1. Trang chủ >
  2. Giáo Dục - Đào Tạo >
  3. Cao đẳng - Đại học >

Chiến tranh, cách mạng, khởi nghĩa và xung đột thông thường.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.09 MB, 598 trang )


hoạt động với tư cách nhà giám sát kỹ thuật đối với các hoạt động đào tạo và sản xuất, sau đó

thu lợi từ các dự án được mở rộng. Bảo hiểm của OPIC được lưu hành cho những dự án đầu

tiên và những hoạt động mở rộng tiếp theo dự án đó.

Mặc dù là một quốc gia lớn nhất ở châu Phi thì Sudan vẫn còn bị cản trở bởi sự thiếu

vắng mạng lưới truyền thông và quá trình điện khí hoá. Union Carbide đã thâm nhập vào thị

trường Khartoum bằng việc xây dựng một công ty liên doanh sản xuất pin khô. Từ khi bắt đầu

dự án có sự bảo hiểm của OPIC, công ty đã nhiều lần được mở rộng. Union Carbide chỉ đạo

một chương trình đào tạo toàn diện cho nhân viên, trên 98% trong số đó là người Sudan. Năm

1983, OPIC đã phát hành thêm việc bảo hiểm đối với những hoạt động mở rộng mới.

Tóm lại, mô hình OPIC đã đạt được những thành công đáng kể. Số lượng quốc gia và

công ty sử dụng chương trình này tăng đáng kể, và số lượng bảo hiểm của OPIC ngày càng phát

triển. Thành công của OPIC đã được khẳng định thông qua công trình nghiên cứu của Mandel.

Nhiều mục tiêu của OPIC không cần thiết phải đi theo một hướng. Một chương trình viện trợ

nước ngoài có thể tăng hoặc không tăng thị phần thị trường tại nước ngoài của các hãng Mĩ

hoặc có thể chỉ kích thích nền kinh tế Mĩ. Mặc dù vậy, chắc chắn OPIC sẽ phải đối mặt với

một vài mâu thuẫn trong những mục tiêu kinh tế và chính trị. Việc ưu tiên hoá một cách dứt

khoát trong các mục tiêu của nó có thể là cần thiết vào lúc này.

FCIA

Một cơ quan khác mà các doanh nghiệp Mĩ có thể trông đợi sự trợ giúp là Hiệp hội bảo

hiểm tín dụng nước ngoài (FCIA), một tổ chức bao gồm 50 công ty hàng đầu của Mĩ trong lĩnh

vực bảo hiểm tai nạn đường biển. Được thành lập vào năm 1961, FCIA đã đưa các doanh

nghiệp của Mĩ trở nên cạnh tranh hơn trên trường Quốc tế bằng việc bảo hiểm các hoạt động

xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ của Mĩ đối với các rủi ro thương mại và chính trị. Những rủi ro

như vậy là rất nhiều. Như FCIA đã giải thích, rủi ro có thể xuất phát từ sự giảm giá trị về mặt

kinh tế trên khu vực thị trường của người bán, sự dao động về nhu cầu, sự cạnh tranh không

lường trước, những thay đổi về thuế quan cũng như những thay đổi về mặt công nghệ. Một

trong những người lãnh đạo hay các thành viên quản lí trọng yếu của công ty người bán chết

hoặc không có khả năng làm việc có thể khiến công ty ngừng hoạt động. Chính phủ nước người

bán hay một khách hàng chính có thể sửa đổi các điều khoản mua bán. Hoặc người bán có thể

phải chịu phần gia tăng không mong đợi trong chi phí hoạt động. Những thảm hoạ tự nhiên, như

lũ lụt hay động đất có thể ảnh hưởng đến năng lực hoạt động của người mua trên thị trường.

Những lợi ích từ việc bảo hiểm của FCIA bao gồm:

+Bảo vệ người nhập khẩu chống lại việc từ chối thanh toán của người mua



+Khuyến khích nhà nhập khẩu đưa ra các điều khoản thanh toán hợp lí hoặc các điều

khoản hoàn trả mang tính dài hạn cho các nhà nhập khẩu nước ngoài

+Khuyến khích những nỗ lực thận trọng của các nhà xuất khẩu nước ngoài trong việc

mở rộng và thâm nhập những thị trường nước ngoài có mức độ rủi ro cao hơn.

