Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.09 MB, 598 trang )
Chiến lược Marketing
Đối với những ngành công nghiệp Mỹ ở giai đoạn mà sản phẩm bị bắt chước trên phạm vi rộng
(e.g ô tô) hay ở giai đoạn chín muồi ( e.g máy tính), mọi việc dường như là xấu đi nhiều hơn là
tốt lên. Mặc dù vậy, viễn cảnh này có thể được tác động theo hướng thuận lợi. Điều cấp thiết
đối với các doanh nghiệp Mỹ là hiểu sự liên quan của IPLS để họ có thể điều chỉnh chiến lược
Marketing theo.
Chính sách sản phẩm: Lý thuyết IPLC nhấn mạnh đến tầm quan trọng của chi phí. Thật là khó
để làm cho chi phí lao động ở mức thấp trên toàn nước Mỹ nếu chi phí tương tự ở Nhật Bản chỉ
là 8 cents một phút, 2 cents ở Hàn Quốc và 5 cents ở Trung Quốc. Mặc dù vậy, các doanh nghiệp
tân tiến cần phải giữ cho chi phi sản xuất ở mức cạnh tranh. Một cách làm là giảm chi phí lao
động thông qua tự động hoá và người máy.
IBM đã chuyển xưởng Lexington của mình
(Kentucky) thành một trong những xưởng tự động hoá cao nhất trên thế giới. Cũng như vậy,
các nhà sản xuất VCR người Nhật đang tính đến việc tự động hoá để giúp họ tháo gỡ những
khó khăn ở Hàn quốc.
Một cách khác để giảm chi phí sản xuất là loại bỏ những lựa chọn không cần thiết nếu sự lựa
chọn đó làm tăng tính không hiệu quả và sự phức tạp. Chiến lược này có thể là cấp thiết đối
với những sản phẩm đơn giản hay những sản phẩm ở giai đoạn cuối của chu kì giá cả, trong
những trường hợp đó, cần thiết phải đưa ra một sản phẩm được tiêu chuẩn hoá với một bao bì
riêng hay options included. Đó là những gì mà dự án Chrysier- Liberty cần có để thành công thông
qua “ decomplexing”.
Để giữ chi phí tăng ở mức tối thiểu, một doanh nghiệp Mỹ có thể sử dụng các nhà máy của địa
phương ở các quốc gia khác như là một chiến lược thâm nhập. Công ty này không chỉ có thể
giảm tối thiểu chi phí chuyển giao và vượt qua các rào cản thương mại mà còn có thể gián tiếp
cản trở các đối thủ cạnh tranh tiềm năng ở địa phương đó thông qua những điều kiện sản xuất
thuận lợi. Một món lợi khác nữa đó là những quốc gia này cuối cùng có thể trở thành động lực
cho các công ty Mỹ buôn bán các sản phẩm của mình trên vùng địa lý đó. Thực tế là, trước hết
nên cho phép các công ty Mỹ giữ chi phí lao động ở mức thấp , cũng như giữ vững các thị trường
gốc. Lấy vd, công ty sản xuất thiết bị Texas sản xuất tất cả sản phẩm chíp 64k của mình ở
Nhật Bản để xuất khẩu. Hãng Ford thành lập chi nhánh Ford Tracer ở Đài Loan để xuất khẩu
sản phẩm cho thị trường Canada, ở Mexico cho thị trường Mỹ. Cả hãng General Motors của
Canada và hãng Suzuki đều đã xây dựng xưởng sản xuất ở Canada với mục đích là sản xuất ô tô
được miễn thuế khi vận chuyển bằng đường biển sang thị trường Mỹ. Cũng tương tự, những
bộ phận máy stereo bán ở Mỹ được sản xuất tại Nhật, Đài Loan, và Hàn Quốc.
Các nhà sản xuất nên nghiên cứu cấu trúc ngành dọc truyền thống, theo đó họ có thể sản xuất
tất cả hoặc hầu hết các bộ phận của sản phẩm. , bởi vì trong rất nhiều trường hợp,
outsourcing- việc sử dụng các nguồn lực bên ngoài đã chứng tỏ là có hiệu quả . Outrourcing là
thực tế của quá trình mua một phần hay toàn bộ sản phẩm của một hãng sản xuất khác trong khi
khách hàng vẫn coi đó là sản phẩm của hãng mình sản xuất. Lấy vd, xe Ford Festiva được sản
xuất bởi Dia Motors., xe Mitsubishi được sản xuất bởi Hyundai, xe pontiac Lemans bởi Daewoo,
và GM Sprint bởi Suzuki.
Sự biến đổi của nguồn lực bên ngoài liên quan đến việc sản xuất những bộ phận đa dạng của
sản phẩm hay having them được sản xuất theo hợp đồng với các quốc gia khác. …………….
