Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (864.74 KB, 120 trang )
1.4.1 Pháp luật Dân sự Pháp
Ngay sau khi cuộc cánh mạng Pháp thành công, BLDS Pháp đã được
ban hành dưới sự chỉ đạo của Napoléon Bonaparte - một nhà quân sự và chính
trị kiệt xuất trên thế giới vào năm 1804. BLDS Pháp hay còn gọi là Bộ luật
Napoléon được nhiều học giả trong lĩnh vực lập pháp xem như là bản "Hiến
pháp dân sự" hoặc được ví như "một đài kỷ niệm". Với nhận định này đã cho
chúng ta thấy sự trường tồn cũng như tầm quan trọng của nó đối với pháp luật
dân sự trên thế giới. Với hơn hai trăm năm tồn tại và áp dụng, qua nhiều lần
bổ sung và sửa đổi, cho đến nay trong số 2.285 điều khoản hiện đang có hiệu
lực có gần một nửa các điều luật vẫn giữ nguyên được cấu trúc và không làm
thay đổi trật tự.
Từ khi có hiệu lực vào năm 1804 cho đến năm 2000, BLDS Pháp được
chia thành ba quyển, trong đó dành riêng Thiên V quyển thứ ba để quy định
về khế ước hôn nhân và các chế độ tài sản của vợ chồng trong hôn nhân. Với
quy định này, chế độ tài sản của vợ chồng bao gồm chế độ tài sản pháp định
và chế độ tài sản ước định. Theo đó, vợ chồng có quyền lựa chọn một chế độ
tài sản phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện kinh tế gia đình. Chế độ tài sản pháp
định là một giải pháp mang tích chất thay thế trong trường hợp vợ chồng
không có thỏa thuận bằng hôn ước, hoặc với mục đích để vợ chồng lựa chọn
chế độ tài sản áp dụng cho họ. Điều 1400 BLDS Pháp quy định: "Chế độ tài
sản chung được xác lập khi không có khế ước hôn nhân hoặc khi vợ chồng
lựa chọn kết hôn theo chế độ tài sản chung" [27]. Chế độ tài sản chung này
bao gồm hai khối tài sản là khối tài sản có và khối tài sản nợ. Tài sản chung
của vợ chồng được xác định như sau:
- Tài sản mà vợ chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân;
- Tài sản mà vợ chồng có được từ công việc của họ;
- Tài sản là những khoản tiết kiệm có được do hoa lợi, lợi tức từ tài sản
riêng của vợ, chồng;
25
- Tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung, được tặng cho chung hoặc
được di tặng chung;
- Tài sản không chứng minh được là tài sản riêng.
Điều 1401 BLDS Pháp cũng quy định: Tài sản cộng đồng “gồm những
thu nhập chung của hai vợ chồng hoặc thu nhập riêng của từng người trong
thời kỳ hôn nhân và có nguồn gốc từ công việc làm ăn của họ, cũng như từ
những khoản tiết kiệm có được do hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng của họ”
[27]. Trừ những tài sản riêng do bản chất của nó theo quy định của Điều 1404
BLDS Cộng hòa Pháp. Bên cạnh đó, Bộ luật này còn quy định trong trường
hợp không chứng minh được đó là tài sản riêng của vợ hoặc chồng theo quy
định của pháp luật thì mọi tài sản dù là động sản hay bất động sản đều được
coi là thu nhập chung của hai vợ chồng.
Những tài sản chung của vợ chồng chỉ được chấm dứt khi có những căn
cứ làm chấm dứt theo quy định của BLDS Pháp, trong đó có việc tách riêng tài
sản chung giữa vợ và chồng. Điều 1443 BLDS Pháp quy định về việc tách
riêng (chia) tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân như sau:
Nếu do sự xáo trộn trong công việc làm ăn của vợ hoặc chồng, do vợ
hoặc chồng quản lý kém hoặc thiếu đạo đức, mà việc duy trì chế độ tài sản
chung gây phương hại đến lợi ích của người kia, thì người có lợi ích bị phương
hại có thể yêu cầu Tòa án cho tách riêng tài sản. Mọi trường hợp tự tách riêng
tài sản đều vô hiệu [27].