+Mang đến cho các nhà xuất khẩu tính thanh khoản, các đòn bẩy và sự linh hoạt cao hơn

về tài chính trong việc điều hành những danh mục đầu tư nước ngoài nhận được.

Nói tóm lại, việc bảo hiểm sẽ giúp các nhà đầu tư có những lời chào hàng cạnh tranh

hơn bằng cách nới rộng thơì hạn tín dụng và giành được sự tài trợ từ phía nước ngoài. Trên

8,000 doanh nghiệp đã tận dụng được lợi ích từ dịch vụ bảo hiểm của FCIA. Một nhà nhập

khẩu có thể áp dụng bảo hiểm tín dụng xuất khẩu thông qua các trung gian bảo hiểm quốc gia

hoặc các văn phòng FCIA địa phương. Bảng 4.3 liệt kê các chương trình trợ giúp khác nhau đối

với các giao dịch cụ thể.

FCIA hoạt động trong sự hợp tác với eximbank. Eximbank chi phối hoạt động của FCIA.

Trong khi các hãng bảo hiểm tư nhân bảo hiểm những rủi ro tín dụng thương mại thông thường,

eximbank bảo hiểm cả những rủi ro về chính trị cũng như tái bảo hiểm những rủi ro thương

mại vượt mức qui định. Trách nhiệm pháp lí đối với những rủi ro chính trị bao gồm : ‘ sự chậm

chễ trong việc chuyển thanh toán,những mối nguy hiểm như chiến tranh, cách mạng hay những

hành động chiến tranh tương tự; sự thu hồi hoặc không thể thu hồi giấy phép nhập khẩu hoặc

xuất khẩu mà không lường trước được, hành động trưng thu, sung công, hoặc sự can thiệp của

chính quyền vào công việc kinh doanh của người bán, phí vận chuyển hay bảo hiểm gây ra do

sự gián đoạn hay đi lệch hướng của việc vận chuyển.

Thời hạn ngắn

(Dưới 180 ngày)

Các sản phẩm



Chương



trình



phù



hợp

Hàng tiêu dùng



Các chính sách FCIA



Mặt hàng sản xuất nhỏ

Phụ tùng thay thế

Vật liệu thô

Sản phẩm nông trại

Thời hạn trung bình

(Từ 181 ngày đến 5 năm)

Các sản phẩm

hợp



Chương



trình



phù



Các thiết bị dùng cho khai thác và tinh chế

Máy móc xây dựng



Các chính sách FCIA

Các thế chấp cho ngân hàng thương



mại

Máy bay nói chung



Chuyển cover cho các nhà phân phối nước



ngoài

Máy móc nông nghiệp

Các thiết bị truyền thông



Vay chiết khấu



Các nghiên cứu cho việc lập kế hoạch và tính khả thi

bảo



Đường lối được



đảm giữa các ngân hàng



Thời hạn dài

(Trên 5 năm)

Các sản phẩm



Chương



trình



phù



hợp

Vay trực tiếp



Các nhà máy xi măng

Các hệ thống hoá học



Bảo đảm tài chính cho ngân hàng thương



mại

Nhà máy điện- thuỷ điện, nhiệt điện, điện nguyên tử

LNG và các hệ thống xử lý khí



Các khoản vay



PEFCO

Các máy bay thương mại

Đầu máy xe lửa



Giữa các sản phẩm FCIA là Master Policy, nó cung cấp sự bảo vệ tự động và bao trùm

cho một mức giá hấp dẫn thông qua một chính sách thống nhất cho tất cả các mặt hàng. Master

Policy được kí kết chó việc vận chuyển trong suốt giai đoạn một năm và bảo đảm cho tất cả

các hàng hoá đủ tư cách của người xuất khẩu (chẳng hạn: nhiều sản phẩm của người xuất

khẩu tới các thị trường khác nhau ). Bán hàng ngắn hạn và trung hạn đều được bảo đảm bằng

chính sách này. Thông thường thì 90% thiệt hại về thương mại và 100% thiệt hại do rủi ro về

chính trị được đề cập đến. Ưu điểm của Master Policy là nó còn cung cấp một số điều khoản

đặc biệt. Chẳng hạn điều khoản “trước khi vận chuyển” nhằm bảo đảm ngày kí hợp đồng bán

hàng thay vì ngày gửi hàng. Hàng hoá cũng được bảo đảm. Ngoài ra, các công ty còn bỡ ngỡ

trong lĩnh vực xuất khẩu hoặc có lượng hàng xuất khẩu hạn chế có thể áp dụng Small Bussiness

Policy, cũng giống Master Policy nhưng linh hoạt và có nhiều ưu đãi hơn.



