1. Trang chủ >
  2. Giáo Dục - Đào Tạo >
  3. Cao đẳng - Đại học >

Thuế quan và chi phí phân phối

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.09 MB, 598 trang )


ng ạ c nhiên về vi ệ c GM ti ế t ki ệ m đ ược m ộ t kho ả n tăng giá l ớn vào cu ối năm để d ễ dàng

đ ặ t m ứ c giá cao cho các m ẫ u hàng m ới s ắp đ ược gi ới thi ệu

Tác đ ộ ng c ủ a giá có th ể b ị che đậ y và giả m rấ t nhi ề u do các đi ề u ki ệ n v ề tài chính hay

tín d ụ ng. Airbus, m ột t ậ p đoàn đ ộc quyề n l ắ p c ủ a Châu Âu thu ộc s ở h ữ u c ủ a 4 Công ty

t ừ Pháp, Tây Đ ứ c , Anh và Tây Ban Nha l ắ p ráp và bán máy bay nh ư m ột s ự l ựa ch ọn cho

nh ữ ng ng ườ i chuyên ch ở không thích dùng máy bay c ủ a Mỹ . V ớ i tham v ọ ng xâm nh ậ p

vào th ị tr ường M ỹ , t ậ p đoàn này đã cung c ấ p tài chính tr ợ c ấp xu ất kh ẩu tr ị giá trên 100

nghìn USD cho Eastern Airline. Đ ối v ớ i Boeing, t ậ p đoàn đã tham d ự vào v ấ n đ ề tài chính

dành cho xuấ t khẩ u (predatory) ch ỉ để đ ạ t đ ược doanh thu cao. Frank Borman, th ống đ ốc

c ủ a Mi ề n Đông, đã nhậ n th ấ y đó là 1........................ đ ến m ức ông đã bình lu ận "N ếu b ạn

không hôn lá c ờ Pháp b ấ t c ứ khi nào b ạn th ấy nó, thì ít nh ất cũng nên chào nó".

Các khoản chiết khấu (tiền mặt, số lượng,...) có thể được sử dụng để gián tiếp điều chỉnh

giá cả . Những khách hàng lớn đều có thể yêu cầu khoản chiết khấu lớn hơn nếu điều đó được

thừa nhận một cách hợp pháp. Mặc dù một khoản chiết khấu số lượng có thể tạo ra động cơ

thúc đẩy những nhà phân phối làm việc cần mẫn hơn, nhưng nó cũng thường tạo nên sự phân

biệt đối xử đối với những người buôn bán trung gian nhỏ hơn. Ricoh, với kết luận rằng đó

không phải là một phương pháp đáng tin cậy để cạnh tranh về giá, đã quyết định bác bỏ việc

định giá theo nhiều mức thưởng cho các nhà phân phối có những đơn đặt hàng lớn. Ricoh chỉ sử

dụng những mức giá ở mặt bằng chung, và những nhà phân phối nhỏ sẽ trả mức giá tương

đương với những nhà phân phối lớn.

Một phương thức khác đã được dùng để điều tiết những tác động của giá cả là bán sản

phẩm trọn gói hay từng phần . Giá cả phản ánh tính trọn gói hay từng phần của sản phẩm.

S ả n ph ẩ m tr ọ n gói th ườ ng có 3 mụ c đích: tăng giá tr ị , duy trì m ứ c đ ộ tăng chi phí ít, và

tăng giá ít ho ặ c không tăng cho ph ầ n giá tr ị tăng thêm. Đây chính là chi ến l ược đã đ ược áp

d ụ ng b ởi các nhà s ản xuấ t xe h ơi c ủ a Nhậ t B ả n - nh ững ng ười đã tăng giá c ơ b ản s ản

ph ẩ m xe h ơi c ủ a h ọ ch ỉ đ ủ đ ể trang tr ả i nh ữ ng chi phí th ực t ế. Ng ười Nh ật cũng bán xe

h ơ i ở M ỹ v ớ i nhi ề u thi ế t b ị đ ược tiêu chu ẩ n hoá và ít s ự l ựa ch ọn h ơn, chi ến l ược này

r ấ t có ý nghĩa b ởi s ản phẩ m xe h ơi c ủ a h ọ ph ả i đ ược chuyên ch ở t ừ nh ững nhà máy ở

n ướ c ngoài, và b ấ t c ứ nh ữ ng đ ơn đ ặ t hàng nào cũng đ ược dùng đ ể trì hoãn vi ệ c s ả n xu ấ t

và chuyên ch ở. H ơn n ữ a, giá đã tính bao g ồm tr ọn gói nh ững thi ết b ị tiêu chu ẩn và đ ại

di ệ n cho m ột giá tr ị cao đ ối v ới ng ười mua. Hình 16 -1 đã đ ưa ra s ản ph ẩm tr ọn gói c ủa

Nissan.

Detroit đi theo con đường ngược lại. Nếu nhà sản xuất xe hơi của Mỹ duy trì mức giá thấp

bằng cách đưa ra một mức giá cơ sở cho một sản phẩm cơ bản. Bất cứ thiết bị khác nào đều là

tuỳ chọn và tại cùng một mức chi phí tăng thêm. Các nhà sản xuất xe hơi của Mỹ nhờ đó đã đưa



ra một chiếc xe hơi với hàng trăm sự lựa chọn. Bằng việc cho phép một người mua lựa chọn

bất kỳ sự kết hợp thiết bị nào tại mức chi phí tặng thêm cho mỗi sự lựa chọn, một chiếc xe hơi

Mỹ với đầy đủ trang thiết bị có thể trở nên thực sự đắt, kể từ khi Detroit tính giá và tìm kiếm

để tạo nên lợi nhuận từ mỗi khoản tăng thêm trong việc kết hợp các sự lựachọn. Ford bắt đầu

thử nghiệm với việc tiếp cận sản phẩm trọn gói bằng cách tạo ra 3 mức sản phẩm trọn gói sẵn

có , mỗi mức bao gồm nhiều mục như trang thiết bị tiêu chuẩn. Sự tiếp cận này đem lại một số

lợi ích. Nó đơn giản hoá hệ thống sản xuất và lắp ráp trong khi cắt giảm chi phí và tăng nhanh

tốc độ vận chuyển. Không ...................................