Với quy định này các nhà làm luật Pháp đã dự liệu hai trường hợp chia
tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân: Một là, trường hợp công việc làm ăn
của vợ chồng có sự xáo trộn, có thể theo chiều hướng có lợi hoặc bất lợi trong
công việc làm ăn. Luật HN&GĐ hiện hành ở nước ta cũng có quy định tương
tự như trường hợp thứ nhất này là trường hợp chia tài sản chung để vợ chồng
thực hiện việc đầu tư kinh doanh riêng. Hai là, do vợ chồng quản lý kém hoặc
26
thiếu đạo đức, chẳng hạn như vợ hoặc chồng có hành vi phá tán tài sản chung,
hoặc tự mình thực hiện những giao dịch dân sự làm tổn thất khối tài sản
chung, ảnh hưởng đến quyền lợi của gia đình và của bên kia. Cả hai trường
hợp tách riêng tài sản chung này chỉ được ghi nhận thông qua tòa án. Mọi
trường hợp vợ chồng tự tách riêng tài sản đều không có giá trị pháp lý. Hậu
quả của việc chia tài sản chung đó sẽ làm chấm dứt chế độ tài sản chung của
vợ chồng. Trong khi đó, Luật HN&GĐ hiện hành của nước ta quy định có sự
khác biệt với BLDS Pháp khi cho phép thực hiện chia tài sản chung của vợ
chồng thông qua việc tự thỏa thuận được thực hiện tại các văn phòng công
chứng và thông qua con đường tòa án. Như vậy, chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân theo pháp luật Việt Nam đã “cởi mở” hơn so
với BLDS Pháp. Ngoài ra, Điều 1443 BLDS Pháp cho thấy, chỉ có vợ hoặc
chồng có quyền yêu cầu tách riêng tài sản chung, người thứ ba có liên quan
không có quyền yêu cầu. Điều 1446 BLDS Pháp khẳng định: “Chủ nợ của
riêng vợ hoặc chồng không có quyền yêu cầu tách riêng tài sản của vợ chồng
người mắc nợ”. Người thứ ba có liên quan chỉ được tham gia tố tụng để bảo
vệ quyền lợi của mình và nếu việc tách riêng tài sản được Tòa án quyết định
có hại cho quyền lợi của họ, họ có quyền kháng cáo với tư cách người thứ ba
kháng án theo những điều kiện do Bộ luật tố tụng dân sự quy định.
Việc tách riêng tài sản chung giữa vợ và chồng được quy định khá đầy
đủ, tuân theo những trình tự thủ tục chặt chẽ. Điều 1445 BLDS Pháp quy định
như sau:
Yêu cầu tách riêng tài sản giữa vợ và chồng, bản án cho tách riêng tài
sản giữa vợ và chồng phải được công bố theo những điều kiện và chế tài quy
định tại Bộ luật tố tụng dân sự, cũng như theo các quy định pháp luật về
thương mại, nếu vợ hoặc chồng là thương nhân;
Bản án tuyên bố tách riêng tài sản giữa vợ và chồng có hiệu lực kể từ
ngày nộp yêu cầu tách riêng tài sản;
27
Bản án tuyên bố tách riêng tài sản giữa vợ và chồng được ghi chú bên
lề giấy đăng ký kết hôn và bản chính của khế ước hôn nhân [27].
Như vậy với nội dung của điều luật trên, việc chia tài sản chung trong
thời kỳ hôn nhân phải được công bố công khai, và chỉ hướng đến chủ thể vợ,
chồng là thương nhân. Quy định này của BLDS Pháp nhằm mục đích loại bỏ
hoặc hạn chế đến mức thấp nhất những tranh chấp có thể phát sinh trong tương
lai. Trước tiên là để vợ chồng nâng cao trách nhiệm của mỗi bên vợ chồng,
ngăn chặn việc tách riêng tài sản nhằm mục đích trốn tránh việc thực hiện
nghĩa vụ của bản thân. Tiếp nữa là để người thứ ba có quyền và nghĩa liên quan
đến tài sản chung của vợ chồng có thể biết được sự dịch chuyển tài sản chung
của vợ chồng để có những định hướng kịp thời để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho mình, chẳng hạn như yêu cầu thanh toán các khoản vay,…
Ngoài ra, pháp luật dân sự Pháp còn yêu cầu bản án tách riêng tài sản
chung phải được ghi chú bên lề giấy đăng ký kết hôn hoặc bản chính của khế
ước hôn nhân. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để chứng minh rõ nguồn gốc
tài sản trong trường hợp phát sinh những tranh chấp giữa vợ và chồng hoặc
người thứ ba có liên quan đến tài sản chung của vợ chồng.