Kết luận

Môi trường chính trị của các marketer quốc tế khá phức tạp và khó khăn do sự tương tác

giữa môi trường chính trị trong nước, ngoài nước và quốc tế. Nếu một sản phẩm được nhập

khẩu hay sản xuất ở nước ngoài, các đảng phái chính trị và tổ chức lao động sẽ buộc tội

marketer không tạo cơ hội việc làm cho cho nước chủ nhà. Mặt khác, các chính phủ nước ngoài

không phải lúc nào cũng niềm nở với các nguồn vốn và đầu tư từ bên ngoài vì những mối nghi

ngờ về động lực và sự cam kết của marketer. Khi cả nước chủ nhà và nước đất nước của nhà

đầu tư bên ngoài có chế độ chính trị và lợi ích quốc gia khác nhau, chính sách trái ngược của hộ

sẽ làm cho vấn đề càng trầm trọng hơn.

Chương này đã đề cập đến khía cạnh chính trị của thương mại quốc tế. Do sự đa dạng

của các chế độ kinh tế, chính trị nên các chính phủ phải theo đuổi các triết lý khác nhau. Trong

một số trường hợp, động lực chính trị của họ làm che mờ các logic về kinh tế. Kết quả thường

thấy là các rủi ro về chính trị -như sự chiếm đoạt, quốc hữu hoá, sự hạn chế- được tạo ra nhằm

chống lại hàng xuất khẩu và /hoặc hàng nhập khẩu là không thể tránh được.

Các quyết định marketing do vậy cũng bị ảnh hưởng khi xem xét các vấn đề chính trị. Khi

đầu tư vào một quốc gia ở nước ngoài, các công ty phải hết thận trọng vớí những vấn đề chính

trị ở quốc gia đó. Nói chung chính trị vốn tự nhiên là dễ thay đổi, các công ty nên chuẩn bị các kế

hoạch dự phòng để đương đầu với những thay đổi chính trị có thể xảy ra. Để tối thiểu hoá

những rủi ro về chính trị, công ty cần cố gắng thích nghi với lợi ích quốc gia của nước chủ nhà

bằng cách tham gia tích cực vào nền kinh tế, tuyển nhân viên các kiều dân của nước đó, chia sẻ

quyền sở hữu doanh nghiệp với các các doanh nghiệp địa phương và luôn làm tròn trách nhiệm

công dân tại nước đó. Mặt khác, để bảo vệ lợi ích kinh tế của mình, các công ty nên duy trì thái

độ chính trị trung lập, thực hiện các hành động chính trị một cách thầm lặng để đạt tới mục tiêu

của mình, và chuyển các rủi ro cho tới phía thứ ba bằng các mua bảo hiểm chính trị. Và cuối

cùng các công ty nên xây dựng một hệ thống cho phép họ có thể đánh giá một cách có hệ thống

và toàn diện về các điều kiện chính trị.

Một số công ty coi vấn đề chính trị như là một trở ngại khi tham gia vào thị trường bên

ngoài hay lại coi đó là rào cản tới việc sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên. Nhưng đối với

các công ty khác, các vấn đề chính trị lại là các cơ hội và thử thách. Theo một số công ty có cái

nhìn lạc quan thì các vấn đề về chính trị cũng tương tự như các điều kiện về môi trường có thể

vượt qua và kiểm soát được. Các rủi ro về chính trị có thể giảm bớt, thậm chí có thể loại bỏ

thông qua sự thích nghi và điều khiển khéo léo.

Câu hỏi:

Giải thích tại sao có nhiều môi trường chính trị



Phân biệt giữa chính phủ nghị viện (mở) và chính phủ chuyên chế (đóng)

Phân biệt các kiểu chính phủ: hai đảng, đa đảng, một đảng duy nhất, một đảng thống trị

Phân biệt các chế độ kinh tế: chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa tư bản.

Sự ổn định của một nước được quyết định bởi : (a) sự phát triển kinh tế (b) dân chủ (c)

chủ nghĩa tư bản.

Giải thích các khái niệm: tịch thu, chiếm đoạt, quốc hữu hoá và nội địa hoá.