V ớ i ít s ự k ế t h ợp sẵ n có h ơn, vi ệ c ki ểm soát ch ấ t l ượng cũng c ầ n đ ược c ải ti ến. Tuy

nhiên, ph ương pháp này cũng đem l ạ i m ột hình ả nh rõ ràng h ơn trên th ị tr ường cho nhãn

hi ệ u đó.

Nova , m ột s ản ph ẩ m xe h ơi liên doanh gi ữa GM và Toyota đã đ ơn gi ả n hoá r ất nhi ều

nh ữ ng quy ế t đ ị nh c ủ a ng ườ i mua bằ ng việ c tạ o 6 mứ c s ẵ n có khác nhau , mỗ i mứ c bao

g ồ m m ộ t b ộ c ụ th ể các h ạ ng m ụ c thi ế t b ị tiêu chu ẩ n . ở khía c ạ nh này, ng ười mua có th ể

có đ ượ c m ột chi ế c xe h ơi r ấ t g ầ n v ới chi ế c xe theo đ ơn đặ t hàng c ủa Nh ậ t mà không c ầ n

tho ả mãn, trên nh ữ ng h ạ ng m ục trang thi ết b ị tiêu chu ẩ n.

Không th ể nói rằ ng m ột chi ến l ược tr ọn gói luôn luôn ưu vi ệt h ơn hay kém ưu vi ệt h ơn,

m ộ t chi ế n l ược t ừ ng ph ầ n. Chi ế n l ược tr ọn gói đem l ại cho ng ười mua nhi ều s ản ph ẩm

h ơ n b ằ ng s ố ti ế n ít h ơn nh ờ đ ơn gi ả n hoá nh ững ho ạt đ ộng Marketing và s ản xu ất. Dĩ

nhiên là tr ọn gói toàn b ộ có v ẻ không hoàn toàn phù h ợp v ới nhu cầ u c ủa ng ười mua. M ặ t

khác, m ộ t sả n phẩ m có th ể đ ược cung c ấ p t ừ ng ph ầ n, do đó ng ười mua không ph ả i tr ả

cho b ấ t kỳ khoả n ph ụ thêm không mong mu ốn nào h ết. K ết qu ả là giá c ả có th ể tr ở nên

phù h ợp v ới túi ti ề n ng ười tiêu dùng h ơn nh ờ vi ệc cung c ấp t ừng ph ần s ản ph ẩm. Khi

m ộ t Công ty đ ối m ặ t v ới vi ệ c giá xu ấ t kh ẩ u tăng do s ự tăng lên c ủa chi phí v ận chuy ển,

th ủ t ụ c h ả i quan, chi phí đóng gói..., thì công ty đó nên xem xét t ới nh ững chi ến l ược làm

gi ả m đi nh ữ ng ảnh h ưởng c ủa s ự tăng giá. Theo Becker, thì có m ột s ố cách ti ếp c ận phù

h ợ p. Tr ước tiên, Công ty đó có th ể c ố g ắ ng rút ng ắ n kênh phân ph ối qu ốc t ế đ ể gi ảm s ố

l ầ n lặ p l ạ i các ch ứ c năng marketing. Cách này cũng có th ể làm tăng m ứ c đ ộ ki ể m soát giá

c ả th ị tr ườ ng cu ố i cùng. Th ứ hai, Công ty đó có th ể giả m giá xu ấ t kh ẩ u b ằ ng cách dùng

chi phí bi ế n đ ổ i làm giá sàn. Chi ế n l ượ c này ch ỉ phù h ợ p khi không có vấ n đ ề gì v ớ i việ c

bán phá giá và thu ế cân b ằ ng đánh vào ph ầ n tăng thêm. Th ứ ba, Công ty có th ể xem xét

t ớ i vi ệ c c ả i ti ế n s ả n phẩ m c ủ a mình (ví d ụ nh ư gi ả m ch ấ t l ượng th ấ p h ơn, ít thay đ ổi

m ẫ u mã, gi ả m s ự l ự a ch ọn, và đ ơn giả n hoá thi ế t k ế ) nh ờ đó có th ể đ ạ t đ ược m ức giá

th ấ p h ơ n. Cu ố i cùng, Công ty có th ể mu ốn xuấ t khẩ u các b ộ ph ậ n đ ể l ắ p ráp ho ặ c l ắ p



đ ặ t các thi ế t b ị s ản xuấ t t ạ i n ước ngoài. Chi ến l ược cu ối cùng này, nh ờ gi ảm vi ệc nh ập

kh ẩ u lao đ ộng và nguyên v ậ t li ệu s ẽ làm gi ả m s ự tăng giá xu ất kh ẩu.



