Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (13.04 MB, 108 trang )
Các giải pháp phát triển dịch vụ hàng hải ở Việt Nam
không hết việc, lại còn không thấy nhu cầu cấp thiết phải nâng cao chất lượng
dịch vụ.
Từ sau k h i Nhà nước có quyết sách đúng đắn mờ cửa nền kinh tế, tốc độ
tăng trưởng cỡa nền kinh tế quốc dân tăng lên rõ rệt, giao thương với nước ngoài
cũng tăng mạnh. Số lượng hàng hóa thông qua các cảng biển Việt Nam không
ngừng tăng, số lượng tàu biển cỡa các nước cập cảng để bốc dỡ hàng hóa cũng
nhiều hơn. Vì thế, nhu cầu phục vụ cho các hãng tàu cũng tăng. Đây là cơ sờ để
các hoạt động dịch vụ hàng hải có điều kiện phát triển. Các hoạt động này trở nên
sôi động hơn bao giờ hết với đỡ các thành phẩn kinh tế tham gia. Các ngành nghề
thuộc các loại hình dịch vụ tăng nhanh. Cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt.
Theo số liệu thống kê, nếu tính đến cuối năm 1998, tổng số doanh nghiệp kinh
doanh trong lĩnh vực dịch vụ cảng biến lên tới 170 doanh nghiệp (trong đó có 135
doanh nghiệp nhà nước, 20 doanh nghiệp tư nhân, 9 liên doanh và 6 doanh nghiệp
cổ phần) thì đến nay đã có khoảng gần 400 doanh nghiệp . Các doanh nghiệp
16
nhà nước lớn có bề dày và kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ hàng hải
như: Vosa, VietíYacht, Vietrans, Inlaco, Viconship, .. Các công ty cổ phần có
.
.
Gemađept, Safi, .. Các công ty vận tải biển tham gia làm đại lý cho tầu nước
.
ngoài như Vosco, Vitranschart, Vinaship, Saigonship, .. M ộ t số chỡ hàng cũng
mở cảng, làm đại lý cho tẩu như Vinacoal, Petrolimex,... Các công ty cỡa địa
phương như Shipchanco Hải Phòng, Quảng Ninh, Vungtauship, Danasco Đ à
Nang; Các công ty do các cơ quan quản lý nhà nước và lực lượng vũ trang quản l
í
như Macs. Các công ty tư nhân như Công ty Đông Á, Oceanway, Kiến Hưng, Sao
Bắc Đẩu, .. M ỗ i công ty không chỉ cung cấp một lại hình dịch vụ như trước đáy,
.
m à kinh doanh đa năng, tổng hợp.
Kể từ năm 2000, với việc Luật Doanh nghiệp có hiệu lực (ngày
01/01/2000), việc hỡy bỏ hàng loạt giấy phép hành nghề trong đó có cả giấy phép
16
Cục Hàng hải Việt Nam
Trần Tường Vân A14K40 - KTNT
47
Các giải pháp phát triền địch vụ hàng hải ở Việt Nam
kinh doanh dịch vụ hàng hải (quyết định 19/TTg) và Nghị định 10/2001/NĐ-CP
được ban hành (có hiệu lực từ giữa tháng 04/2001), Nhà nước đã tạo cho tất cả
các thành phấn kinh t ế một môi trường thông thoáng trong việc sản xuất kinh
doanh, trong đó có cả kinh doanh dịch vụ hàng hải. Dịch vụ hàng hải được coi là
lĩnh vực Nhà nước không độc quyền nắm giữ. Nhiều doanh nghiệp thuộc m ọ i
thành phẩn kinh tế ổ khắp m ọ i miền trong cả nước, đặc biệt ổ những địa phương
có cảng biển, đã đăng ký kinh doanh dịch vụ hàng hải và hoạt động có hiệu quả.
Tính từ năm 2000, theo báo cáo tổng kết của Cục Hàng hải Việt Nam, số
lượng doanh nghiệp dịch vụ hàng hải thuộc các thành phẩn kinh tế tăng nhanh.