Thế nào là chiếm đoạt dần dần ? Những ảnh hưởng kinh tế của nó đối với các nhà đầu

tư nước ngoài.

Thế nào là các nguồn tiềm năng, các dấu hiệu của sự mất ổn định chính trị

Một công ty làm phân tích về sự mạo hiểm trong khi đầu tư vào một quốc gia như thế

nào?

Giải thích các phương thức quản lý mạo hiểm chính trị sau: từ bỏ, bảo đảm, đàm phán

và môi trường, xây dựng cơ cấu đầu tư.

các biện pháp nào có thể sử dụng nhằm tối thiểu hoá các rủi ro về chính trị

OPIC là gì và nó giúp đỡ các nhà đầu tư Hoa Kỳ trong việc đầu tư ra nước ngoài như thế

nào ?

FCIA là gì và nó giúp đỡ các nhà đầu tư Hoa Kỳ trong việc đầu tư ra nước ngoài như thế

nào ?

Các tình huống thảo luận

Theo Harvey E Heinbach, phó chủ tịch của Merrill Lynch “” Thảo luận về lời nói này trên

quan điểm chính trị và kinh tế liên quan tới Hoa Kỳ và Nhật Bản.

Tại sao nước chủ nhà (bao gồm cả Hoa Kỳ) không phải lúc nào cũng dễ dàng chấp nhận

đầu tư của công ty nước ngoài vào sản xuất trong nước.

Đã từng nhìn nhau với thái độ thù địch, giờ đây Hoa Kỳ và Trung Quốc đang đẩy mạnh

các mối quan hệ về kinh tế , chính trị. Những lý do nào có thể giải thích cho sự phát triển này.

Một quốc gia sẽ như thế nào nếu chuyển đổi thành chế độ 100% chủ nghĩa tư bản hay

100% chủ nghĩa cộng sản.

Chủ nghĩa tư bản có phải là chế độ tốt nhất về kinh tế, xã hội cho tất cả các quốc gia

Năm 1987, Tsuneo Sakak, một nhân viên của Fuji Photo Film, được nhận vào Simon

School of Business tại trường đại học Rochester nhưng lại bị từ chối mà không có một lời giải

thích. Sau đó người ta mới biết rằng người đứng sau việc này là Eastman Kodak, ông này có trụ



sở nằm trong Rochester. Kodak đã kiến nghị với trường đại học là Sakai sẽ biết được các bí mật

thương mại của Kodak từ rất nhiều nhân viên của ông hiện đang tham dự các khoá học về kinh

doanh, các bí mật này có thể tình cờ bị tiết lộ thông qua các buổi tranh luận trong lớp học. Kodak

là công ty có đóng nhiều nhất cho trường đại học cần phải có trách nhiệm với sự thay đổi quyết

định của trường đại học. William E Simon, nguyên là Treasury secrectary, đã từng cộng tác với

Rochester chỉ trích cả trường đại học lẫn Kodak, ông gọi hành động đó là “sự mua chuộc ”.

Kodak biện hộ rằng những gì họ làm là nhằm bảo vệ lợi ích kinh doanh của mình. Kodak khăng

khăng cho rằng hành động của họ là hoàn toàn hợp lý.

Câu hỏi

Bạn có ủng hộ việc Kodak quyết định gây áp lực cho trường đại học

Bạn có ủng hộ việc trường đại học không cho Sakai vào học

Kodak và trường đại học Rochester cuối cùng thu xếp cho Sakai được nhận vào . Và . Liệu

những sự kiện tiếp theo có làm thay đổi câu trả lời của bạn không.

Kẻ độc tài

Năm 1987, MIT (Viện Công Nghệ Massachussetts) định mua hoặc thuê một siêu máy tính

và cho mời thầu với mức giá 7,5 triệu đô la. Trong số những công ty tham dự có: Cray Research,

IBM, ETA Systems, Amdahl (Fujitsu sở hữu 46%) và Hneywell-NEC (Nippon Electric Corp sở

hữu 50%).

Biết được rằng MIT thích máy của người Nhật, chính phủ Hoa Kỳ liền can thiệp vào.

Quyền tổng thư ký của Commerce chính thức thông báo cho chủ tịch MIT rằng “ hàng hoá nhập

khẩu cần phải tuân theo thuế chống phá giá của quốc hội”. Mặc dầu có sự phủ định của bộ

thương mại về đe doạ của chính phủ, MIT hiểu rằng do những rào cản của Nhật không cho các

công ty siêu máy tính của Hoa Kỳ tham gia vào thị trường Nhật Bản nên chính phủ Hoa Kỳ cũng

không muốn mua siêu máy tính của Nhật.