Bán phá giá

Bán phá giá, m ột hình th ứ c phân bi ệ t đ ối x ử v ề giá, là ph ương pháp tr ả nh ững m ức giá

khác nhau cho cùng 1 s ản phẩ m ở nh ữ ng th ị tr ườ ng tươ ng tự nhau. K ế t qu ả là hàng hoá

nh ậ p kh ẩ u đ ược bán ở m ứ c giá th ấ p gây thi ệ t hạ i cho nh ững nhà s ản xu ấ t nh ững hàng

hoá cùng lo ạ i. Ví d ụ nh ư hàng Boeing, McDonnell Douglas, t ố cáo hàng Airbus đã nh ận 9

t ỷ USD ti ề n tr ợ giá t ừ t ậ p đoàn đ ộc quy ền c ủa Chính ph ủ, có kh ả năng hàng này đã đ ịnh

giá m ỗ i chi ế c máy bay ở m ứ c giá th ấ p h ơn chi phí th ự c t ừ 15 đ ế n 20 tri ệ u USD. Bán phá

giá cũng đ ược áp d ụng trong ngành d ịch v ụ. Các ngân hàng Nh ật B ản ở California đã b ị t ố

cáo là bán phá giá ti ề n t ệ ở th ị tr ường M ỹ b ằng cách đ ịnh giá các kho ản vay c ủa h ọ ở

m ộ t m ứ c lãi suấ t th ấ p h ơn m ứ c lãi suấ t c ủ a các Ngân hàng M ỹ

Các hình th ứ c bán phá giá.

Có m ộ t s ố hình th ứ c bán phá giá nh ư bán phá giá tình th ế, bán phá giá t ấn công , bán phá

giá liên t ụ c và bán phá giá ngh ịch.

Bán phá giá tình th ế xả y ra khi m ột nhà s ả n xu ấ t v ới m ột s ố nh ững hàng hoá ch ưa bán

đ ượ c mu ố n t ừ b ỏ nh ữ ng hàng hoá d ư th ừ a đã khi ến h ọ m ệt m ỏi. Đ ể duy trì v ị th ế cạ nh

tranh ở th ị tr ườ ng n ội đ ị a, nhà sả n xuấ t phả i tránh vi ệc gây ra chi ến tranh giá c ả vì đi ều

đó có th ể gây hạ i cho th ị tr ườ ng trong n ướ c. M ộ t trong nh ữ ng gi ả i pháp đòi h ỏ i ph ả i hu ỷ

nh ữ ng hàng hoá d ư th ừ a, ví d ụ nh ư nh ữ ng nông dân Châu á đã phảI vứt bỏ gà con trên biển

hoặc thiêu chúng. Một con đường khác để giải quyết vấn đề này là giảm những thiệt hại bằng

cách bán với bất cứ mức giá nào. Những hàng hoá dư thừa, do đó sẽ được bán phá giá ra nước

ngoài tại những thị trường mà hàng hoá đó không được bán rộng rãi.

Bán phá giá tấn công thì lâu dài hơn bán phá giá lẻ.Chiến lược này đòi hỏi phải bán hàng ở mức

giá thua lỗ để tiếp cận được thị trường và có thể đánh bật các đối thủ cạnh tranh ra khỏi thị

trường .Hoặc các đối thủ cạnh tranh phải ra khỏi thị trường hoặc thị trường mới được thiết lập,

công ty đó sẽ sử dụng vị thế độc quyền của mình để tăng giá. Một số nhà bình luận đặt câu hỏi

cho ý kiến rằng bán phá tấn công là có hại bằng cách chỉ ra nếu kết cục công ty tiến hành phá

giá lạI tăng giá lên thì những đối thủ cạnh tranh cũ có thể tham gia trở lại thị trường khi việc đó

lại trở nên có lợi hơn.

Hitachi bị tố cáo là đã áp dụng bán phá giá tấn công sản phẩm con chip EPROM của hãng (bộ

nhớ chỉ đọc…………). Hãng này đã đưa ra thông báo khuyến khích các nhà phân phối của Mỹ là

"hãng sẽ định giá thấp hơn 10% so với các đối thủ cạnh tranh cho tới khi việc đấu thầu chấm



dứt khi hãng Hitachi trở thành người chiến thắng . Văn phòng luật pháp , sau một năm dài tiến

hành nghiên cứu, đã ngừng việc điều tra vì thấy không đủ bằng chứng để kiện hãng này.

Zenith trong một thời gian dài đã tố cáo các nhà sản xuất vô tuyến truyền hình của Nhật sử

dụng bán phá giá tấn công. Hãng này trong khi tiến hành tố tụng chống hiệp hội chế đã buộc tội

các nhà sản xuất chính của Nhật Bản thông qua các hoá đơn sai và việc hạ giá bí mật, đã có âm

mưu đặt ra các mức giá tấn công thấp cho mặt hàng vô tuyến truyền hình ở thị trường Mỹ với

mục đích đánh bật các công ty của Mỹ để giành lấy vị thế độc quyền. Cả chính phủ Nhật Bản

và Mỹ đều chống lại hiệp hội các công ty Nhật này trên lập trường "cưỡng chế tuyệt đối". Nói

cách khác, hiệp hội bị kiện này là kết quả của sự nhượng bộ đối với chính sách xuất khẩu của

Chính phủ Nhật Bản. Sau 16 năm điều tra về mặt pháp lý , Toà án tối cao đã bác bỏ những lý

luận của hoạt động phi pháp này nhưng yêu cầu phải có sự xét xử liên quan đến lời buộc tội bán

phá giá này.