(Mờ quá ) . Chỉ có chất bán dẫn, hộp và bộ phận lắp ráp cuối cùng được thực hiện ở Mỹ, các
doanh nghiệp Mỹ cần lợi dụng chiến lược này nhiều hơn nữa.
Trong giai đoạn chín muồi, lợi thế so sánh tương đối của những doanh nghiệp đổi mới sẽ đến
và doanh nghiệp này nên chuyển từ việc sản xuất các mẫu đơn giản sang việc sản xuất những
mẫu tinh vi hoặc sử dụng công nghệ mới để thoát khỏi sự cạnh tranh khốc liệt. Nhà sản xuất
VCR của Nhật Bản là người cung cấp 99% loại máy này trên thị trường Mỹ và chiếm 75% thị
phần thế giới nhưng tập đoàn này cũng không thể cạnh tranh về giá với Hàn Quốc, quốc gia
mới nổi có mức lương thấp, bởi lượng lao động ở VCKs rất lớn. Để duy trì được thị phần,
doanh nghiệp này đã phải sử dụng những công nghệ mới, như máy video xách tay có kèm bộ
phận ghi hình 8mm.
Rắc rối của Froder và Gamble ở Nhật Bản là do tập đoàn này đã để mất vị thế dẫn đầu về công
nghệ. Sau khi đơn phương độc mã tạo ra thị trường tã lót sử dụng một lần ở Nhật vào năm
1977, công ty này đã tự bằng lòng và cố lờ đi sự thật là nhãn hiệu sản phẩm Pamper của mình
chẳng là gì cả ngoài một sản phẩm đơn giản. Ngay sau đó, các đối thủ cạnh tranh khác của
Nhật đã sản xuất những sản phẩm tốt hơn. Công ty Uni-Cham đã học tập người Châu Âu và
người Mỹ ở cách tìm hiểu thói quen khách hàng và thăm dò ý kiến 300 bà mẹ Nhật 3 lần cho
mỗi loại tã lót nước ngoài. Sự đáp lại đã chỉ dẫn cho công ty này thêm vào leg gatherings và
réuable adhesive closures để định hình lại những chiếc tã lót cho tiện lợi hơn và để giới thiệu
loại tã lót có lỗ chân không bền thoáng. Sản phẩm của Uni-Cham được tạo thành từ liên kết
polyme có độ thấm hút cao, được làm ẩm và giữ trong tình trạng đặc quánh đã trở nên quá phổ
biến đến nổi mà công ty này đã chiếm hơn phân nửa thị trường. Tuy nhiên, Procter và Gamble
đã không giới thiệu sản phẩm polyme Pamper cho đến năm 1985 và nhận thấy thị phần của
mình tụt từ 90% xuống còn 15% trong thời gian đó.Giá cả cạnh tranh là một vấn để khác làm
cho tình trạng của Procter và Gamble trở nên tồi tệ hơn. Uni- charm đã đưa ra một loại tã lót làm
từ polyme rẻ hơn cho những bà mẹ tằn tiện. Và một đối thủ cạnh tranh khác là hãng Kao đã giới
thiệu sản phẩm Q-size rẻ hơn nữa cho các vườn trẻ và các sản phẩm loại 2 khác mà chi phí ít
hơn 18%.
Với những sản phẩm có hàm lượng kỹ thuật, một doanh nghiệp cải tiến có thể thấy rằng điều
đó có lợi để đưa hệ thống sản phẩm của mình trở thành tiêu chuẩn ngành, thậm chí nó còn là
phương tiện để giúp cho các đối thủ cạnh tranh thông qua giấy phép về product knowledge. Bên
cạnh đó, luôn luôn có một nguy hiểm là các đối thủ cạnh tranh sẽ kiên trì sáng tạo ra những hệ
thống sản phẩm cạnh tranh và cao cấp hơn. ít nhất thì một hệ thống mới sẽ gây bối rối cho
khách hàng, còn tồi tệ nhất thì thậm chí nó có thể chiếm chỗ hoàn toàn sản phẩm của doanh
nghiệp cải tiến đó để trở thành tiêu chuẩn ngành. Một ví dụ điển hình là trường hợp của Sony,
họ đã phạm phải những sai lầm mang tính chiến lược trong việc bảo vệ dòng sản phẩm
Betamax. Matsushita và Victor Co. đã chiếm vị trí hàng đầu của Sony vì họ cho phép những đối
thủ của mình sử dụng tự do những bí quyết kỹ thuật về VHS (Video Home System). Philips và
Grundig cũng không hề giới thiệu với công chúng vệ hệ thống Video 2000 của mình cho tới tận
khi VHS, được sử dụng trong hai phần ba các VCR trên thế giới, gần như đã trở thành tiêu
chuẩn của châu Âu và thế giới. Đến lúc này thì kể cả việc giảm giá, Video 2000 cũng chẳng
thể thu hút được các nhà sản xuất cũng như những người tiêu dùng nữa. Tệ hơn nữa là chi
nhánh Bắc Mỹ của Philips từ chối mua bằng sáng chế này, và do đó, chính Sony phải tự bắt đầu
sản xuất máy VHS, kể từ năm 1988.