MIT phản ứng lại việc chính phủ can thiệp vào bằng cách huỷ bỏ việc đặt hàng và tuyên

bố là họ cần xin ý kiến của quỹ liên bang về việc trung tâm nghiên cứu sẽ sử dụng siêu máy

tính của Hoa Kỳ.

Câu hỏi

Chính phủ Hoa Kỳ buộc MIT từ bỏ siêu máy tính của Nhật mặc dù giá thấp hơn có hợp lý không

? Nên nhớ rằng các dự án nghiên cứu cần tới sự trợ giúp của siêu máy tính là do chính quyền liên

bang tài trợ.

MIT phản ứng bằng việc bãi bỏ kế hoạch mua hàng có đúng không?



Trường hợp 4-3 : Quảng cáo đến chủ nghĩa phân biệt chủng tộc ở Nam Phi : Công ty Mỹ có nên

đầu tư vào Nam Phi không ?

Công ty trách nhiệm Hữu hạn Navazuni ( là một công ty miền Nam California mang tính

chất đại diện và là giả định ) cung cấp quần áo đắt tiền cho cả nam giới và nữ giới . quần áo có

thể được làm từ lông cừu được làm mềm và da dê non hay được đan từ loại len tốt nhất hoặc từ

lông dê . Sản phẩm của hộ rất nổi bật , đó là do việc sử dụng sự thay đổi kiểu cách của những

mẫu của bộ tộc người gốc Mỹ , Zuni và Navajo đã phát triển nó đầu tiên . Các mẫu đó , được

sản xuất bằng máy moc shoặc được làm bằng tay , đã chứng tỏ là được sử dụng rất rộng rãi với

người trẻ tuổi hợp thời ở các vùng đô thị , năm 1980 công ty bắt đầu cân nhắc việc mở rộng ra

nước ngoài .

Năm 1981 , các đơn đặt hàng về sản phẩm Của Navazuni nhận được không mấy hy vọng

từ nước cộng hoà ở Nam Phi , một quốc gia có người khởi xướng -tương tự như thế ở Tây Mỹ đã tạo nên lợi ích người tiêu dùng ở American Indián giữa cộng đồng da trắng Châu Âu . Số

lượng người da trắng lớn đến California như những du khách , nơi mà họ bị hấp dẫn bởi các

mẫu thiết kế Amer-Indián , các mẫu mà giống như những mẫu được người Bantu ở Nam Phi sử

dụng . Những yêu cầu ban đầu , một khi đã được đáp ứng , đã đưa đến bởi những đơn đặt hàng

lớn trong năm . Năm 1982 , số lượng tiếp tục được mở rộng , là nguyên nhân cho hội đồng quản

trị Navazuni cân nhắc việc thám hiểm thị trường Nam Phi .

Năm 1983,quan chức của lãnh sự quán Nam Phi đặt tại Los Angeles , đã thăm tổng giám

đốc công ty Navazuni . Ong hỏi , Liệu công ty sẵn sàng trong việc xây dựng công ty con sản xuất

thuộc sở hữu của mình hoàn toàn ở Nam Phi không ? Nơi xây dựng đó phải được xây dựng cùng

với khu công nghiệp trắng đã đựoc thành lập trước trên Kwazulu (Zululand) một trong những

nước thường đựơc gọi là Nam Phi hoặc những nước Nam Phi dân tộc tự do được chính phủ

thành lập cho những người Bantu.

Kwazulu, lãnh sự đã lý giải , là họi tụ hơn 2,1 triệu thành viên của tổ chức liên minh Zulu trước

đây : Nam Phi còn bao gồm cả 2,8 triệu cừu cà dê , vì thế một số thị trường thương mại đã tồn

tại . Tuy nhiên , một nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng chất lượng của loại tôt nhất của da dê ,

len sẽ đáp ứng tiêu chuẩn yêu cầu của Navazuni . Người Amazulu-được ghi nhận là thông minh

và cần cù -sẽ được sử dụng sức lao động .