Tính đến tháng 5/2004, tổng số doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ hàng hải thuộc
tất cả các thành phần kinh tế là 344 doanh nghiệp (tăng 129,33%), trong đó doanh
nghiệp nhà nước có 178 doanh nghiệp (tăng 69,52%), doanh nghiệp trách nhiệm
hữu hạn có 105 doanh nghiệp (tăng 303,85%), số công ty cổ phần là 56 (tâng
7 0 0 % ) , công ty liên doanh có 2 công ty (năm 2000 chưa có công ty liên doanh
nào kinh doanh trong lĩnh vực này), có 3 doanh nghiệp tư nhân (tăng 5 0 % ) .
Qua bảng 3, chúng ta thấy sự tham gia ngày càng mạnh mẽ của các công ty
cổ phẩn vào hoạt động dịch vụ hàng hải. Điều này cũng dễ hiểu do hiện nay cổ
phấn hoa là xu thế phổ biến ổ Việt Nam hiện nay. Trong các công ty cổ phần này
t
có không í những công ty xuất thân là các doanh nghiệp Nhà nước. Số lượng các
doanh nghiệp tư nhân cũng không tăng là bao, thậm chí so với năm 2002 còn
giảm là so cạnh tranh trên thị trường ngày càng gay gắt, các công ty nếu không có
đủ tiềm lực về vốn cũng như nhân lực chắc chắn phải đóng cửa. Tỷ lệ tăng của
doanh nghiệp Nhà nước tuy không cao như các loại hình khác nhưng vẫn chiếm
tỷ trọng cao nhất trong tổng số các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ hàng hải.
Lợi thế chính của các doanh nghiệp Nhà nước là có nguồn vốn lớn và được sự hỗ
trợ của Nhà nước, hơn nữa lại rất có kinh nghiệm và có m ố i quan hệ với nhiều
bạn hàng từ trước. Số lượng công ty liên doanh cũng không phát triển lắm. Nhưng
Trần Tường Văn A14K40 - KTNT
48
Các giải pháp phát triển dịch vụ hàng hải ở Việt Nam
đây chỉ mới là con số thống kê chính thức, còn con số thực sự thì hiện chưa thể
biết được. Những thương nhân nước ngoài đã bằng nhiều hình thức thông qua các
văn phòng đại diện hoặc các công ty Việt Nam để luồn lách hoạt động dưới nhiều
hình thức khác nhau.
Bảng 3: Thống kê số lượng doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ hàng hải qua
các năm
Loại
Năm
05/2004
2000
hình
Chênh lệch
doanh
nghiệp
Số
Tỷ
Số
Tỷ
SỐ
Tỷ trọng
lượng
trọng
lượng
trọng
lượng
(%)
(%)
(%)
DNNN
105
75
178
51,7
73
69,52
cty
26
18,57
105
30,52
79
303,85
CtyCP
7
5
56
16,28
49
700
DNTN
2
1,43
3
0,87
1
50
CtyLD
0
0
2
0,58
2
Tổng
140
100
344
100
204
TNHH
145,1
Nguồn: Cục Hàng hải Việt Nam
(DNNN: doanh nghiệp Nhà nước, Cty TNNN: công ty trách nhiệm hữu hạn, Cty
CP: công ty cổ phần, DNTN: doanh nghiệp tư nhân, Cty LD: công ty liên doanh)
Trần Tường Văn A14K40 - KTNT
49
Các giải pháp phát triển dịch vụ hàng hải ở Việt Nam
SỐ lượng ngành nghề trong 9 loại hình dịch vụ quy định tại Nghị định
10/2001/NĐ-CP tăng lên với tốc độ rất nhanh. Tại thời điểm bân 2000 chỉ có 339
ngành nghề dịch vụ, đến tháng 5/2004 đã có 1090 ngành nghề (tăng 221,53%).