Để đảm bảo lợi ích của gia đình đặc biệt là con cái sau khi bản án tách
riêng tài sản chung có hiệu lực pháp luật, BLDS Pháp còn quy định thêm
quyền và nghĩa vụ của vợ chồng sau khi chia tài sản chung. Điều 1448 BLDS
Pháp quy định những nghĩa vụ mà vợ chồng phải thực hiện:
Vợ hoặc chồng đã được tách riêng tài sản có trách nhiệm đóng góp các
chi phí cho gia đình và cho việc nuôi dạy con theo khả năng của mình và của
người kia. Nếu một trong hai vợ chồng không còn tài sản sau khi tách riêng
tài sản, thì người kia phải trả hết các chi phí nêu trên [27].
Như vậy, dù việc tách riêng tài sản chung được thực hiện với mục đích
gì thì vợ chồng vẫn phải có nghĩa vụ đóng góp chăm lo cho đời sống chung
28
của gia đình như chi phí sinh hoạt hàng ngày, mua sắm vật dụng gia đình, các
chi phí khác, các nghĩa vụ đối với người thứ ba … Trong trường hợp một bên
vợ hoặc chồng không còn tài sản sau khi chia tài sản thì người vợ hoặc chồng
còn lại phải thanh toán tất cả các chi phí liên quan đến đời sống chung của gia
đình. Đặc biệt vợ chồng phải có nghĩa vụ nuôi dạy con cái trong điều kiện
hoàn cảnh của bản thân. Ngoài việc phải chi trả cho những chi phí nuôi dạy
con như chi phí học hành, ăn ở, đi lại,… vợ chồng phải có nghĩa vụ chăm lo
cho sự phát triển của con. Bởi vì chỉ có gia đình là nơi thích hợp nhất để nuôi
dưỡng những mầm non thành những công dân tốt, trở thành nguồn lực quan
trọng để phát triển tương lai của đất nước.
Ngoài ra, BLDS Pháp cũng quy định về hậu quả pháp lý của việc tách
riêng tài sản này. Chế độ tài sản chung của vợ chồng sẽ chấm dứt khi quyết
định của Tòa án có hiệu lực và được chuyển sang chế độ tách riêng tài sản, tài
sản riêng của người nào sẽ thuộc sở hữu của người đó. Điều 1449 BLDS Pháp
quy định: “Việc tách riêng tài sản do Tòa án quyết định có hiệu lực đặt vợ
chồng dưới chế độ của các điều 1536 và tiếp theo” [27]. Ngoài ra, BLDS Pháp
còn quy định việc thanh toán các khoản nợ đối với người thứ ba có liên quan
đến tài sản chung của vợ chồng khi việc chia tách tài sản riêng có hiệu lực pháp
lý tại Điều 1449:
Khi tuyên bố tách riêng tài sản, Tòa án có thể quyết định một bên vợ hoặc
chồng sẽ chuyển cho bên kia phần đóng góp của mình; người này sẽ một mình
đảm nhận giải quyết mọi hậu quả trong hôn nhân đối với người thứ ba [27].
Với quy định trên cho thấy, khi tuyên bố tách riêng tài sản thì việc
thanh toán các nghĩa vụ với bên thứ ba có thể được Tòa án quyết định giao
cho một bên vợ chồng thanh toán sau khi nhận được phần đóng góp của bên
còn lại. Quy định này sẽ đảm bảo được quyền lợi của người thứ ba.
