Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.57 MB, 50 trang )
1. Sông ngòi lục địa Phi
a. Đặc điểm chung
Mạng lưới sông ngòi ở lục địa Phi kém phát triển (diện tích lưu vực không có
dòng chảy chiếm tới 1/3 diện tích lục địa) và phân bố không đều. Nguyên nhân chủ
yếu là do điều kiện khí hậu (lượng mưa hàng năm không nhiều nhưng lượng bốc hơi
lớn, và lượng mưa phân bố không đều theo lãnh thổ).
Hầu hết các sông ở lục địa Phi có nhiều thác, các thác lớn tập trung ở hạ lưu.
Nguyên nhân là trên bề mặt lục địa các sơn nguyên và bồn địa xen kẻ nhau, đồng
thời bờ lục địa được nâng lên mạnh, nên khi sông đổ ra biển phải vượt qua các thác
lớn.
Ở châu Phi các thềm lục địa rất kém phát triển nên nhiều sông lớn khi đổ ra đại
dương không tạo được các đồng bằng châu thổ ở hạ lưu
Ở lục địa Phi chế độ nước sông phụ thuộc chặt chẽ vào chế độ mưa và có thể
chia các sông thành 4 kiểu chính. Các sông miền xích đạo có nhiều nước quanh năm,
nhưng có 2 thời kỳ nước tương đối lớn vào xuân - hè và thu- đông phù hợp với 2 kỳ
mưa lớn trong năm. Các sông miền cận xích đạo gió mùa có 1 thời kỳ nước lớn vào
mùa hè và 1 thời kỳ nước cạn nhất vào cuối mùa đông. Các sông miền nhiệt đới
thường bị khô hạn, chỉ có nước vào những thời kỳ mưa bất thường và tồn tại trong 1
thời gian ngắn. Các sông miền cận nhiệt đới có nước lớn vào mùa đông và cạn vào
mùa hè.
b. Các lưu vực sông
b.1. Lưu vực Ðại Tây Dương:
Lưu vực Ðại Tây Dương chiếm diện tích rộng nhất với 36 % diện tích lục địa.
Các sông lớn là Công gô (4320 km), Nigie (4160 km ), Sénégan (1430 km), Orangiơ
(1820km).
Sông Côngô: có diện tích lưu vực lớn nhất Châu Phi, bắt nguồn từ miền đất
cao Catanga sau đó chảy qua bồn địa Côngô và đổ về Đại Tây Dương. Sông nằm chủ
yếu trong các đới khí hậu xích đạo và gió mùa, nên mạng lưới sông phát triển với
nhiều phụ lưu chảy trên cả hai nửa cầu, sông có nhiều nước và đầy nước quanh năm.
Có 2 thời kỳ nước lớn, một vào tháng 10-11 do nước mưa mùa hè ở bán cầu Bắc và
một vào tháng 4 liên quan với nước mưa mùa hè ở bán cầu Nam.
Hệ thống sông Công gô do có nhiều thác lớn nên có trữ lượng thủy năng rất
lớn
b.2. Lưu vực Ðịa Trung Hải:
Lưu vực Ðịa Trung Hải chiếm 15% diện tích Châu Phi, lớn nhất là sông Nin
(dài nhất lục địa Châu Phi 6670 km ).
Sông Nin bắt nguồn từ sơn nguyên Đông Phi lần lượt chảy qua các hồ
Victoria, Kioga, Anbe, sau đó đổ vào miền đồng bằng thượng sông Nin, rồi tiếp tục
chảy về phía Bắc và đổ ra Địa Trung Hải. Từ thượng lưu đến Khactum, sông có tên
là sông Nin trắng, sông Nin trắng tiếp tục nhận nhiều phụ lưu lớn, trong đó sông Nin
xanh là quan trọng nhất, từ Khactum ra đến biển có tên là sông Nin.