Bảng 4: số lượng các ngành nghề trong mỗi loại hình dịch vụ hàng hải
STT
Tên dịch vụ
Số lượng ngành nghề
Năm 2000
0512004
Chênh lệch
Chênh
giữa 2004 so
với 2000
ì
Đại lý tàu biển
66
249
277,27
2
Đại lý vận tải đường
41
167
307,32
biền
3
Môi giới hàng hải
66
209
216,67
4
Cung ứng tàu biển
19
112
489,47
5
Kiểm đếm hàng hóa
16
108
575
6
Lai dắt tàu biển
30
50
66,7
7
Sửa chữa tàu biển tại
20
70
250
cảng
8
Vệ sinh tàu biển
26
37
42,31
9
Xếp d
hàng hóa tại
55
88
60
339
1090
221,54
cảng
Tổng
Nguồn: Cục Hàng hải Việt Nam
Trần Tường Vãn A14K40 • KTNT
SO
Các giải pháp phát triền dịch vụ hàng hải ở Việt Nam
Các loại hình dịch vụ hàng hải ngày càng phát triển đa dạng về ngành
nghề. X u thế trên thế giới là các doanh nghiệp không chỉ k i n h doanh một loại
hình dịch vụ m à có thể cùng lúc kết hợp nhiều loại hình dịch vụ khác nhau. Hen
nữa, do cạnh tranh gay gắt, các doanh nghiệp phải cung cấp địch vụ trọn gói mới
mong vượt lên trên các doanh nghiệp khác. Tuy vậy, ỏ Việt Nam có nhiều doanh
nghiệp ô m đầm quá nhiều trong khi năng lực kinh doanh có hạn, dẫn đế tình
n
trạng kinh doanh dàn trải, manh mún, không thể tập trung đầu tư cả về cơ sờ vật
chất và nhân lực.
1.2. Về chất lượng các dịch vụ hàng hải
Theo ghi nhận của đa số các chủ tàu và chủ hàng, từ khi Luật Doanh
nghiệp và Nghị định 10/2001/NĐ-CP có hiệu lực, chất lượng của các loại hình
dịch vụ hàng hải nhìn chung đều tăng, được thị trường chấp nhận. Có được điều
này là do các doanh nghiệp cũng đã chú trọng hơn trong việc đào tạo nguần nhãn
lực. Nghiệp vụ chuyên m ô n và trình độ ngoại ngữ của những nhân viên trực tiế p
làm dịch vụ được cải thiện (một phần do yêu cẩu về điều kiện kinh doanh được
nêu ra trong Nghị định 10/2001/NĐ-CP). Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng đã tự
trang bị cho mình những phương tiện hành nghề hiện đại hơn.
Tuy chất lượng dịch vụ có được cải thiện nhưng nhìn chung vẫn chưa cao.
Trong những năm qua, các dịch vụ hàng hải có liên quan đến phục vụ container
và đại lý tàu biển còn tương đối đảm bảo chất lượng. Dịch vụ cung ứng tàu biển là
dịch vụ hàng hải được đánh giá là hoạt động có chất lượng kém nhất. Vật phẩm
cung cấp cho các tàu có chất lượng kém. Các doanh nghiệp cung ứng còn cạnh
tranh nhau gay gắt, gây ra tình trạng lộn xộn.
Trần Tường Văn A14K40 - KTNT
51
Các giải pháp phát triển dịch vụ hàng hải ở Việt Nam
Có thể thấy chất lượng dịch vụ chưa cao là do vấn đề quản lý nhà nước về
các hoạt động dịch vụ hàng hải. Trên thực tế, ta thấy k i n h doanh dịch vụ hàng hải
không yêu cầu doanh nghiệp ban đầu phải bỏ nhiều vốn đâu tư, xoay vòng vốn
nhanh, tỷ suất l ợ i nhuận cao. Vì thế rất nhiều doanh nghiệp đã đỉ xô kinh doanh
dịch vụ này, kể cả những doanh nghiệp không có kinh nghiệm, không có chuyên
m ô n nghiệp vụ gì về hàng hải. Việc đăng ký kinh doanh hiện nay thì lại dễ dàng
hơn rất nhiều, nên nhiều công ty chỉ có mấy người cũng đăng ký kinh doanh rất
nhiều loại hình dịch vụ m à có khi chưa bao giờ họ thực hiện. Nhiều doanh nghiệp
trong số đó đã để cho các nhà đầu tư nước ngoài lợi dụng để khai thác thị trườn ỉ
dịch vụ hàng hải nước ta. Các doanh nghiệp này không chịu chù động kinh doanh
m à chấp nhận làm đại lý cho các doanh nghiệp nước ngoài. Ngoài ra, cũng có
những doanh nghiệp không đăng ký kinh doanh dịch vụ với cơ quan có thẩm
quyền, nên Nhà nước không có cách nào quản lý chất lượng dịch vụ họ cung cấp.