Bán phá giá liên tục là loại bán phá giá lâu dài nhất, đòi hỏi việc bán hàng kéo dài ở 1 thị trường

tại các mức giá thấp hơn so với các thị trường khác. Phương thức này có lẽ xuất phát từ sự thừa

nhận của 1 công ty rằng các thị trường thì khác nhau về những điều kiện về tổng chi phí và các

đặc trưng về nhu cầu. Ví dụ, một công ty có thể cho rằng nhu cầu nước ngoài thì linh hoạt hơn

là nhu cầu nội địa chẳng hạn. Dựa trên nhận thức này, công ty đó có thể quyết định dùng việc

định giá chi phí nhỏ hoặc gia tăng ở nước ngoài trong khi dùng việc định giá chi phí đầy đủ để

trang trải các chi phí cố định trong nước. Phương thức này mang lại lợi ích cho người tiêu dùng

nước ngoài, nhưng lại bất lợi đối với người tiêu dùng trong nước .Lấy ví dụ như Nhật Bản có

thể duy trì mức giá cao ở thị trường nội địa, đặc biệt đối với các mặt hàng điện tử, bở vì không

có sự cạnh tranh từ nước ngoài nào ở đây nhưng nước này lại sẵn sàng giảm giá ở thị trường

Mỹ đề giành lấy hoặc duy trì thị phần. Kết quả là người tiêu dùng Nhật Bản phải chịu thiệt do

phải trả mức giá cao hơn cho các sản phẩm của Nhật được định giá thấp hơn rất nhiều tại các

thị trường khác.

Ba loại bán phá giá trên thông thường có chung 1 đặc trưng: đó là đều đòi hỏi phải định những

mức giá thấp hơn ở thị trường ngoài nước so với thị trường nội địa. Tuy nhiên, có thể có một

phương thức ngược lại, bán phá giá nghịch. Để tiến hành được phương thức này, nhu cầu nước

ngoài phải kém linh hoạt hơn và thị trường đó phải chịu một mức giá cao hơn. Như vậy, bất kỳ

hình thức bán phá giá nào cũng sẽ được thực hiện ở thị trường nội địa của các nhà sản xuất

thông qua việc bán với mức giá thấp hơn tại địa phương.

Ph ươ ng di ệ n pháp lý c ủa bán phá giá.

Việc bán phá giá có bất hợp pháp hay không là tuỳ thuộc vào việc phương thức này có được

chấp nhận ở từng thị trường hay không . Thuỵ Sĩ không có luật chống phá riêng. Tuy vậy phần



lớn các quốc gia đều có các quy định về bán phá giá đặt ra một mức giá thấp nhất hay giá sàn có

thể áp dụng trên thị trường.

Việc bán phá giá bất hợp pháp diễn ra khi giá đã tính thấp hơn mức giá quy định. Năm 1987, Bộ

thương mại của Mỹ đã quyết định rằng sản phẩm ống màu vẽ từ Nhật Bản, Nam Triều Tiên,

Singapor và Canada đã được bán phá giá ở thị trường Mỹ ở những mức giá thấp hơn mức giá thị

trường, và các đại lý đó đã bị phạt.

Thế nào là mức giá không hợp lý hay bất hợp pháp, và loại bằng chứng nào cần để chứng minh

lời tố cáo việc bán phá giá. Hình 16.2 đã đưa ra các nhân tố được phòng Thương Mại Quốc tế

sử dụng để so sánh các mức giá nhằm xác định xem liệu các mặt hàng nhập khẩu có được bán

tại mức giá thấp hơn giá trị hợp lý không.

Trường hợp của xe golf Melex từ Phần Lan là một ví dụ chỉ ra những khó khăn trong việc xác

định mức giá hợp lý. Sự thành công của Melex ở Mỹ đã dẫn đến lời buộc tội hãng bán phá giá.

Bộ Tài chính đã không thể xác định được liệu mức giá ở Mỹ của Melex có thấp hơn mức giá nội

địa tại Phần Lan hay không bởi Phần Lan không hề có bất kỳ khoá huấn luyện nào về chơi golf

và do vậy cũng không hề có nhu cầu về sản phẩm này. Chi phí sản xuất không phù hợp để xác

định giá hợp lý của sản phẩm này.

Nền kinh tế xã hội của Phần Lan, không cho phép những chi phí của các nhân tố sản xuất bị áp

đặt bởi thị trường. Vì nguyên nhân này, Luật thương mại năm 1974 không cho phép dùng các chi

phí sản xuất tại các nước XHCN/xã hội vào mục đích so sánh.

Để xác định các chi phí hợp lý, Bộ tài chính đã bắt đầu sử dụng các chi phí của các nhà sản xuất

nhỏ Canada làm các mức giá tham khảo, chỉ khi thấy các Công ty Canada dừng việc chế tạo xe

golf. Ngoài ra, Phần Lan đã phản đối rằng các chi phí sản xuất của các Công ty Canada là quá

cao và không thích hợp để đem ra so sánh. Bước tiếp theo của Bộ tài chính là dựa vào các mức

giá tham khảo của một sản phẩm có thể so sánh được từ các quốc gia có thị trường tự do.

Mehico và Tây Ban Nha đã được chọn bởi hai nước này được xem là có điều kiện phát triển

kinh tế tương tự như Phần Lan. Mặc dù cả Mehico và Tây Ban Nha đều không sản xuất xe golf,

cả 2 nước đều được dùng để xác định xem liệu chi phí sản xuất của họ sẽ là bao nhiêu nếu họ

sản xuất một sản phẩm như vậy . Sau rất nhiều tranh cãI và xem xét , kết luận đưa ra là giá trị

chế tạo không khác mấy so với giá thực tế của Melex .