Chính phủ Nam Mỹ còn dự tính cung cấp cho chuyên gia châu Âu . Công ty được đề cử

Navazuni sẽ là một trong các doanh nghiệp tương tự đang mở rộng khong ngừng - những doanh

nghiệp vừa và nhỏ , dự định vây quanh hoàn toàn Kwazulu Homeland vào năm 1999, vì vậy công

dân của họ được tuyển dụng . Do đó , trong mỗi giai đoạn hoạt động của Navazuni, từ công

trình đầu tiên đến những công trình đang hoạt động , chính phủ nên cung cấp những trợ giúp về

việc tổ chức , đào tạo , và quản lý lao dộng . Đặc biệt là trợ giúp trong việc tuyển fụng loại



công nhân được yêu cầu , từ Kwazulu. Những người công nhân được chọn có thể được phương

tiện vận tải công cộng được bao cấp đưa tới nơi làm việc mỗi sáng . Vào cuối ngày làm , chính

phủ sẽ đưa trở lại chỗ cho riêng họ ở .

Về plhần Navazuni có thể yêu cầu trả tiền lương ở mức mà công ty thấy thấp hơn một

cách hợp lý so với mức của những người công nhân Mỹ ( một điều tra 1979 của các công ty Mỹ

đã đầu tư vào Nam Mỹ chỉ ra rằng 95%công nhân Bantu được trả khoảng $192 và $238 mỗi

tháng ) . Hơn nữa , công ty còn hy vọng cung cấp thuốc tại xưởng cho việc điều trị những vết

thương nghề nghiệp . Tuy nhiên , không cần thiết phải trả bất cứ lợi ích người công nhân theo

tập quán Mỹ , nếu như người Nam Mỹ da trắng chưa được thuê .

Lãnh sự còn nói ngắn gọn về thị trường nội địa của Nam Mxy . Năm 1980, người da trắng ở

Nam Phi dưới 5 triệu người , sống tập trung ở 3 thành phố của các vùng Dủban ( gần với

Kwazulu ) . Johonnesburg và Cape Town . Hai nghìn năm trước công nghuyên , giả định tỷ lệ tăng

dân số tiếp tục tăng , thì số dân thời kỳ này vẫn tăng gấp đôi , đặc biệt là nếu tính cả người

nhập cư từ Anh và Tây âu . Người nhập cư hiện tại vẫn giữ ổn định 300.000 người mỗi năm ,

người từ Bỉ , Hà Lan , Đức , Phần Lan , Pháp , cũng như từ Anh và Ailen .

Những công nhân da trắng ở Nam Phi được tuyển dụgn hết . Mức sống của họ cao hơn

ở châu Phi ,ngang bằng hoặc cao hơn những người ở một số vùng của của Mỹ , sự giàu có này

đã tạo ra hai sở thích về những vật phẩm xa xỉ (như quần áo ) và những xu hướng thời trang

hiện đại ở châu Âu và Hao Kỳ . Sự giàu có này , xét cả phạm vi sở thích của người da trắng ở

cao bồi Mỹ và người ấn ( có lẽ do được kích thích bởi phim ảnh của người Mỹ )đưa đến thị

trường tiềm năng cho những sản phẩm của Navazuni.

Lãnh sự còn cho rằng thị trường nội địa Bantu đã chứng minh sự thăm dò này .Năm 1960, số

người giảm xuống trong khi toàn châu Phi tính cả Nam Phi là 11 triệu người , với tỷ lệ tăng dân

số dự tính 2,53%. Năm 1980, số người đạt tới 20 triệu người , với tỷ lệ tăng 3%. Năm 2000,các

nhà nhân khẩu học dự tính dân số của Bantu 37 triệu người , năm 2020 62 triệu người .

Trái với suy nghĩ của mọi người , những người này bị bần cùng hoá và đói ăn như những nơi ở

vùng châu Phi nhiệt đới . Vào những năm 1960 , hầu hết người Bantu làm nông nghiệp và ở mỗi

thủ đô thu nhập bình quân thường là 128 đôla . Tuy nhiên suốt những năm 1970 , tăng trình độ kỹ

thuật của một số ngành , đặc biệt là ngành chế tạo , phat sinh ra cầu về những thợ chuyên môn

và không chuyên . Những người không kể da trắng , người châu á hay người da mầu (những

người là kết quả của sự pha trộn các chủng tộc ) có thể được tuyển . Kết quả là các ngành nghề

bắt đầu tuyển dụng lượng lớn người Bantu để làm kiểm toán , lái xe , giám sát viên ở vị trí

thấp , và cũng như làm ở Navazuni -người vận hành máy móc phức tạp . Ví dụ , giữa những năm

1969 và 1972,lượng người làm việc chuyên môn tăng 175% , Những nơi mà người công nhân



công nghiệp kiếm được gấp từ 3 đến 20 lần thu nhậpcủa công nhân ở Sierra Leone,

Zambia,Zảie và một số nơi khác ở châu Phi đen .