Sông Nin chảy qua nhiều đới khí hậu khác nhau: xích đạo, gió mùa xích đạo,
nhiệt đới và cận nhiệt đới, nên ở thượng lưu sông có nhiều nước do mưa xích đạo và
mưa gió mùa, ở trung và hạ lưu sông chảy qua miền sa mạc Xahara, nên lưu lượng
sông càng về hạ lưu càng giảm. Chế độ sông Nin phụ thuộc chặt chẽ vào chế độ sông
Nin xanh (cung cấp cho sông Nin 57% khối lượng nước).
Sông Nin (đoạn chảy qua Ai Cập)
b.3. Lưu vực Ấn Độ Dương:
Lưu vực Ấn Độ Dương chiếm 18,5% diện tích Châu Phi, các sông lớn nhất lưu
vực là sông Dămbedơ (2600 km), sông Giuba (1600 km) và sông Limpippô (1600
km).
Sông Dămbedơ là sông lớn nhất, từ thượng nguồn cho đến thác Victoria, sông
chảy trên 1 sơn nguyên cao và tương đối bằng phẳng (sơn nguyên Lunđa-Catanga),
phía dưới thác Victoria, sông chảy trong 1 thung lũng kiến tạo hẹp qua nhiều ghềnh
đá khác nhau rồi đổ ra Ấn Độ Dương. Ở hạ lưu sông bồi thành châu thổ rộng 8.000
km2.
Sông chảy trong miền khí hậu gió mùa xích đạo có nước lớn vào mùa hạ (từ
tháng 11-3).
b.4. Lưu vực nội lưu:
Lưu vực nội lưu thường là các sông nhỏ đổ vào các hồ hoặc các sông tạm thời
chỉ có nước vào những lúc có mưa bất thường. Đáng chú ý là sông Sari (1500 km)
chảy vào hồ Sat và sông Oacavangô (1600 km) đổ vào đầm lầy Ocavangô.
2. Lục địa Á-Âu
a. Đặc điểm chung
Lục địa này có nhiều hệ thống sông lớn bậc nhất thế giới, lượng nước đổ ra
biển, đại dương chiếm 2/3 khối lượng dòng chảy của thế giới. Nguyên nhân là do
kích thước lục địa rộng lớn, núi và sơn nguyên cao tập trung ở trung tâm, có băng hà
phát triển. Hơn nữa nhiều sông chảy qua các sơn nguyên và đồng bằng rộng, khí hậu
ẩm ướt.
Sự phân bố mạng lưới sông và chế độ nước sông không đồng đều. Nơi mưa
nhiều mạng lưới sông phát triển, sông nhiều nước và ngược lại. Các vùng Trung Á,
bán đảo Arap mạng lưới thưa thớt và thậm chí không có dòng chảy.
Chế độ nước sông phụ thuộc chặt chẽ vào nguồn cung cấp nước:
- Sông chảy trong miền khí hậu Xích đạo và ôn đới hải dương có nguồn cung
cấp nước chủ yếu do mưa thì sông nhiều và đầy nước quanh năm.
- Sông chảy trong miền khí hậu gió mùa thì nước sông lớn vào mùa hạ-thu và
cạn vào đông xuân.
- Sông chảy trong miền khí hậu cận nhiệt Địa Trung Hải có nước sông lớn vào
thu đông và cạn vào mùa hạ.
- Sông chảy trong miền khí hậu ôn đới và cận cực thường có nước lớn vào cuối
xuân đầu hạ và đóng băng vào mùa đông.
- Sông chảy trong miền khí hậu khô hạn nguồn cung cấp nước chủ yếu là do
tuyết và băng tan từ núi cao nên có nước lớn vào cuối mùa xuân, đầu mùa hạ và lưu
lượng giảm dần về hạ lưu.
b. Các lưu vực sông
b.1. Lưu vực Bắc Băng Dương
Các sông lớn là sông Obi, Enisei, Lena và Kolyma. Tất cả các sông đều bắt
nguồn từ vùng núi Nam Siberi rồi chảy về phía Bắc qua các đới khí hậu ôn đới, cận
cực và cực.