Nhìn chung, naoài một số doanh nghiệp Nhà nước đã hoạt động trong lĩnh vực
dịch vụ hàng hải từ lâu với kinh nghiệm dày dặn và đội ngũ cán bộ có nghiệp vụ
tốt, doanh nghiệp có chất lượng dịch vụ còn hạn chế.
1.3. Về giá cả các dịch vụ hàng hải
Giá cả là một vấn đề còn rất nhiều bất cập trong hoạt động cung cấp dịch
vụ hàng hải. Quy m ô thị trường dịch vụ thì có hạn m à có quá nhiều doanh nghiệp
ỉ ạt tham gia nên tất yếu gây ra tình trạng cạnh tranh khốc liệt về giá cả. Các thức
phỉ biến nhất để các doanh nghiệp nhỏ mới ra đời cạnh tranh v ớ i các doanh
nghiệp xuất hiện trước đó là giảm giá dịch vụ một cách tùy tiện để lôi kéo khách
hàng.
Trần Tường Vãn A14K40 • KTNT
52
Các giải pháp phất triển dịch vụ hàng hải ở Việt Nam
Bảng 5: Xu hướng giá dịch vụ hàng hải
Truoc
1995-
1998-
2001
1995
1997
2000
đen
nay
Nguồn: Invesiconsult
Qua bảng 5, chúng ta thấy, nếu như trước năm 1995 chỉ có khoảng dưới
4 0 % các công ty cung ứng dịch vụ hàng hải phải giảm giá cước để cạnh tranh thì
từ năm 2001 đến nay có hơn 6 0 % các doanh nghiệp phải giảm giá để cạnh tranh
Trước đây, Bộ Tài chính có ban hành Quyết định 61/2003/QĐ-BTC quy
định biểu giá dịch vụ của một số dịch vụ hàng hải như giá dịch vụ tàu lai hỗ trợ,
giá dịch vụ vệ sinh tàu biển, giá dịch vụ bố dữ hàng hóa, giá dịch vụ bốc dữ
container, .. theo đó, các giám đốc các doanh nghiệp kinh doanh các dịch vụ này
.
có thể điều chỉnh giá dịch vụ tăng/giảm 10-15% so với biểu giá quy định. Nhưns
thực tế, có nhiều doanh nghiệp còn giảm giá dịch vụ của mình xuống 30-40%,
thậm chí còn hơn thế nữa. Chúng ta xem xét một ví dụ về tình trạng giảm giá dịch
vụ xếp dữ ở hai cảng Quảng Ninh và Hải Phòng là hai cảng cạnh tranh nhau rất
gay gắt. Biểu cước nhất là cước phí xếp dữ của hai cảng này liên tục giảm trong 5
năm trở lại đây, năm 1999 giá dịch vụ xếp dữ nhóm Ì của cảng H ả i Phòna là
18.000 đồng/tấn, cảng Quảng Ninh là 17.500 đồng/tấn thì năm 2003 giá xếp dữ
Trấn Tường Vân A14K40 • KTNT
53
Các giải pháp phát triển dịch vụ hàng hải ở Việt Nam
loại hàng này ở cảng Hải Phòng là 15.000 đồng tức là giảm 16,67%, còn ờ cảng
Quảng N i n h là 16.000 đồng tức là giảm 8,57% .
17
Hiện nay, giá cả các dịch vụ hàng hải không thuộc danh mục hàng hóa
dịch vụ Nhà nước điều chỉnh nữa m à thuộc thẩm quyền của các đơn vị kinh doanh
dịch vụ (Nghị địnhl70/2003/NĐ-CP). Ngày 01/02/2004, Bộ Tài chính ban hành
Công văn 1171/TC-QLG, theo đó Chính phủ không quản lý giá dịch vụ hàng hải
nữa. Các doanh nghiệp tham khảo biểu giá ban hành trước đây (Quyết định sấ
61/2003/QĐ-BTC ngày 25/4/2003 của Bộ Tài chính, Quyết định sấ 39/VGCPC N T D D V ngày 23/12/1993 về phí đại lý đấi với đội tàu nước ngoài) kết hợp với
tình hình kinh doanh thực tế của mình để đưa ra biểu giá cho mình, sau đó báo
cáo về Bộ Tài chính. Mục đích của nghị định và công văn này là giảm giá dịch vụ
hàng hải của Việt Nam thông qua cạnh tranh, phấn đấu tới năm 2005, giá các
dịch vụ này ở Việt Nam sẽ ngang bằng với mức khu vực.