Lãnh sứ đề cập rằng , một số công ty khac của Mỹ đã kiếm lời từ thời tiết ưu đãi của Nam Phi .

Ví dụ , năm 1977 , đầu tư trực tiếp của Mỹ đạt 1,8 tỷ đôla; 17% tổng đầu tư nước ngoài vào

quốc gia đó .100 công ty đứng đàu của Mỹ , không ít hơn 55 công ty có đầu tư ở Nam Phi vào

năm đó , bao gồm cả tập đoàn khổng lồ như ITT, General Electric,General Motors, Caterpillar,

Goodyear và Ford.

Lãnh dự tin rằng , lý do cho xu hướng này là do sự cương quyết của chính phủ về việc

loại bỏ những hạn chế không phù hợp trong việc điều hành thương mại của Mỹ . Một số công

ty thử cơ hội thương mại ở các nước thứ ba , Navazuni có thể phải bị bắt buộc thành lập dưới

dạng liên hợp , hoặc cùng với nhà nước hoặc với tư nhân . Những yêu cầu về việc cấp giấy

phép và thếu khoá đơn giản .An ninh được đảm bảo bởi 40.000 người trong lực lượng cảnh sát

Nam Phi , trong khi an ninh quốc gia được bảo vệ bởi 494.000 người , công nghệ phòng thủ

hàng tỉ đola có thể cung cấp quân trang ( vũ khí ) với chất lượng như nhau cho mọi người trên

thế giới .

Ông kết luận rằng , hơn nữa chính phủ phải được chuẩn bị để xem xét khả năng cung cấp

những khích lệ hơn nữa , có thể dưới hình thức trợ cấp có chọn lọc hoặc những tiền thưởng

thực tế trong suốt giai đoạn đầu của hoạt động .

Ông giải thích , lý do cho những chính sách này là để phục vụ cho lợi ích lâu dài về kinh

tế và thương mại của cả hai bên Nam Phi và Hoa Kỳ “Chúng tôi hy vọng rằng công ty của bạn và các công ty khác giống các bạn -sẽ trở nên giàu có và mở rộng quy mô trong những thập kỷ

tới , và đem lại thu nhập có lợi cho số lượng người thậm chí còn đông hơn nữa ở Bantu . Đến

năm 2000, chúng tôi dự tính khoanh vùng hoàn toàn mỗi vùng của 11 vùng da đen bằng một vòng

tròn các ngành nghề quy mô vừa và nhỏ của châu Âu , có thể đem đến công việc có lợi cho mọi

người kể cả người Bantu . Ước vọng của chúng tôi là tạo tầng lớp người lao động giàu có ở

Bantu , có thể cung cấp hàng hóa và dịch vụ cần thiết cho cả người da trắng lẫn da đen ở Nam

Phi . Chúng tôi sống riêng rẽ , nhưng lại làm việc cùng với nhau để duy trì vị trí đứng đầu của

chúng tôi ở châu Phi . Chúng tôi mời các bạn hãy cùng tham gia .

Ban giám đốc của Navazuni đã họp để nghiên cứu lời đề nghị . Cùng lúc đó , bộ tộc

Public Affairs của Nam Phi , một bộ phận của lãnh sự quán của Los Angeles , đã đưa ra câu

truyện chính trên tờ nhật báo Los Angeles Times để miêu tả kế hoạch của Navazuni như là ví dụ

cho hợp tác Nam Phi -Mỹ đầy triển vọng trong việc mang đến công ăn việc làm cho những

người châu Phi đen.

Hai ngày sau đó , tổng giám đốc công ty tiếp đón một đoàn đại biểu nổi tiếng của afro-mỹ gồm

bộ trưởng , các luật gia và những nhà giáo dục . Đoàn đại biểu yêu cầu công ty bỏ kế hoạch đó ,



khi mà nó được hình thành trên sự bóc lột về kinh tế của những người da đen , điều đó đã bị phủ

nhận mọi quyền công nhân và quyền về chính trị .