Nguồn cung cấp nước chủ yếu do tuyết tan và mưa vào mùa xuân-hạ. Lượng
mưa tuy không nhiều nhưng do nước bốc hơi kém nên mạng lưới sông rất dày.
Các sông có nước lớn vào cuối mùa xuân và đầu mùa hạ. Ở các sông lớn vào
cuối mùa xuân thường có lũ băng ở phần trung lưu và hạ lưu. Về mùa đông, các sông
bị đóng băng trong một thời gian dài. Tuy nhiên, các sông vẫn có giá trị về giao
thông (mùa hạ) và có dự trữ thủy năng lớn.
Hệ thống sông lớn nhất của lưu vực Bắc Băng Dương là Obi-Irtysh. Sông Obi
cùng phụ lưu lớn của nó là Irtysh làm thành một hệ thống dài tới 5410km. Sông Obi
là con sông đồng bằng điển hình. Độ dốc của sông rất bé (từ 8- 10cm/km) nên quanh
năm nước chảy êm đềm. Phần hạ lưu sông đổ vào một vịnh cửa sông gọi là vịnh Obi,
dài gần 1000km
Ngoài Obi, ở Siberi còn có hệ thống sông Enisei và Lena là hai hệ thống sông
lớn, chảy dọc theo rìa phía Tây và Đông sơn nguyên Trung Siberi. Diện tích lưu vực
hai sông này tuy nhỏ hơn Obi nhưng lưu lượng và dao động mực nước giữa hai mùa
lại lớn hơn. Hiện tượng trái ngược trên đây chủ yếu do các sông chảy trên các vùng
núi và sơn nguyên có nhiều băng tuyết đông kết vĩnh cửu. Về mùa xuân, khi tuyết tan
thì đất vẫn còn đóng băng, nước không ngấm được vào đất nên theo sườn dốc chảy
vào sông. Các sông có nước lớn vào cuối xuân và đầu hạ, sang mùa đông thì nước
cạn và bị đóng băng một thời gian khá dài.
Sông Obi đóng băng về mùa đông
b.2. Lưu vực Thái Bình Dương
Lưu vực này bao gồm tất cả các sông của miền Đông Á và các vùng đảo trong
Thái Bình Dương. Các sông lớn nhất là Amur (Hắc Long Giang), Hoàng Hà, Trường
Giang, Mê Kông, Mê Nam.
Phần lớn các sông thuộc lưu vực này đều chảy trong miền khí hậu gió mùa nên
sông có nước lớn vào cuối mùa hạ, đầu mùa thu và nước cạn vào cuối mùa đông, đầu
mùa xuân. Vào mùa hạ, các sông thường có lũ lụt lớn gây tai họa cho sản xuất nông
nghiệp và đời sống của cư dân.
Do điều kiện khí hậu và nguồn cung cấp nước khác nhau nên chế độ nước các
sông không đồng nhất trên toàn khu vực.
- Các sông miền duyên hải Bắc Viễn Đông và Kamchatka, do địa thế hẹp nên
rất ngắn. Sông có lượng nước lớn vào cuối mùa xuân do tuyết tan từ trên núi xuống.
Lượng nước chảy trong thời kỳ này chiếm tới 60% lưu lượng dòng chảy cả năm. Các
sông ở Kamchatka, về mùa hạ, còn có nước băng tan và mưa phối hợp nên vẫn đầy
nước. Về mùa đông các sông bị đóng băng hoàn toàn.
- Vùng Đông Á (bao gồm cả lãnh thổ Trung Quốc, bán đảo Triều Tiên, Nam
Viễn Đông và Nhật Bản) có địa thế rộng lớn và mưa nhiều nên có nhiều sông lớn.
Các sông quan trọng nhất là Amur, Hoàng Hà và Trường Giang.