Từ việc tìm hiểu một số quy định về chế độ tài sản của vợ chồng cũng
29
như việc tách riêng tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân đã cho chúng
ta thấy rằng BLDS Pháp đã quy định khá đầy đủ, chi tiết những nội dung có
liên quan đến việc chia tài sản chung của vợ chồng. Đối với Việt Nam, đây
chính là những quy định có rất nhiều ưu điểm để những nhà lập pháp của
chúng ta có thể học hỏi, tiếp thu nhằm góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật
về HN&GĐ, trong đó có vấn đề về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời
kỳ hôn nhân. Một số nội dung về việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn
nhân theo Luật HN&GĐ năm 2000 chưa được ghi nhận, chẳng hạn như quy
định về nghĩa vụ của vợ chồng đối với gia đình và con cái sau khi chia tài sản
chung, hay bản án chia tài sản chung phải được ghi chú bên lề giấy chứng
nhận kết hôn. Một số nội dung sau một thời gian thi hành đã bộc lộ một số
hạn chế như “lý do chính đáng” để yêu cầu chia tài sản chung là lý do gì chưa
cụ thể. Vì vậy, chúng ta cần thiết phải tham khảo BLDS Pháp để có hướng
sửa đổi, bổ sung phù hợp với xu thế phát triển chung của xã hội loài người.
1.4.2 Pháp luật dân sự và thương mại Thái Lan
Ở Đông Nam Á, Thái Lan là quốc gia duy nhất không phải trải qua chế
độ thuộc địa. Tuy nhiên, trong suốt thế kỉ XIX, để duy trì chủ quyền lãnh thổ
của mình, Thái Lan đã kí kết hàng loạt các hiệp định song phương với các
quốc gia phương Tây nhằm phát triển quan hệ thương mại. Các hiệp định
song phương này đã giúp cho Thái Lan mở cửa thị trường với các nước
phương Tây. Sự thay đổi về thương mại đã kéo theo sự thay đổi về xã hội và
pháp luật. Vì thế, hệ thống pháp luật Thái Lan bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi
pháp luật các nước phương Tây, đặc biệt là pháp luật của Châu Âu lục địa.
Đầu thế kỉ XX, Thái Lan tiến hành cải cách hệ thống pháp luật và tư pháp.
Người Thái đã tiếp nhận hệ thống triết lý pháp luật, tổ chức toà án và tố tụng
của pháp luật Châu Âu và xem pháp luật của Pháp, Đức, Thụy Sĩ, Anh, Ý và
Nhật Bản là những mô hình cho việc xây dựng pháp luật của mình. Hàng loạt
30
các bộ luật của Thái Lan đã được ban hành theo mô hình pháp luật của các
nước này, trong đó có BLDS và thương mại năm 1925. Gần một thế kỷ có
hiệu lực thi hành cho đến nay, những quy định của nó vẫn còn giá trị trong
đời sống của người Thái. Những quy định về HNGĐ được ghi nhận tại Quyển
5 từ Điều 1435 đến Điều 1598 của Bộ luật.
Do chịu ảnh hưởng của pháp luật châu Âu lục địa nên quyền sở hữu
của vợ chồng ở Thái Lan cũng được điều chỉnh bằng hai phương thức: theo
hôn ước mà vợ chồng lập ra trước khi cưới và theo quy định của pháp luật khi
vợ chồng không có hôn ước hoặc hôn ước đó vô hiệu. Tài sản của vợ chồng
cũng bao gồm tài sản chung "Sin Somros" và tài sản riêng "Sin Suan Tua".
Phần tài sản chung "Sin Somros" của vợ chồng theo quy định tại Điều
1474 BLDS và Thương mại Thái Lan được xác định bao gồm những tài sản sau:
- Tài sản mà vợ chồng có được trong thời kỳ hôn nhân;
- Tài sản mà vợ chồng có được trong thời kỳ hôn nhân thông qua một
di chúc hoặc tặng cho được làm bằng văn bản nếu trong di chúc hay văn bản
này tuyên bố rõ tài sản đó là tài sản chung;
- Hoa lợi phát sinh từ tài sản riêng;
- Ngoài ra trong trường hợp tài sản có nguồn gốc hợp pháp khác nhưng
không chứng minh được là tài sản riêng của một bên vợ hoặc chồng thì tài sản
đó được coi là tài sản chung.
