sản này, với tư cách là chủ sở hữu vợ chồng có quyền chiếm
hữu, sử dụng, định đoạt theo quy định tại Điều 33 Luật HN&GĐ năm 2000.
Một trường hợp được đặt ra là, tài sản riêng đã được chia từ khối tài sản chung
có bị hạn chế quyền định đoạt theo quy định tại khoản 5 Điều 33 Luật
HN&GĐ năm 2000? Khoản 5 Điều 33 Luật HN&GĐ năm 2000 quy định:
62
“Trong trường hợp tài sản riêng của vợ hoặc chồng đã được đưa vào sử dụng
chung mà hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng đó là nguồn sống duy nhất của gia
đình thì việc định đoạt tài sản riêng đó phải được sự thỏa thuận của cả vợ
chồng” [31]. Có quan điểm cho rằng, trong trường hợp này vợ chồng không bị
ràng buộc vì họ đã có thỏa thuận trước về việc chia tài sản đó [21, tr.23].
Chúng tôi đồng ý với quan điểm trên, việc không bị ràng buộc theo quy định
tại khoản 5 Điều 33 Luật HN&GĐ năm 2000 ngoài lý do vợ chồng đã có thỏa
thuận trước về việc chia tài sản, còn bởi vì tài sản đem chia chỉ chiếm một
phần nhỏ trong tổng giá trị tài sản chung của vợ chồng nên ít gặp trường hợp
tài sản chung không còn hoặc gia đình rơi vào hoàn cảnh khó khăn.
Phần tài sản còn lại không chia vẫn thuộc sở hữu chung của vợ chồng
theo quy định Điều 30 Luật HN&GĐ năm 2000 quy định. Khoản 2 Điều 8
Nghị định số 70/2001/NĐ-CP quy định cụ thể hơn: “Hoa lợi, lợi tức phát sinh
từ phần tài sản chung còn lại vẫn thuộc sở hữu chung của vợ chồng”. Đối với
phần tài sản chung này, quyền và nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng không thay
đổi do chế độ sở hữu chung chưa chấm dứt. Khối tài sản chung của vợ chồng
sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân có thể bao gồm:
- Phần tài sản chung còn lại chưa chia và hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài
sản này;
- Tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung, tặng cho chung sau khi đã chia
tài sản chung là tài sản chung hợp nhất do quan hệ nhân thân vẫn còn tồn tại;
- Quyền sử dụng mà vợ chồng có được sau khi chia tài sản chung trong
thời kỳ hôn nhân căn cứ theo quy định tại Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2000,
Điều 24 và Điều 25 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP. Chẳng hạn, đất mà vợ
chồng có được do cho chung, thừa kế chung sau thời kỳ hôn nhân,…
- Quyền sử dụng đất mà mỗi bên vợ chồng có được sau khi chia tài sản
chung do được Nhà nước giao, giao khoán, hoặc cho thuê,… Căn cứ theo
63
Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2000, Điều 24 và Điều 25 Nghị định số
70/2001/NĐ-CP thì tài sản này là tài sản chung của vợ chồng nếu tài sản này
được chia không liên quan đến lý do chia tài sản chung của vợ chồng. Ví dụ:
Vợ chồng yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân để nhằm mục
đích đầu tư kinh doanh riêng và sau khi chia tài sản chung họ đã sử dụng vào
mục đích ban đầu thì quyền sử dụng đất này là tài sản riêng. Nhưng nếu vợ
chồng yêu cầu chia một phần tài sản chung để thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng
với người khác (trả nợ, bồi thường thiệt hại,…) và sau đó được giao quyền sử
dụng đất thì tài sản đó được xem là tài sản chung của vợ chồng. Thực tế vẫn
xảy ra những trường hợp này nhưng hiện nay luật chưa quy định về trường
hợp này nên có nhiều quan điểm trái chiều.
Theo quy định tại Điều 28 Luật HN&GĐ năm 2000, đối với tài sản
chung còn lại không chia thì vợ chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong
việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt. Sau khi chia tài sản chung trong thời
kỳ hôn nhân thì việc vợ chồng đóng góp vào khối tài sản chung có thể không
ngang bằng nhau, nhưng không vì vậy mà làm hạn chế hoặc mất đi quyền sở
hữu của mỗi người đối với tài sản chung. Vì vậy, vợ chồng vẫn có quyền và
nghĩa vụ bình đẳng trong việc xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch dân sự
có liên quan đến tài sản chung của vợ chồng.