Sông Amur là sông lớn nhất của miền Nam Viễn Đông Liên bang Nga. Trên
một quãng dài, nó là biên giới tự nhiên giữa Trung Quốc và Nga. Sông Amur dài gần
4500km, có nhiều nước (lưu lượng trung bình 12.500m³/s)
Hoàng Hà chỗ chế độ nước sông phức tạp hơn sông Amur. Con sông này bắt
nguồn từ sơn nguyên Tây Tạng, phần thượng lưu chảy trong miền núi cao. Nguồn
nước tạo thành dòng sông ở đầu nguồn là do tuyết và băng tan từ núi cao xuống, vì
thế phần thượng lưu sông có nước lớn nhất vào cuối mùa xuân và đầu mùa hạ. Phần
trung và hạ lưu chịu ảnh hưởng của mưa gió mùa nên có nước lớn nhất vào cuối mùa
hạ, về mùa đông, nước sông bị khô cạn. Hoàng Hà có chế độ nước thất thường, mực
nước chênh lệch giữa hai mùa rất lớn, vào cuối mùa hạ thường có lũ nguy hiểm.
Sông Hoàng Hà
Trường Giang cũng bắt nguồn từ sơn nguyên Tây Tạng, sau đó chảy qua bồn
địa Tứ Xuyên, qua miền Hoa Trung rồi đổ ra biển. Trường Giang tuy chảy trong đới
khí hậu cận nhiệt gió mùa tương tự như Hoàng Hà nhưng lại là dòng sông có nhiều
nước và chế độ nước tương đối điều hòa. Sở dĩ có sự khác nhau như vậy là do ở lưu
vực Trường Giang ngoài tuyết và băng tan từ trên núi, mưa gió về mùa hạ, về mùa
đông sông nó còn nhận được nước do hoạt động của khí xoáy.
- Chế độ nước của các sông trên bán đảo Trung Ấn phụ thuộc chặt chẽ vào chế
độ mưa gió mùa xích đạo. Mực nước lớn nhất thường vào cuối mùa hạ và cạn nhất
vào cuối mùa đông, đầu mùa xuân.
Sông Mê Kông là con sông lớn nhất trên bán đảo Trung Ấn. Sông bắt nguồn từ
sơn nguyên Tây Tạng, dài 4500km. Nguồn cung cấp nước chủ yếu do mưa gió mùa
về mùa hạ và tuyết, băng tan từ thượng nguồn xuống. Mực nước sông tuy thay đổi
theo hai mùa rất rõ nhưng phần hạ lưu nhờ có Biển Hồ Tonlé Sap điều tiết nên về
mùa cạn nước sông còn khá lớn. Lưu lượng trung bình ở cửa sông là hơn
15.000km³/s, thời kỳ lũ là 30.000km³/s và thời kỳ cạn nhất là 1500km³/s. Ở hạ lưu
sông bồi thành một châu thổ rộng tới 70.000km².
- Vùng quần đảo Mã Lai nằm trong miền xích đạo nóng và ẩm ướt quanh năm,
có mạng lưới sông dày đặc và chế độ nước sông rất điều hòa. Các sông có nhiều
nước quanh năm, mực nước chênh lệch giữa mùa cạn và mùa lũ không đáng kể. Tuy
nhiên do địa thế hẹp, các đảo có nhiều núi non hiểm trở nên các sông thường ngắn và
có nhiều thác ghềnh. Các sông không thuận tiện cho giao thông nhưng có nhiều tiềm
năng về thủy điện.
b.3. Lưu vực Ấn Độ Dương
Lưu vực này gồm các sông thuộc Tây Nam Á, Nam Á và phần Tây bán đảo
Trung Ấn.
- Ở Tây Nam Á, mạng lưới sông rất thưa thớt trong đó nhiều vùng rộng không
có dòng chảy thường xuyên. Có hai sông khu vực này là Euphrates và Tigris chảy từ
sơn nguyên Armenia xuống. Nhờ nguồn nước tuyết và mưa trên núi phong phú mới
có thể vượt qua vùng đồng bằng Lưỡng Hà khô hạn để ra vịnh Persian.