V ớ i sấ lượng các tàu thông qua các cảng biển Việt Nam ngày càng nhiều
như hiện nay, nếu để tình trạng giảm giá ồ ạt như hiện nay thì không những chỉ
đem lại lợi ích cho các chủ tàu nước ngoài m à còn gây thất thu cho ngân sách
Nhà nước và thiệt hại cho các chủ hàng Việt Nam.
1.4. Về cạnh tranh trong thị trường dịch vụ hàng hải
Các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ hàng hải thì không ngừng tăng lẽn
m à không có một cơ quan chuyên ngành nào quản lý. Điều này dẫn đến tình trạng
lộn xộn, tạo điều kiện cho kẻ xấu giả danh kinh doanh dịch vụ hàng hải để ăn
cắp, buôn lậu và tìm cách trấn ra nước ngoài. Tinh trạng không đăng ký kinh
doanh m à vẫn kinh doanh là phổ biến.
" Biểu giá dịch vụ càng Hải Phòng và Quảng Ninh
Trần Tường Ván A14K40 • KTNT
54
Các giải pháp phát triền dịch vụ hàng hải ở Việt Nam
Các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau thường thông qua chất lượng dịch vụ
và giá cả dịch vụ. Cạnh tranh nhờ chất lượng dịch vụ yêu cầu các công ty đẩu tư
nhiều cả vềchất xám lẫn cơ sờ vật chất. Có thể vì thế m à các doanh nghiệp dịch
vụ hàng hải Việt Nam, đặc biệt là những doanh nghiệp vằn ít, nhân lực thiếu
thường chọn cách cạnh tranh bằng giá cả, cụ thể là giảm giá một cách "vô tội vạ".
Đơn cử với dịch vụ cung ứng tàu biển: trong k h i Shipchanco Hải Phòng
phải mua nước kinh doanh của công ty cấp nước với giá 5.500đ/m , bán cho tàu
3
nước ngoài với giá 2,5 USD/m thì ở một vài xí nghiệp dịch vụ khác mua với giá
3
nước sản xuất chỉ có 2500đ/m và họ chỉ bán với giá Ì USD/m . Cứ người này
3
3
xuằng giá 5 đổng thì người khác xuằng giá 3đ, 2đ. Thậm chí có trường hợp phá
nhau, theo kiểu "không ăn được thì đạp đổ", xuằng giá rẻ một cách k i lục đế dành
được order, còn có làm được hay không, có hiệu quả hay không thì không mấy ai
tính đến.
Hay như dịch vụ bằc dỡ: trước đây cước bằc dỡ một container 20 feet là
57USD, nay đã giảm xuằng dưới 45USD, thậm chí ở một cảng ở Đồng bằng sông
Cửu Long, giá bằc dỡ một container hàng thủy sản 20 feet là 20USD' .
8
Qua bảng 6, chúng ta thấy, các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ hàng hải
ở Việt Nam gặp khó khăn chủ yếu là vềmặt giá cả. Các doanh nghiệp thuộc các
thành phẩn kinh tế khác nhau như doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp tư nhân,
công ty liên doanh đểu có giá dịch vụ không cạnh tranh: có đến gần 6 0 % doanh
nghiệp Nhà nước, gần 4 0 % các doanh nghiệp tư nhân và công ty liên doanh có
giá không cạnh tranh. Vì thế, các doanh nghiệp đều có xu hướng giảm giá dịch
vụ, dẫn đến sự cạnh tranh quyết liệt nhưng vô tổ chức vềgiá dịch vụ hàng hải, gây
thiệt hại không í đến các doanh nghiệp kinh doanh, đặc biệt những doanh nghiệp
t
làm ăn chân chính.