Căn cứ quy định tại các Điều 1488, Điều 1484, Điều 1491, Điều
1598.17 BLDS và Thương mại Thái Lan thì tài sản chung vợ chồng chỉ có thể
được chia trong thời kỳ hôn nhân trong bốn trường hợp cụ thể sau:
- Thứ nhất, một bên vợ chồng có nghĩa vụ tài sản riêng nhưng không có
hoặc không đủ tài sản riêng để thực hiện, phải thực hiện bằng phần tài sản của
mình trong khối tài sản chung;
- Thứ hai, vợ hoặc chồng là người quản lý tài sản chung "Sin Somros"
31
mà có những hành vi vi phạm như: gây mất mát tài sản chung mà không có lý
do chính đáng; không giúp đỡ người kia; lâm vào tình trạng nợ nần hoặc chịu
những món nợ vượt quá một nữa giá trị tài sản chung; cản trở vợ hoặc chồng
mình trong việc quản lý tài sản chung mà không có lý do chính đáng;
- Thứ ba, người vợ hoặc người chồng bị tuyên bố phá sản;
- Thứ tư, một bên vợ hoặc chồng bị tuyên mất năng lực hành vi và
người kia bị coi là không thích hợp để làm người giám hộ và do đó cha hoặc
mẹ của người đó hoặc một người được chỉ định làm người giám hộ thì người
giám hộ đó sẽ trở thành người đồng quản lý tài sản chung với người kia.
Trong trường hợp này vợ hoặc chồng của người bị mất năng lực hành vi có
quyền yêu cầu Tòa án chia tài sản chung nếu có tình huống quan trọng gây ra
nguy hại cho họ.
So với BLDS Pháp, BLDS và Thương mại Thái Lan đã mở rộng thêm
hai trường hợp được chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
Trong đó có trường hợp chia tài sản chung trong thời kỳ hôn khi một bên vợ
hoặc chồng bị tuyên mất năng lực hành vi và người kia bị coi là không thích
hợp để làm người giám hộ. Pháp luật HN&GĐ nước ta cũng chưa quy định
trường hợp này. Vì vậy, trong thời gian tới cần thiết phải bổ sung lý do này
trong hướng dẫn xác định “lý do chính đáng khác” để làm căn cứ chia tài sản
chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân như BLDS và Thương mại Thái
Lan đã quy định.
Bên cạnh đó, BLDS và Thương mại Thái Lan còn quy định thêm hậu
quả pháp lý của việc chia tài sản chung. Điều 1492 BLDS và Thương mại
Thái Lan quy định rõ sau khi đã chia tài sản chung căn cứ vào những trường
hợp nêu trên, tài sản của vợ chồng sẽ có sự thay đổi như sau:
- Phần tài sản được chia cho mỗi bên vợ hoặc chồng trở thành tài sản
riêng của mỗi người;
32
- Bất cứ tài sản nào mà người vợ hoặc người chồng có được sau khi chia
tài sản chung sẽ là tài sản riêng của người đó và không được coi là tài sản chung;
- Tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung, tặng cho chung sau khi chia
tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân trở thành tài sản riêng và chia đều cho cả
vơ ̣ và chồ ng;
- Hoa lợi thu được từ tài sản riêng sau khi chia tài sản chung sẽ là tài
sản riêng của mỗi người.
Như vậy, sau khi chia tài sản chung sau thời kỳ hôn nhân thì toàn bộ tài
sản được chia và tài sản có được sau khi chia đều là tài sản riêng của mỗi bên
vợ chồng. Điều này đã làm chấm dứt hoàn toàn chế độ tài sản chung giữa vợ
và chồng. Chế độ tài sản chung của vợ chồng sau khi chia đã thay bằng chế
độ biệt sản của mỗi người. Ngoài ra, để đảm bảo đời sống chung của gia đình
sau khi chia tài sản chung, BLDS và Thương mại Thái Lan quy định cả hai vợ
chồng đều phải chịu trách nhiệm thanh toán những chi tiêu của gia đình theo
tỷ lệ tương ứng với số tài sản riêng của mỗi người (Điều 1493). Quy định này
cũng tương tự như quy định của BLDS Pháp về việc thực hiện nghĩa vụ của
vợ chồng với gia đình và con cái.