Các sông có hai thời kỳ nước lớn, một vào mùa xuân do tuyết tan trên núi và
một vào mùa đông do mưa trên đồng bằng. Mùa hạ khô và nóng, nước bốc hơi mạnh
nên mực nước rất thấp và lưu lượng càng về hạ lưu thì càng giảm dần.
- Các sông thuộc những lưu vực còn lại đều chịu ảnh hưởng của chế độ mưa
gió mùa nên chế độ tương tự như các sông ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á. Các
sông đáng chú ý nhất là Ấn, Hằng, Brahmaputra và Salween.
b.4. Lưu vực Đại Tây Dương
Lưu vực bao gồm các sông chảy trên phần đất châu Âu đổ vào Địa Trung Hải,
Bắc Hải và biển Bantich
Ở đây sông ngòi rất phát triển và phân bố đều trên toàn lãnh thổ, tạo thành
mạng lưới sông ngòi dày đặc. Tuy nhiên đa phần đều là các sông ngắn, diện tích lưu
vực nhỏ. Đường phân thủy (đường chia nước) giữa các lưu vực sông thấp nên hệ
thống kênh đào nối liền các sông rất phát triển, giao thông thủy rất thuận lợi
Riêng vùng Bắc Âu và phần Bắc Đồng bằng Nga, do chịu ảnh hưởng của băng
hà Đệ Tứ nên sông trẻ nhiều thác ghềnh và nối liền với các hồ (nguồn gốc băng hà)
tạo thành mạng lưới sông hồ phức tạp.
Các sông lớn nhất là Vonga và Đanuyp
- Sông Vonga dài nhất (3690km) và nhiều nước nhất châu Âu. Sông bắt nguồn
từ miền đất cao Trung Nga và chảy vào Caxpi, ở hạ lưu sông bồi thành đồng bằng
châu thổ tương đối rông (13 000km2)
Nguồn cung cấp nước cho sông bao gồm tuyết tan (60%), nước ngầm (30%)
và nước mưa (10%). Về thủy chế, sông có hai thời kì nước lớn là cuối xuân đầu hạ từ
tháng 3-4, và cuối mùa thu từ 10-11 do mưa. Hiện nay do xây dựng các đạp thủy điện
nên chế độ nước điều hòa hơn, càng về hạ lưu thì lưu lượng nước càng giảm dần
- Sông Đanuyp dài thứ hai châu Âu (2850km) bắt nguồn từ sườn Đông dãy
Xvacxvan (Liên bang Đức) qua nhiều nước châu Âu và đổ về biển Đen. Ở hạ lưu
sông có bồi thành đồng bằng nhưng diện tích nhỏ.
Ở thượng lưu nguồn cung cấp nước cho sông chủ yếu từ băng tuyết tan còn ở
trung và hạ lưu sông nhận nguồn nước do mưa vào mùa xuân và hạ nên sông có nước
lớn vào mùa hạ và cạn vào mùa đông
b. 5. Lưu vực nội lưu
Lưu vực nội lưu gồm các sông chảy trong miền Trung Á, Nội Á và sơn nguyên
Iran. Các vùng này tuy thuộc đới khí hậu khô, lượng mưa hằng năm không đáng kể
song các sông tồn tại được là nhờ có nguồn tuyết và băng tan từ trên núi cao cung
cấp.
Các sông lớn nhất là Syr Darya và Amu Darya, bắt nguồn từ vùng núi cao
Thiên Sơn, Pamir rồi chảy qua các hoang mạc cát Trung Á và đổ vào hồ Aral, sông
Ili đổ vào hồ Balkhash. Một số sông như Murghab thì cạn dần khi đổ vào các hoang
mạc cát.
Các sông ở khu vực nội lưu đều có nước lớn vào cuối mùa xuân và mùa hạ,
nhưng lưu lượng của chúng giảm dần từ nguồn đến hạ lưu.