Chính sách định giá Ban đầu, một doanh nghiệp có sáng chế mới sẽ cố gắng để có thể hoạt
động như một nhà độc quyền, đặt ra một mức giá cao hơn bình thường để trả cho tính mới trong
sáng chế của mình. Nhưng sau đó, trong giai đoạn hai và ba của IPLC nó sẽ phải giảm giá để
ngăn chặn những doanh nghiệp mới muốn gia nhập ngành và giữ thị phần. Dự đoán có thể sẽ
có sự cạnh tranh từ phía các doanh nghiệp mới của Hàn Quốc, các doanh nghiệp Nhật bản đã
giảm giá sản phẩm của mình trên thị trường Bắc Mỹ tới 25%, từ đó khiến các nhà bán lẻ và
người tiêu dùng ở đây chậm tiếp nhận dòng sản phẩm mới đến từ Hàn Quốc. Để so sánh ta có
thể xem xét trường hợp của IBM. Giá PC sản xuất bởi IBM hầu như không giảm, đây là một
sai lầm của IBM khi họ cho rằng sản phẩm của mình là quá phức tạp đối với trình độ bắt
chước của các doanh nghiệp Châu á. Đây quả là một sai lầm dẫn tới nhiều tổn thất vì đặc tính
kỹ thuật của PC hầu như không thay đổi trong một thời gian dài. Chẳng bao lâu, PC chỉ còn đơn
giản là những bản copy, rất thích hợp cho việc phân phối rộng rãi với số lượng lớn, một việc
làm rất thích hợp cho các nhà bắt chước đại tài của châu á.
Chính sách promotion promotion và định giá trong IPLC có liên quan chặt chẽ với nhau.
Bằng danh tiếng về chất lượng và uy tín của mình, một doanh nghiệp có thể đưa ra thị trường
những sản phẩm mới được sáng chế với giá cao, rồi sau đó họ sẽ tung ra thị trường những
version mới của các sản phẩm đó với giá rẻ hơn, trong khi vẫn giữ nguyên mức giá cao của
version cũ nhằm tìm kiếm siêu lợi nhuận. Song bên cạnh đó, một điều mà không doanh nghiệp
nào nên làm là để cho giá cả trở thành yếu tố duy nhất tác động tới người tiêu dùng những sản
phẩm của họ……..(Mờ quá)
Chính sách phân phối Một hệ thống bán buôn mạnh sẽ có thể giúp các doanh nghiệp có
sáng chế mới trong việc phân phối sản phẩm và bảo vệ vị trí độc quyền của nó trong một thời
gian. Vì ban đầu, vị trí của doanh nghiệp này trên thị trường gần như là độc quyền nên nó được
quyền tự do lựa chọn nhà phân phối, và hệ thống phân phối của nhà phân phối này cũng sẽ
được mở rộng ra nhiều khi sản phẩm mới này trở nên phổ dụng.
Sự liên quan của chính sách quản lý
Vì không một quốc gia nào hay một doanh nghiệp nào có thể giữ được lâu dài địa vị độc
quyền về sản phẩm hay quy trình sản xuất của mình, các doanh nghiệp cần phải nhận thức rõ
các giai đoạn IPLC. Sức mạnh chủ yếu của các doanh nghiệp Nhật và Mỹ chính là tính hiệu
quả trong việc sản xuất và phân phối các sản phẩm hàng hoá. Sức mạnh này sẽ hỗ trợ khả
năng cạnh tranh về giá , lượng và phân phối. Đây chính là nguyên nhân làm cho máy in của Nhật
có thể xâm nhập vào thị trường Mỹ. Những máy in này rất đáng tin cậy nhưng không có một
đặc tính riêng biệt nào và được sản xuất hàng loạt trên dây chuyền tự động. Và chẳng bao lâu,
sau khi máy in đứng vững trên thị trường, máy vi tính sẽ có thể nỗi bước theo sau.