Bằng chứng của việc bán phá giá là khi một sản phẩm được bán với mức giá thấp hơn giá trị

hợp lý, năm 1986, Bộ Thương Mại đã phán quyết rằng các nhà sản xuất chất bán dẫn của Nhật

đã thực sự bán phá giá con chip EPROM 256 K DRAMS, 64 K DRAMS ở thị trường Mỹ . NEC

được xem là dẫn đầu trong số những công ty vi phạm, đã bán các con chip của mình ở mức giá

thấp hơn 108% và 180% so với giá trị hợp lý.



Một ví dụ khác về bằng chứng bán phá giá là một sản phẩm đã được bán ở một mức giá thấp

hơn mức giá hay chi phí sản xuất tại thị trường nội địa. Nước Mỹ dựa vào mức giá nguồn của

các quan chức Mỹ, mức giá này nhằm hạn chế bán phá giá bằng cách đưa ra một dấu hiệu sớm

của mức giá nhập khẩu không được chấp nhận. Lấy ví dụ trường hợp sản phẩm là thép, mức

giá nguồn đặt ra một mức giá thấp nhất cho thép nhập khẩu , được ổn định bởi chi phí sản xuất

thép tại Nhật Bản. Theo General Accounting Office, 40% tổng nhập khẩu tại một thời điểm

được định giá thấp hơn giá nguồn.

Để làm giảm việc bán phá giá, Tổ chức hành động chống bán phá giá yêu cầu Bộ Thương Mại

phải đánh thuế công bằng đối với phần chênh lệch bán phá giá. Thuế chống bán phá giá tính dựa

trên khoản tiền mà giá trị thị trường ngoài nước hay giá trị chế tạo vượt quá giá mua hoặc giá

bán của một nhà xuất khẩu.

Ví dụ như Bộ Thương Mại vào năm 1982 đã phán quyết rằng 16 Công ty tại 6 nước Châu Âu đã

bán phá giá các sản phẩm thép tại thị trường Mỹ và bán với mức giá thấp hơn chi phí sản xuất

từ 1 - 41%. Do vậy, các nhà sản xuất thép nhập khẩu của liên minh Châu Âu năm 1981 đã bị

đánh thuế phản kháng với mức 45%. Hành động này đã dẫn đến thoả thuận giữa Mỹ và liên

minh Châu Âu giới hạn lượng nhập khẩu ở 10 loại tới 5,7% thị trường Mỹ nếu các nhà sản

xuất Mỹ rút lại những lời phàn nàn của họ. Trường hợp sản phẩm là TV, năm 1971 Bộ tài chính

đã nhận thấy việc bán phá giá sản phẩm của Nhật đang diễn ra. Sự việc này dẫn tới một thoả

thuận với 22 nhà nhập khẩu đã bị đánh thuế 77 triệu USD cho các sản phẩm nhập khẩu từ ngày

31 tháng 3 năm 1979. Bộ thương mại đã chấp nhận 66 triệu USD như cách giải quyết những

yêu cầu chống bán phá giá chống lại trên 100 Công ty đã nhập khẩu các sản phẩm toàn bộ của

Nhật Bản với tổng giá trị 25 tỷ USD tại mức giá thấp hơn giá nội địa của Nhật Bản từ năm

1971 đến năm 1979. Hãng Jenith, cho rằng các hình phạt đó là chưa đủ, đã thách thức cả những

luật lệ, nhưng toà án tối cao đã từ chối xem xét lời kháng án.

Làm th ế nào để bán phá giá (h ợp pháp và b ấ t h ợp pháp)

Bán phá giá là 1 phương thức phổ biến. Các nhà xuất khẩu và các nhà nhập khẩu của họ luôn

quan tâm tới tác dụng của phương thức này khi cần thiết, và sẽ tìm ra những cách để giữ bí mật

phương thức này. Chúng ta có thể học được đôi điều từ trường hợp của hãng Mitsui. Mitsui đã

phải chịu trách nhiệm về việc tiến hành vụ bán phá giá lớn nhất và đã đưa ra lời biện hộ với 21

đIểm chính bao gồm việc hối lộ các nhân viên hảI quan và giả mạo giấy tờ để bán thép với giá

thấp hơn mức giá quy định. Mitsui đã cố gắng giấu kín hành động bán phá giá của mình bằng

nhiều cách. Hãng che đậy nguồn gốc các sản phẩm thép của Nhật Bản bằng cách nguỵ trang

chúng như được chế tạo tại Mỹ (ví dụ như trường hợp nhập khẩu dây dẫn vào Houston). Hãng

đã trình ra những giấy tờ sai để che giấu gía trị thực của hàng hoá, ký lùi ngày các hoá đơn lại để

tránh các mức giá quy định. Ngoài ra, hãng đem đến cho các khách hàng Mỹ của mình khoản



chiết khấu bằng với khoản chênh lệch giữa tỷ giá chính thức và tỷ gía thực tế, và các tính toán

được thực hiện sau khi hàng đã được nhập. Các khoản chiết khấu bất hợp pháp này có tổng gía

trị là 1,3 triệu USD từ năm 1987 đến năm 1987. Một cách đánh lừa khác có liên quan tới cách

dùng những khai báo tổn thất. Mitsui đã đưa ra những lời khai báo sai rằng hàng hoá đã bị hư hại

trong quá trình vận chuyển và cấp một khoản tín dụng 22,676 USD cho đinh ốc kim loại Hàn

Quốc đã hư hại mà không cần xem xét hay thông báo những tổn thất này cho công ty bảo hiểm

của hãng. Mặc dù đã áp dụng những biện pháp hết sức tinh vi này, Mitsui vẫn bị phát giác và

phải trả những khoản tiền phạt rất nặng cho hành động bán phá giá và sự gian lận của mình

Sears đã bị buộc tội tương tự do kết hợp với Sanyo và Toshiba trình ra những hoá đơn hải quan

sai lệch có liên quan tới hoạt động nhập khẩu vô tuyến truyền hình của Nhật Bản từ năm 1968

đến năm 1975. Để tránh các hình phạt hải quan do mức giá định ra thấp hơn mức giá tại thị

trường Nhật Bản, Sears đã chứng minh các mức giá mua đều cao hơn mức giá đã trả thực tế.