3. Lục địa Bắc Mĩ
a. Đặc điểm chung
Mạng lưới sông ngòi khá dày đặc và phân bố tương đối đều trên toàn lục địa
(vùng đất không có dòng chảy chỉ chiếm diện tích không đáng kể). Do đại bộ phận
lục địa nằm trong phạm vi các đới khí hậu cận nhiệt, ôn đới, cận cực dù lượng mưa
không lớn nhưng lượng nước bốc hơi nhỏ nên lượng dòng chảy lớn chỉ sau lục địa ÁÂu và Nam Mĩ.
Phần lớn các sông đổ vào Đại Tây Dương, riêng Thái Bình Dương và Bắc
Băng Dương chỉ có một số ít.
Đa số các sông ở đây có nguồn cung cấp nước hỗn hợp, vừa do băng tuyết tan
vừa do mưa. Thời kì nước lớn vào cuối xuân đầu hạ. Một số ít sông có nước lớn vào
mùa đông (khu vực khí hậu Địa Trung Hải)
b. Các lưu vực sông lớn
b.1. Lưu vực Thái Bình Dương
Bao gồm các sông chảy từ sườn Tây của hệ thống Coocd-đi-e xuống biển. Do
hệ thống núi này cao và nằm sát biển, bởi vậy các sông ở lưu vực đều ngắn và chảy
xiết, có nhiều thung lũng sâu và nhiều thác ghềnh. Các sông có hai nhóm với chế độ
nước khác nhau
Các sông phía Bắc vĩ tuyến 40 0B chảy trong miền có nhiều mưa nên lượng
dòng chảy lớn nhất lục địa. Các sông bị đóng băng vào mùa đông và và nước lớn vào
mùa hạ như Yu-côn (3700km) và Columbia (2250km)
Các sông phía Nam vĩ tuyến 40 0B chảy trong miền khí hậu khô hạn có nguồn
cung cấp nước là mưa và băng tuyết tan. Sông lớn nhất là Cô-lô-ra-đô (2740km)
chảy từ dãy Thạch Sơn qua cao nguyên Cô-lô-ra-đô và đổ vào vịnh Caliphonia. Sông
này cắt qua một miền địa chất đá rắn nên tạo thành nhiều hẻm vực sâu, nhiều thác
ghềnh.
Một đoạn sông Cô-lô-ra-đô ở Hẻm vực Lớn
b.2. Lưu vực Bắc Băng Dương
Lưu vực này đa số là các sông trẻ mới được hình thành sau băng hà Đệ Tứ.
Các sông thường có nước lớn vào cuối xuân đầu hạ. Do ảnh hưởng của tầng đông kết
vĩnh cửu nên trong thời kì tuyết tan, nước dồn xuống sông rất nhanh gây lụt lội, đặc
biệt là các sông chảy theo hướng Nam-Bắc. Các sông thường nối với hồ tạo thành
mạng lưới sông-hồ phức tạp
Hai sông lớn nhất là Mackendi (4600km) và Xaxcacheoan-Nenxon (2600km)
b.3. Lưu vực Đại Tây Dương
Lưu vực Đại Tây Dương rộng lớn nhất và có nhiều sông lớn do có địa thế rộng
và lượng mưa khá phong phú. Các sông lớn như Mixixipi, Xanh Lo-răng
Sông Mixixipi lớn nhất Bắc Mĩ có nhiều phụ lưu (Acandat, Ohaio, Tennetxi...)
với tổng chiều dài 6400km, rộng 3,3 triệu km 2. Các phụ lưu chảy trong nhiều điều
kiện khí hậu khác nhau nên chế độ dòng chảy khác nhau. Các phụ lưu ở hữu ngạn
tiếp nước vào cuối xuân đầu hè do băng tuyết tan, và cung cấp lượng lớn phù sa cho
sông. Các phụ lưu ở tả ngạn nằm trong miền có nhiều mưa và phân bố mưa đều
quanh năm nên cung cấp phần lớn lượng nước cho trung và hạ lưu sông chính.