Thêm vào đó, BLDS và Thương mại Thái Lan còn ghi nhận một điểm
khác biệt so với BLDS Pháp là việc khôi phục chế độ tài sản chung sau khi đã
chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Điề u 1492.1 BLDS và Thương mại
Thái Lan có quy định như sau:
Trong trường hợp chia " in Somros"theo lê ̣nh của Tòa án thì viê ̣c hủy bỏ
S
sự phân chia đó sẽ được thực hiê ̣n theo yêu cầ u của người vợ hoặc người
chồ ng và Tòa án sẽ ra quyế t đi ̣nh công nhận viê ̣c này
. Nế u vợ hoặc chồ ng
phản đối yêu cầu nà y thì Tòa án không được ra quyế t đi ̣nh hủy bỏ viê ̣c chia
S
" in Somros"trư khi lý do chia " in Somros"đã chấ m dưt [2].
S
̀
́
Theo tinh thần của quy định này, chế đô ̣ tài sản chung của vợ chồng chỉ
33
đươ ̣c Tòa án cho phu ̣c hồ i khi có yêu cầ u c ủa vợ, chồ ng hoă ̣c khi lý do chia
“Sin Somros” đã chấ m dứt . Sau khi viê ̣c chia tài sản chung đã đươ ̣c hủy bỏ
hoă ̣c đinh hoan do vơ ̣ hoă ̣c chồ ng đã thoát khỏi viê ̣c phá sản thì tài sản là tài
̃
̀
sản riêng vào ngày có quyết định của Tòa án hoặc vào ngày mà người vợ hoặc
người chồng thoát khỏi việc phá sản vẫn giữ nguyên là tài sản riêng.
Với những nội dung vừa được giới thiệu trên cho thấy BLDS và
Thương mại Thái Lan quy định về việc chia tài sản chung của vợ chồng trong
thời kỳ hôn nhân cũng có nhiều điểm hợp lý hơn so với pháp luật nước ta.
Chẳng hạn như những trường hợp chia tài sản chung, hậu quả đối với gia đình
và con cái hay như vấn đề khôi phục chế độ tài sản chung sau khi chia. Tuy
nhiên, pháp luật Thái Lan vẫn còn một số điểm chưa phù hợp với điều kiện
nước ta như quy định chế độ biệt sản sau khi chia tài sản chung. Vì vậy, để
hoàn thiện pháp luật HN&GĐ, chúng ta cần có sự vận dụng một cách linh
hoạt các quy định của pháp luật Thái Lan phù hợp với điều kiện đất nước.
34
Chương 2
CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN
THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH
2.1 Quyền yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ
hôn nhân
Vợ chồng yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là một
trong những quy định thể hiện sự bình đẳng giữa vợ chồng về tài sản. Sự thừa
nhận quyền yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân đã cho phép vợ
chồng có quyền sở hữu tài sản riêng của mỗi người, từ đó nhằm mục đích
củng cố quan hệ vợ chồng đồng thời tôn trọng, bảo đảm tự do ý chí cá nhân
trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt khối tài sản chung.
Theo quy định tại Điều 224 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì tài sản chung
được chia theo yêu cầu của chủ sở hữu chung hoặc theo yêu cầu của người có
quyền yêu cầu một trong các chủ sở hữu chung thực hiện nghĩa vụ với mình
mà người đó không có tài sản riêng [32]. Việc yêu cầu được chia tài sản
chung của chủ sở hữu chung thì không cần có lí do chính đáng. Đối với yêu
cầu chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân là một trường hợp
của chia tài sản thuộc sở hữu chung. Khoản 1 Điều 29 Luật HN&GĐ năm
2000 quy định:
“Khi hôn nhân còn tồn tại, trong trường hợp vợ, chồng đầu tư kinh
doanh riêng, thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng hoặc có lý do chính đáng khác
thì vợ chồng có quyền thỏa thuận chia tài sản chung; việc chia tài sản chung
phải được lập thành văn bản; nếu không thỏa thuận được thì có quyền yêu
cầu Tòa án giải quyết” [31].
Với quy định trên, tài sản chung chỉ được chia khi có lí do chính đáng
và theo thỏa thuận của vợ chồng hoặc khi vợ chồng không thỏa thuận được thì
35