Trong 2 trong 7 năm đó, Sear đã phóng đại mức giá của Toshiba lên 1,66 triệu USD và của Sanyo

lên 7 triệu USD

Khung 16-2: Bán phá gía: các cơ sở để so sánh

1.



Việc xác định liệu hàng hoá có được bán cho những người tiêu dùng tại Mỹ với mức giá



thấp hơn giá trị hợp lý hay không thường dựa trên sự so sánh giữa mức giá FOB xí nghiệp ròng

đến tay nhà nhập khẩu của Mỹ và giá FOB xí nghiệp ròng đến tay những người mua tại thị

trường nội địa. Nếu doanh số hàng bán sang Mỹ dựa trên cơ sở giao hàng CIF hoặc cơ sở giao

hàng FOB, thì những lượng khấu trừ cần thiết được tính nhằm đưa giá cả về mức giá FOB xí

nghiệp.

2. Nếu chính hàng hoá đó hoặc hàng hoá tương tự không được bán ở thị trường nội địa, hoặc

nếu lượng bán ở thị trường nội địa là quá nhỏ (thông thường là dưới 5% lượng bán ở các nước

thứ ba), không đủ cơ sở để so sánh, thì người ta sẽ so sánh giữa mức giá tại Mỹ và mức giá xuất

khẩu sang các nước thứ ba.

3. Nếu hàng hoá chỉ được bán ở Mỹ hoặc nếu hàng hoá bán ở thị trường nội địa hoặc sang các

nước thứ 3 không hoàn toàn tương tự với hàng hoá bán ở Mỹ để tạo nên một cơ sở thoả mãn

cho việc so sánh, thì người ta sẽ so sánh giữa giá bán ở Mỹ và giá trị chế tạo, được quy định theo

các Thoả thuận mhương mại ký kết năm 1979.

Giá trị chế tạo là tổng của:

a. Chi phí nguyên vật liệu, lao động và chế tạo.

b. Những khoản phí chung thông thường, ví dụ như quản lý cấp cao và xí nghiệp, và lợi

nhuận thông thường thấy được trong quá trình sản xuất của hàng hoá có đặc trưng chung tương

tự ; và



c. Chi phí bao gói và các khoản phí khác cho việc chuẩn bị hàng hoá vận chuyển sang

M ỹ.

Luật này quy định rằng các khoản tăng thêm cho các chi phí chung phải chiếm tối thiểu 10% chi

phí dưới mục a và khoản tăng thêm đó cho lợi nhuận phải đạt tối thiểu 8% tổng chi phí chung.

Nếu một mối quan hệ tồn tại giữa chủ tàu và nhà nhập khẩu khác hơn so với mối quan hệ giữa

người bán và người mua (ví dụ như nếu nhà nhập khẩu là đại lý hoặc công ty con của chủ tàu),

thì người ta sẽ so sánh giữa tiêu dùng trong nước hoặc giá cả của nước thứ ba với các mức giá

bán của nhà xuất khẩu ,là mức giá mà nhà nhập khẩu sẽ bán lại hàng hoá tại Mỹ, ít (1) chi phí

và trách nhiệm vận chuyển hơn, (2) khoản tiền của bất kỳ thoả thuận bán hàng nào và các

khoản phí bán hàng có liên quan tới việc bán hàng hoá tại Mỹ và bất kỳ chi phí nào phải gánh

chịu từ quá trình trước khi hàng hoá nhập khẩu được bán lại.

Trong việc so sánh các mức giá tại Mỹ với các mức giá bán ở thị trường nội địa hoặc sang các

nước thứ ba, cho phép có sự khác nhau ở mức giá mà toàn bộ hoặc từng phần tuỳ thuộc sự khác

nhau về lượng bán hoặc sự khác nhau về điều kiện bán hàng. Các quy tắc thương mại lần thứ

tư lập ra quy định chung quy định trong trường hợp thông thường sẽ quản lý xem liệu một

khoản chiết khấu số lượng cá biệt có chấp nhận được cho mục đích thừa nhận một khoản chiết

khấu số lượng hay không .

Nhìn chung ,những khác biệt trong các trường hợp bán hàng có chiết khấu bị giới hạn trong

những trường hợp phát sinh một mối quan hệ trực tiếp đối với việc bán hàng được xem xét tới ,

chẳng hạn như những khác biệt trong các điều kiện tín dụng , người đứng ra bảo lãnh , bảo

hành , trợ giúp kỹ thuật , cung cấp dịch vụ , sự tự tôn của người bán hàng hoá trong quảng cáo

của người mua , hoặc các chi phí bán hàng khác hay các khoản tiền hoa hồng

Khi so sánh mức giá bán hàng mà người xuất khẩu dùng ,sẽ có những khoản chiết khấu hợp lý

cho những khoản chi phí bán hàng thực tế phải chịu ở thị trường nội địa cho tới các khoản phảI

gánh chịu ở thị trường Mỹ. Nhìn chung , không có những khoản chiết khấu dành cho những khác

biệt trong quảng cáo hay các chi phí bán hàng khác , trừ khi chính các khoản chi phí đó đảm