Ở hạ lưu Mixixipi bồi đắp đồng bằng châu thổ rộng lớn, hàng năm đều mở
rộng về phía biển
4. Lục địa Nam Mĩ
a. Đặc điểm chung
Nam Mĩ có mạng lưới sông ngòi dày, có nhiều sông lớn, đầy nước quanh năm
và phân bố khá đều trên toàn lục địa. Hàng năm các sông đổ vào đaị dương lượng
nước bằng 20% lượng dòng chảy của các sông toàn thế giới
Đường phân thủy chính của lục địa chạy dọc theo hệ thống núi Andet chia lục
địa thành hai phần cực kì chênh lệch: phần phía Tây thuộc lưu vực Thái Bình Dương
chỉ rộng 1,34 triệu km2 với các sông nhỏ còn phía Đông là thuộc lưu vực Đại Tây
Dương rộng 15,65 triệu km2 gồm tất cả các sông lớn và trung bình
Nguồn cung cấp nước chủ yếu do mưa bởi vậy chế độ nước sông chủ yếu phụ
thuộc vào chế độ mưa. Chỉ có một số sông nhỏ ở phía Nam có thêm nguồn cung cấp
nước từ băng tuyết.
b. Một số lưu vực sông lớn
Lục địa Nam Mĩ có nhiều sông lớn chỉ sau lục địa Á-Âu như sông Amazon
(6430km), Parana (3300km), Xan Phranxico (2800km), Ô-ri-nô-cô (2500km)
Sông Amazon có diện tích lưu vực lớn nhất thế giới (7 triệu km 2) bắt nguồn từ
Andet chảy theo hướng Tây Đông qua đồng bằng Amazon và đổ ra Đại Tây Dương.
Sông có trên 500 phụ lưu. Sông nhiều nước nhất thế giới với chế độ nước điều hòa,
đầy quanh năm. Hai thời kì nước lớn hơn là: lần thứ nhất vào tháng 5 sau mùa mưa ở
Nam bán cầu, lần thứ hai vào tháng 11 sau mùa mưa ở Bắc bán cầu. Khối lượng phù
sa mang ra biển lớn nhưng do đáy biển ở vùng cửa sông khá sâu và dọc theo bờ có
dòng biển chảy mạnh nên việc bồi đắp châu thổ bị hạn chế.
5. Lục địa Úc và các đảo Châu Đại Dương
Đối với lục địa Úc mạng lưới sông ngòi kém phát triển, lượng dòng chảy thấp
nhất thế giới. Trên toàn bộ lục địa chỉ có khoảng 40% diện tích có dòng chảy thường
xuyên còn lại 60% diện tích thuộc lưu vực nội địa (không có dòng chảy hoặc dòng
chảy tạm thời). Nguyên nhân là do lượng mưa hàng năm trên lục địa ít trong khi
lượng bốc hơi quá lớn.
Nguồn cung cấp nước chính cho sông từ nước mưa nên hầu hết các sông đều
có chế độ nước chảy theo mùa rõ rệt. Các sông chảy về phía Bắc hoặc đổ vào Thái
Bình Dương là những sông có nhiều nước hơn, nước lớn vào mùa hè. Các sông chảy
ở vùng duyên hải phía Tây và Tây nam có nước chủ yếu vào mùa đông và mùa hè
cạn khô.
Trên các đảo Châu Đại Dương lượng dòng chảy khá lớn nhưng do kích thước
các đảo nhỏ nên các sông đều ngắn
V- ẢNH HƯỞNG CỦA SÔNG NGÒI ĐẾN CÁC THÀNH PHẦN TỰ NHIÊN
Sông ngòi là một trong các thành phần của tự nhiên, theo qui luật thống nhất
và hoàn chỉnh của lớp vỏ địa lí thì sông ngòi có mối quan hệ mật thiết với các thành
phần tự nhiên còn lại.