Khi một sản phẩm đã ở giai đoạn cuối trong vòng đời của mình, doanh nghiệp sản xuất
ra sản phẩm đó sẽ cố gắng bằng mọi cách tận dụng các phân đoạn thị trường để tiêu thụ tối đa
số sản phẩm có thể mà tại những nơi đó bằng những cố gắng của mình họ có thể có được
những đặc điểm ưu việt hơn các nhà sản xuất khác, từ đó tạo ra danh tiếng làm tiền đề cho các
dòng sản phẩm tiếp theo. Nhiều doanh nghiệp nhận thức rất nhanh những dấu hiệu báo trước
giai đoạn này và áp dụng đúng chiến thuật thích hợp. Một dấu hiệu dễ thấy là khi sản phẩm đã
trở nên phổ dụng và có nhiều nhà sản xuất có thể sản xuất sản phẩm đó. Một dấu hiệu khác là
khi kim ngạch xuất khẩu mặt hàng đó chững lại. Lúc này việc doanh nghiệp nên làm nhất là
phân đoạn thị trường và tận dụng các phân đoạn đó. Một biện pháp khác có thể giúp doanh
nghiệp là hãy tạo ra các sản phẩm được cải tiến hơn so với dòng sản phẩm cũ, từ đó khiến cho
hoạt động sản xuất các sản phẩm tương tự của các doanh nghiệp đi sau trở nên mạo hiểm vì đó
đã là dòng sản phẩm hoàn toàn lỗi thời.
Sự khác nhau giữa tiêu chuẩn hoá và thích nghi hoá sản phẩm.
Để hỗ trợ việc mua máy tính cho một công ty nước ngoài, các chuyên viên thương mại
của phòng giao dịch quốc tế trực thuộc bộ thương mại Mĩ sẽ liên hệ với đại diện của nhà phân
phối tại nước ngoài của hãng máy tính Apple. Đoạn hội thoại sau đây cho thấy điều đó :
“ Các ngài là đại diện của hãng Apple ? ”
“ Đúng thế ”
“ Các ông có thay đổi gì với máy tính của mình khi bán ra nước ngoài không ? ”
“ Không. Các hãng ở nước ngoài sẽ phải mua máy y hệt như ở đây vậy ”
“ Vậy thì sau đó làm thế nào mà các ôngcó thể bán cho nước ngoài được ?, trong khi các
hãng của Nhật muốn bán máy ở đây họ đều có những thay đổi trong máy tính của mình. Như
vậy tại sao các hãng nước ngoài lại mua máy tính của các ông khi nó không dùng được ở nước
mình ? ”
“ Đúng thế, nhưng ít nhất thì họ cũng có được nhãn hiệu Apple trên sản phẩm của mình
”
“ Thật là rồ dại ”
Đoạn hội thoại này đã lí giải cho một vấn đề còn đang gây nhiều tranh cãi trong
marketing quốc tế đó là tiêu chuẩn hoá hay là thích nghi hoá. ở Mĩ, có một xu hướng chung giữa
các hãng là thích phân phối sản phẩm đã tiêu chuẩn hoá hơn. Tiêu chuẩn hoá sản phẩm nghĩa là
được thiết kế ngay từ đầu để xuất khẩu mà hầu như sẽ không có sự thay đổi nào ngoại trừ
những từ ngữ phiên dịch và những thay đổi hình thức khác. Ví dụ như Revlon, thường chuyên
chở hàng hoá ra nước ngoài mà không có thay đổi gì trong việc đóng gói sản phẩm và quảng cáo.
Có những ưu điểm và nhược điểm trong cả tiêu chuẩn hoá lẫn cá biệt hoá.
Đối với phe ủng hộ việc tiêu chuẩn hoá.
Điểm mạnh của việc tiêu chuẩn hoá sản phẩm và phân phối sản phẩm là sự đơn giản và
chi phí của nó. Quá trình xử lí thông tin để hiểu và ứng dụng là rất đơn giản, và chi phí cũng
không tốn kém lắm. Nếu chi phí là vấn đề duy nhất cần được xem xét, thì tiêu chuẩn hoá là sự
lựa chọn hợp lí bởi tính kinh tế của qui mô hoạt động nhằm giảm chi phí. Giảm tối đa chi phí
không phải là công cụ cần thiết để tăng lợi nhuận. Đơn giản không phải lúc nào cũng đem lại
lợi nhuận, và chi phí thường phản ánh đúng lợi nhuận. Giảm chi phí sẽ không tự động dẫn tới
tăng lợi nhuận mà trên thực tế, điều ngược lại mới đúng. Bằng cách cố gắng làm chủ được chi
phí thông qua tiêu chuẩn hoá, sản phẩm liên quan có thể sẽ không phù hợp với thị trường đã
được chọn lựa. Điều này có thể làm cho cầu ở nước ngoài sẽ giảm dẫn tới giảm lợi nhuận.
Trong một vài tình huống, nắm được chi phí nhưng không phải sẽ làm tăng được lợi nhuận. Vì
vậy, phải nhớ cho rằng chi phí không phải là nhân tố quan trọng nhất. Mục tiêu chính của