Trường hợp chia toàn bộ tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân thì sẽ
làm thay đổi về khối lượng tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng. Điều 30
Luật HN&GĐ năm 2000 và Điều 8 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP quy định
sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân thì tài sản được chia cho
mỗi bên và hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản được chia này là tài sản riêng
của mỗi bên; thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những
thu nhập hợp pháp khác của mỗi bên sau khi tài sản chung là tài sản riêng của
vợ chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác. Do đó, khi vợ chồng
64
có yêu cầu chia toàn bộ tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân thì khối lượng
tài sản riêng của mỗi bên vợ hoặc chồng sẽ tăng lên đáng kể, nhưng khối
lượng tài sản chung lúc này không còn, dẫn đến làm thay đổi quyền và nghĩa
vụ về tài sản giữa vợ và chồng. Có quy định cho rằng quy định như vậy thực
chất đã chấp nhận chế độ biệt sản của vợ chồng [9, tr253]. Như đã phân tích
tại mục 2.5.1, việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân không phải mặc
nhiên thừa nhận việc ly thân nên không đương nhiên dẫn đến chế độ biệt sản.
Tương tự việc chia một phần tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân,
quyền định đoạt tài sản riêng được chia trong trường hợp chia toàn bộ
không bị hạn chế bởi khoản 5 Điều 33 Luật HN&GĐ năm 2000, trừ trường
hợp các bên có thỏa thuận khác. Vì tài sản chung không còn nên việc đảm
bảo đời sống chung của gia đình được thực hiện như thế nào? Chẳng hạn
có trường hợp sau:
Tài sản chung của ông A và bà B là 400 triệu đồng. Trong khi hôn
nhân còn tồn tại, hai người đã yêu cầu tòa án chia tài sản chung đó. Sau khi
tòa án chia, mỗi người được 200 triệu đồng. Ông A đã sử dụng 200 triệu
đồng này và một số tài sản do thu nhập mà có vào việc buôn bán, kinh doanh.
Sau hai năm số tài sản đó lên tới 400 triệu đồng. Còn bà B do làm ăn thua lỗ,
tiêu tán dần số tài sản đó. Sau một thời gian bà B yêu cầu tòa án chia số tài
sản chung phát sinh sau đó thì về nguyên tắc bà B vẫn được hưởng một phần
tài sản trích từ hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của ông A. Vậy điều
này có là phù hợp với thực tế hay không? [23].
Có quan điểm cho rằng để duy trì đời sống chung của gia đình nếu
trong trường hợp không thỏa thuận được có thể áp dụng cách thức đóng góp
theo tỷ lệ thuận với số tài sản riêng được chia để chi dùng cho đời sống chung
của gia đình [45, tr.53].
Theo quan điểm của chúng tôi, phương án này chỉ phù hợp trong điều
65
kiện chia toàn bộ tài sản chung nhưng sau đó vợ chồng vẫn sống chung;
nhưng sẽ không phù hợp nếu sau khi chia toàn bộ mỗi người sống riêng mỗi
nơi mà một bên lại rơi vào hoàn cảnh khó khăn, túng thiếu vì những lý do
khách quan như bệnh hiểm nghèo, tàn tật,… làm hạn chế khả năng lao động
hoặc mất khả năng lao động thì việc đảm bảo đời sống chung của gia đình
được thực hiện như thế nào? Một vấn đề nữa được đặt ra có thực hiện việc
cấp dưỡng trong những tình huống này hay không? Nếu người có tài sản riêng
không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng thì người cần được cấp dưỡng có quyền
yêu cầu tòa án giải quyết không? Hiện nay chưa có văn bản quy phạm pháp
luật quy định về vấn đề này. Vì vậy để đảm bảo mục đích hôn nhân bền vững,
pháp luật cần dự liệu vấn đề này vì quan hệ nhân thân giữa vợ chồng theo quy
định của pháp luật vẫn còn tồn tại trước pháp luật.
Một vấn đề đặt ra là sau khi một phần hay toàn bộ tài sản chung trong
thời kỳ hôn nhân, tài sản mà vợ chồng tạo ra sau khi chia như tiền công, tiền
lương,… là tài sản riêng của mỗi bên hay là tài sản chung của vợ chồng. Khoản
2 Điều 8 Nghị định 70/2001/NĐ-CP có quy định: “Thu nhập do lao động, hoạt
động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của mỗi bên sau
khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ, chồng, trừ trường hợp vợ chồng
có thoả thuận khác”. Qua nghiên cứu chúng tôi thấy rằng có sự mâu thuẫn,
chồng chéo giữa các văn bản quy phạm pháp luật, cụ thể là Điều 27 Luật
HN&GĐ năm 2000 và Khoản 2 Điều 8 Nghị định 70/2001/NĐ-CP về phương
diện lý luận và thực tiễn áp dụng. Có thể thấy một số bất cập như sau:
- Một là, nếu theo quy định tại Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2000 thì
toàn bộ tài sản do một bên vợ, chồng hoặc cả hai người cùng tạo ra đều là tài
sản chung của vợ chồng. Tính chất cộng đồng của hôn nhân đã chi phối quan
hệ hôn nhân nên những thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh,
và những thu nhập hợp pháp khác của mỗi bên theo nguyên tắc vẫn là tài sản
66