1. Địa hình bề mặt Trái Đất
Dòng chảy sông ngòi là một trong các nhân tố ngoại lực có tác động đến địa
hình bề mặt Trái Đất. Sông ngòi phá vỡ, san bằng địa hình do nội lực tạo nên và
đồng thời cũng tạo ra các dạng địa hình mới.
a. Quá trình xâm thực
Xâm thực do dòng chảy thường xuyên (sông ngòi) diễn ra chủ yếu theo chiều
sâu với tốc độ nhanh tạo thành dạng địa hình phổ biến trên Trái Đất đó là các thung
lũng sông. Đây là dạng địa hình âm kéo dài do xâm thực của dòng chảy sông ngòi tạo
thành, có hướng dốc phù hợp với hướng dốc của dòng chảy.
Các bộ phận chính của thung lũng sông gồm: lòng sông, bãi bồi, thềm sông.
Lòng sông là bộ phận sâu nhất của thung lũng sông, thường xuyên có nước chảy. Bãi
bồi là bề mặt tích tụ tương đối bằng phẳng được phân bố ven sông, bị ngập nước vào
mùa lũ. Bãi bồi có thể không bị ngập nước ngay cả vào mùa lũ lớn, lúc ấy người ta
gọi là thềm sông.
Xâm thực theo chiều sâu của sông ngòi ở miền núi - nơi có độ dốc đáy sông
lớn hình thành các thác ghềnh ví dụ như thác nước Angel trên con sông Churun
(Venezuela).
b. Quá trình bồi tụ
Ở hạ lưu sông, phù sa lắng đọng trong những điều kiện thuận lợi nhất định
hình thành đồng bằng châu thổ như Đồng bằng châu thổ sông Hoàng Hà, sông Nin ...
Những điều kiện đó là: lượng phù sa sông lớn, khu vực gần cửa sông nông, sóng biển
nhỏ và thủy triều yếu.
Trong trường hợp không thuận lợi cho việc hình thành đồng bằng châu thổ
như sông ít phù sa, nước triều lớn, ... sẽ hình thành nên các cửa sông hình phễu. Một
số cửa sông hình phễu như cửa sông Tiền Đường ở Trung Quốc (thủy triều lớn), hoặc
cửa sông Cấm ở Việt Nam (ít phù sa sông)....
Quá trình tích tụ của các vật liệu phá hủy do dòng nước mang theo ở chân núi
(trước núi) tạo thành một bề mặt rộng và nghiêng nằm chuyển tiếp từ miền núi xuống
đồng bằng hình thành nên các đồng bằng trước núi. Ví dụ như dải đồng bằng dạng
đồi thoải cao 20-50m ở phía Đông núi Ba Vì (Việt Nam).
2. Khí quyển
Nước từ sông ngòi bốc hơi cung cấp độ ẩm cho khí quyển nhất là sâu trong lục
địa, ít chịu ảnh hưởng của biển và đại dương. Lượng hơi ẩm đó có ý nghĩa rất lớn với
các hiện tượng thời tiết như gây mưa, ...
3. Thủy quyển
Sông ngòi là một khâu quan trọng trong tuần hoàn nước trên Trái Đất, vận
chuyển nước từ lục địa ra biển, đại dương để tạo thành một vòng tròn khép kín.
Không chỉ vậy, dòng chảy sông ngòi còn rửa trôi thổ nhưỡng, hòa tan các chất
khoáng, muối mang ra biển và đại dương (là một trong các giả thuyết giải thích độ
mặn của nước biển và đại dương). Dưới tác dụng của bức xạ Mặt Trời, nước từ các
sông ngòi cũng bốc hơi và tham gia vào vòng tuần hoàn nhỏ trên Trái Đất.
Ven các lục địa và nhất là các cửa sông, độ mặn của biển và đại dương giảm
(do nước sông hòa vào nước biển). Ví dụ độ mặn ở Hòn Dấu (trong vịnh Bắc Bộ) chỉ
15‰ do nước của sông Thái Bình đổ ra.
Do quá trình uốn khúc của dòng chảy sông ngòi (nhiều nguyên nhân khác
nhau) nên độ cong các khúc uốn ngày càng lớn. Khi khoảng cách giữa hai khúc uốn
kề nhau ngày càng nhỏ (cổ khúc uốn), cổ khúc uốn thu hẹp, dòng nước có thể phá vỡ