Tạp chí Hàng hải Việt Nam - 2004
Trần Tường Vân A14K40 - KTNT
55
Các giải pháp phát triển dịch vụ hàng hải ở Việt Nam
Bảng 6: Các khó khăn doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ hàng hải gặp
phải khi bán dịch vụ cho khách hàng
• Không khó khan
• Giá không cạnh tranh
• Không đáp ứng các yêu cẩu dặc
biệt
• M ạ n g lưới dịch v ụ hẹp
• Thiếu nhăn lực có nghiệp vụ
• Thị [rường phản chia
• Tầm lý ưa chuộng cồng ty nước
ngoài
• Khác
Nguồn: Investconsult
( DNNN: Doanh nghiệp Nhà nước; DNTN: Doanh nghiệp tư nhân; CTLD: Cõng
ty liên doanh)
1.5. Về trình độ nghề nghiệp và năng lực kinh doanh của các doanh nghiệp
Hoạt động dịch vụ hàng hải không cần nhiều vốn đầu tư ban đầu như vận
chuyển hàng hóa bằng đường biển. Tuy nhiên điều này không có nghĩa các doanh
nghiệp không cần chú trọng đầu tư. Cụ thể là họ phải thường xuyên nâng cao
trình độ cho cán bộ công nhân viên, đầu tư nâng cấp các phương tiện tác nghiệp
như hệ thống máy tính, kho vận và thiết bị vận chuyển, xếp dỡ,...
Trước hết nói về ngu
n nhân lực. Dịch vụ hàng hải yêu cầu thường xuyên
phải tiếp xúc với các tàu nước ngoài, nên địch vụ này không chỉ là hoạt động kinh
Trần Tường Vân A14K40 • KTNT
56
Các giải pháp phát triển dịch vụ hàng hải ở Việt Nam
tế thông thường mà còn liên quan đến vấn đề đối ngoại, vãn hóa và an ninh. Vì
thế, m ỗ i nhân viên không chỉ cần trang bị cho minh một trình độ nghiệp vụ vững
vàng m à phải có thái độ chính trị đúng đắn. Có trình độ ngoại ngữ tốt cũng là một
điều kiện phải có đối với một nhân viên trực tiếp làm dịch vụ hàng hải. Vì thế,
Nghị định 10/2001/NĐ-CP cũng đã quy định, đối với những dịch vụ như đại lý
tàu biặn, đại lý vận tải đường biặn và môi giới hàng hải, nhân viên làm việc v ớ i
khách hàng cần tốt nghiệp Đ ạ i học Hàng hải hoặc Đ ạ i học Ngoại thương, hoặc có
kinh nghiệm làm các nghiệp vụ liên quan đến các dịch vụ nói trên trong một số
năm nhất định. Yêu cầu là thế, nhưng trên thực tí, rất nhiều doanh nghiệp rất tắc
trách trong việc tuyặn dụng nhân viên, dẫn đến tình trạng nhân viên không đủ
năng lực thực hiện công việc kinh doanh, làm cho chất lượng dịch vụ của các
doanh nghiệp thấp. Hiện nay, ngoài một số doanh nghiệp lớn có uy tín, tình trạng
này rất phổ biến.
Tại Việt Nam hiện nay, ngày càng có nhiều đại lý tham gia vào chương
trình đảm bảo chất lượng vì tham gia vào chương trình này là điều kiện đảm bảo
cho các hãng tàu nước ngoài chọn họ làm đại lý và tăng thêm giá trị phục vụ của
họ. Nhiều doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ hàng hải Việt Nam hiện nay cũng đã
rất nỗ lực tham gia thực hiện các yêu cầu của Tổ chức Tiêu chuẩn Quốc tế ISO và
nhiều doanh nghiệp cũng đã được cấp chứng chỉ chất lượng ISO như Vietíracht,
Vinatrans, v.v ..
.
Tiếp đến, chúng ta đề cập đến phương tiện tác nghiệp của các doanh nshiệp
kinh doanh dịch vụ vận tải ở Việt Nam, cụ thặ là việc "máy tính và Intemet hóa"
công việc kinh doanh, đặc biệt là giao dịch với khách hàng. Ngày nay, do công
nghệ thông tin và liên lạc phát triặn, các đối tác làm ăn thường liên hệ công việc
qua Intemet và các phương tiện khác. Điều này đã rút ngắn khoảng các giữa họ,
hơn nữa làm cho quá trình giao dịch diễn ra nhanh chóng, hiệu quả và giảm chi
phí một cách đáng kặ. Ta có lấy cảng Hải Phòng làm ví dụ. Càng này hiện đang
Trần Tường Văn A14K40 - KTNT
57