nhận việc đạI diện cho những người bán hàng : chẳng hạn như quảng cáo của một loạI được

thiết kế để tiếp cận khách hàng của người bán hơn là khách hàng của người mua . Nhìn chung ,

không có khoản chiết khấu bắt buộc cho những khác biệt trong chi phí sản xuất , trừ những

trường hợp nơI chuẩn bị hàng hoá là không đúng . Trong trường hợp này , chiết khấu sẽ chủ

yếu dựa trên những khác biệt trong chi phí sản xuất nhưng khi cần thiết , những tác động của

chính những khác biệt về giá trị thị trường của hàng hoá đó có thể cũng được xét đến , nếu

chứng minh được khoản chênh lệch giá cả phụ thuộc hoàn toàn hoặc phần nào vào những khác

biệt đó . Những khác biệt trong chi phí sản xuất hàng hoá với các đặc trưng vật lý tương tự

nhau như các sản phẩm mục tiêu sẽ không được cho phép.



Khi so sánh giá mua của những nhà nhập khẩu của Mỹ ( hoặc giá bán của những người xuất

khẩu ) với giá cung nội địa , bất kỳ khoản thuế nào được nộp cho việc bán hàng trong nước

hoặc được hoàn lại do nhập khẩu , sẽ được tính thêm vào giá mua đó ( hoặc giá bán của những

người xuất khẩu ).

Trong hầu hết các trường hợp ,một công ty xuất khẩu hàng hoá bằng đường biển có thể tự

thuyết phục rằng công ty đó không bán hàng vào Mỹ tạI mức gía thấp hơn giá trị hợp lý bằng

cách đơn giản là so sánh các mức giá FOB xí nghiệp ròng của công ty bán sang Mỹ với giá FOB

xí nghiệp ròng bán tạI thị trường nội địa hoặc sang các nước thứ ba.

Để ngăn cản các hãng của Nhật bán phá giá các con chip EPROM trên thị trường Mĩ. Mĩ và Nhật

đã đưa ra một mức giá đúng với thị trường hay là mức giá tối thiểu cho những con chip. Nhưng,

những nhà sản xuất chip ở Mĩ đã khẳng định rằng Nhật đã vi phạm thoả thuận thương mại này

dưới hình thức bán phá giá chip ở Hồng Kông, Đài Loan và Singapo đồng thời bán chip cho

người Hàn Quốc ở mức giá đúng luật nhưng lại được bớt một số tiền. Vấn đề là các con chip

này có thể xâm nhập vào thị trường Mĩ hoặc những nhà sản xuất Mĩ sử dụng chất bán dẫn có

thể chuyển hoạt động của họ sang thị trường khác để lợi dụng lợi thế giá chip rẻ.

Phá giá là một biện pháp mạo hiểm mà có thể gây ra nhiều khó khăn cho người bán phá giá,

thêm vào đó là tạo ra một lượng lớn chi phí cho các mục tiêu tài chính lớn. Do đó, một chiến

lược thích hợp là sử dụng các biện pháp khác để vượt qua luật chống bán phá giá. Một biện

pháp có thể tránh những phí tổn của bán phá giá phân biệt hoá các hàng hoá xuất khẩu và các

hàng bán trên thị trường nội địa. Bằng việc chủ động tạo ra sản phẩm nội địa mà sản phẩm

nước ngoài không thể so sánh, sẽ không có giá nội địa để làm cơ sở so sánh giá cả. Đó cũng là lý

do mà nhà sản xuất xe hơi Nhật Bản bán xe hơi của họ dưới những cái tên mới bằng tên đã

được đổi ở Mĩ. Một biện pháp khác dùng để chống bán phá giá là tạo ra những điều chỉnh có

tính cạnh tranh hơn ở danh mục hàng không có giá khi đàm phán với chi nhánh hoặc người phân

phối. Ví dụ như sử dụng sáng tạo tín dụng có thể có hiệu quả như bán phá giá.

Có thể vượt qua vấn đề phá giá bằng việc xản suất một sản phẩm thực hiện ở một nước thay

vì nhập khẩu hàng hoá sự lựa chọn này rất thiết thực cho các nhà sản xuất Nhật bản, những

người không muốn sản xuất ở Nhật, nhưng mà họ không có đối thủ cạnh tranh nước ngoài.Tuy

nhiên, giá co trong nước đem lại những bát lợi cho nhà sản suất Nhật bản vì có thể dễ dàng

chứng minh được rằng Nhật bán phá giá ở thị trường Mĩ. Để giảm tới mức tối thiểu việc chi

phí trội lên ở Mĩ, các hãng ở Nhật bản đã nhập khẩu những chi tiết máy và các phụ tung sự bóp

méo giá cả.

Luật phá giá không phải là nguyên nhân duy nhất dẫn đến sự biến đổi của giá cả. Chính sách giá

cả của chính phủ có thể điều tiết khả năng định giá của thị trường. Thực tế, tất cả tất các chính

phủ đều không để cho thị trường tự hiện hành giá.



Exhibit 16-3 đã miêu tả vai trò của thị trường và giá cả được hình thành như thế nào ở mnhững

nước chúng tôi lựa chọn trong hộp. Khi chính phủ trực tiếp tham gia vào mua bán hàng hoá trong

nước và nước ngoài, thông thường những hoạt động đó sẽ có ảnh hưởng kèm theo là sự biến

động giá cả. bởi vì chính sách giá cả của Nhật bản ảnh hưởng tới lĩnh vực nông nghiệp, những

nông dân của Nhật có thể đưa ra mức giá gạo cao gấp vài lần ở Mĩ, kết quả là ở Nhật người

tiêu dùng phải trả tiền gấp đôi gấp ba lần mức gạo thế giới. Bảng 16-1 chỉ rõ sự khác biệt giá

cả xe hơi ở các nước. Giá một chiếc xe hơi trung bình ở Singapo có thể gấp bốn lần một chiếc

xe tô sang trọng ở Tokyo hoặc ở Brucsen.