Đoàn đại biểu còn nhắc và yêu cầu Navazuni phải tôn trọng triệt để nguyên tắc Sullivan.

Nguyên tắc được đưa ra bởi đức ông Leon Sullivan người Philadelphia , đạo luật này nhấn

mạnh sự cần thiết về việc đối xử bình đẳng , thân thiện đối với người da đen và những người

không phải da trắng , và ủng hộ việc tuyển lựa những người da đen và không phải người da

trắng vào các vị trí quản lý và giám sát . Những nguyên tắc này đã được ủng hộ nhiệt liệt và

được chấp nhận như là những chính sách hoạt động bởi công ty đa quốc gia cũng như một số

công ty Mỹ đang họat động ở Nam Phi . Do đó , Navazuni phải cân nhắc thận trọng những

nguyên tắc này .

Bảng 1.Nguyên tắc Sullivan

I. Không phân biệt chủng tộc về những điều kiện ăn , tiện nghi vật chất và việc làm .

II Công bằng bác ái về việc tuyển dụng công nhân .

III Trả lương công bằng cho công nhân đang làm công việc giống nhau hoặc tương tự nhau ,

trong cùng khoảng thời gian như nhau .

IV Bắt đầu và phát triển những chương trình đào tạo để có thể cho những người da đen và

những người không phải da trắng vào những công việc giám sát , công việc hành chính , văn

phòng và công việc kỹ thuật cao .

V Tăng số người da đen và người không phải là da trắng trên các vị trí quản trị và giám sát .

VI Cải thiện chất lượng cuộc sống của công nhân sống ngoài môi trường làm việc ở những lĩnh

vực như các điều kiện về nhà ở , phương tiện đi lại , học hành , tái sản xuất và sức khoẻ .

Nguồn: Stratford P.Sherman “Điểm cho cách quản lý công ty ở Nam Phi “ 9/7/1984

Câu hỏi

1. Công ty Navazuni nên bỏ hay tiếp tục khai thác thị trường Nam Phi ? Tại sao ?

2.Liệu có sự lựa chọn nào xảy ra mà có thể thoả mãn cả hai phía không?

3. Các công ty Mỹ có nên đầu tư vào những quốc gia mà người Mỹ phản đối không ?



Khi hợp đồng vượt qua khỏi biên giới quốc gia , chúng có thể khác đi cả về hình thức cũng như

về ngôn ngữ .

Henry P.deVries

Môi trường luật pháp

Mục lục

Các hệ thống luật

Dạng khác nhau của các môi trường luật pháp

Luật và Mảketing hỗn hợp

Cưỡng chế

Những kẽ hở và thủ đoạn

Luật Mỹ hạn chế xuất khẩu

Nạn ăn hối lộ

Quyền xét xử và quyền quản lý

Thể thức hợp pháp của tổ chức

Chi nhánh và công ty con

Sáng chế , thương hiệu , bản quyền và xâm phạm bản quyền

Việc làm giả

Thị trường ảm đạm

5. Môi trường pháp lí

Minh hoạ Marketing : Cánh tay dài của luật pháp

Sở thích (thị hiếu ) người tiêu dùng Mỹ đã kích thích cả việc nhập khẩu cả những sản

phẩm làm từ thú hoang dã hợp pháp lẫn bất hợp pháp . Sản phẩm nhập khẩu bất hợp pháp là

những sản phẩm được chế biến từ những loài có nguy cơ tuyệt chủng hoặc những sản phẩm

đưa vào với những chứng từ không chính xác về xuất xứ . Vào giữa những năm 1980 , sản phẩm

động vật hoang dã bất hợp pháp chiếm khoảng 30% sản phẩm động vật hoang dã nhập khẩu .

Những điều luật của liên bang cấm tất cả ngà voi từ ASIAN và cho phép các quan chức bắt tay

cầm ô làm bằng chân voi , cốc bia làm bằng da voi , túi xách làm từ da cá sấu và da trăn nhập

khẩu . Nhà bán lẻ nổi tiếng Scotne , vừa bị phạt vì vi phạm luật nhập khẩu với khoản tiền phạt

lớn và bị tịch thu hàng . Joan và David Halpern cũng bị phạt 15.000 đôla và buộc phải bỏ 1.300

đôi giày trị giá 106.000 đôla bởi vì những đôi giày này làm từ những loài trăn được bảo vệ.



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (598 trang)

×