Exhibit 16-3: Vai trò của thị trường giá cả

Brazin:

Các mức giá cả liên quan chịu ảnh hưởng của chính sách tỉ giá hối đoái, các biện pháp thuếu

quan và phi thuế quan trong thương mại. Thuế là ưu đãi tín dụng góp phần chỉ đạo đầu tư tư

nhân.

Kenia:

Thông thường, giá cả không phản ánh khả năng hữu dụngcủa các nguồng lực trong nông nghiệp,

giá cả này hoàn toàn sai lệch và sản xuất được bảo vệ khỏi các đối thủ cạnh tranh nước ngoài.

Những biện pháp quản lý trực tiếp như giấy phép sản xuất, sẽ hạn chế tính hoạt động của thị

trường.

Singapo:

Singapo thường sử dụng các dấu hiệugiá cả của thị trường quốc tế. Sự bóp méo giá cả vào

những năm 1960, khi Singapo còn nằm trong liên bang Malaixia, đã không còn nữa.

Thái lan:

Nền kinh tế căn bản theo định hướng thị trường. vẫn còn nhiều sự méo mó giá cả, tuy nhiên

dưới hình thức thuế và bảo vệ mậu dịch trong sản xuất, nhưng những biện pháp nàychỉ có tầm

quan trọng tương đối ít và thậm chí còn thường không có tính ràng buộc.

Nam tư:

Thị trường hàng hoá cuối cùng được coi như là hoạt độngtốt nhưng cần có sự can thiệp của

chính phủ vào thị trường hàng háo trung gian và thị trường thị trường các hàng hoá dịch vụ thiết

yếu. Thị trường các nhân tố cơ bản (vốn và lao động) bị phá vỡ.

Nguồn: Helen Hugnes "Private and Development Country Experience" Economic Development

and Private Sector (Washington DC. Ngân hàng thế giới. 1983) 36- 39 được tái bản dưới sự cho

phép của ngân hàng thế giới.



Trong nhiều trường hợp, chính phủ đưa ra một mức giá cao để hạn chế người tiêu dùng nội địa

sử dụng hàng hoá nhập khẩu. Ví dụ: lúa mỳ ở Mĩ bán tại Nhật với giá gấp đôi mức giá mà lẽ ra

người Nhật phải trả. Japan Tobacco and Salt Public Coorperation, một công ty độc quyền đã bán

thuốc lá ngoại với mức giá quá cao (500%) tới mức giá của chúng nhièu gấp rưỡi giá của các

sản phẩm nhãn hiệu nội, chính phủ đã có được như mong muốn, thuốc lá ngoạichỉ chiếm 2% thị

phần.

Luật lệ về giấy phép và sự bắt buộc phải có bằng sáng chế cũng có thể ảnh hưởng trực tiếp

đến giá thị trường. Canada dùng biện pháp giấy phép bắt buộc và cho phép các nhà phân phối

nhập khẩu các loại thuốc giá cao tương tự để kích thích cạnh tranh giá cả. Nhiều thuốc có mức

giá thấp hơn nhiều giá của các nhãn hiệu độc quyền, điều này khiến các thuốc thông thường dễ

dàng dành được thị phần. Chính phủ cũng khuyến cáo các dược sỹ sử dụng các loại thuộc thông

thường khi đơn thuốc được chính phủ thanh toán. Kết quả là giá Valium ở Canada giảm từ 74%

giá Mĩ xuống còn 6%.

Thông thường, chính sách của chính phủ nhằm giữ cho giá ở mức thấp, nếu như điều đó là cần

thiết cho các phúc lợi xã hội. Standard Oil (ấn Độ) đã rút chi nhánh Amoco Italia ra khỏi Italia

sau khi lỗ 112 triệu đôla trong mười tháng đầu năm 1981 bởi vì sự quản lý giá dầu của chính

phủ. Chính phủ Italia cố định phần lớn các giá dầu và nhiều mức giá không khác biệt với giá

nguồn ở nơi khác ở Châu Âu. Một ví dụ ở Nethuland Antiles, ngoài việc quản lý giá thực phẩm

thiết yếu chặt chẽ, chính phủ cũng tham gia vào việc lập tỉ lệ giữa việc chuyên chở và công

dụng chính phủ không quản lý. Hơn nữa, nếu một doanh nghiệp chịu thuế và những nhượng bộ

khác, chính phủ yêu cầu (1) mức giá vừa phải (2) đạt được tiêu chuẩn chất lượng và (3) đảm

bảo trong phân phối.

Bảng 16 - 1: Giá mua bán xe hơi và chi phí bảo quản



Đơn vị tính: Đô la

Medium-Priced Automobile



Price1



Taxes2



Checkup3



Abu Dhabi



Mazda 929 L



7.600



-



59



Amsterciam



Opel Ascona 1.6 SIS



6.900



157



43



Athens



Datsun Sunny 1.5 S GL



12.500



299



20



Bangkos



Tovota 1600 GL



13.400



58



6



Renault 9 Secan



12.300



152



54



Bombay



Ambassador



6.700



37



12



Brussels



Renault 11 GTX 1700



5.500



84



24



Buenos Arres



Renault 11 GTX 1600



11.500



287



119



Cairo



Fiat 127



5.800



31



18



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (598 trang)

×