1. Trang chủ >
  2. Luận Văn - Báo Cáo >
  3. Báo cáo khoa học >

b. Các lưu vực sông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.57 MB, 50 trang )


chảy về phía Bắc và đổ ra Địa Trung Hải. Từ thượng lưu đến Khactum, sông có tên

là sông Nin trắng, sông Nin trắng tiếp tục nhận nhiều phụ lưu lớn, trong đó sông Nin

xanh là quan trọng nhất, từ Khactum ra đến biển có tên là sông Nin.

Sông Nin chảy qua nhiều đới khí hậu khác nhau: xích đạo, gió mùa xích đạo,

nhiệt đới và cận nhiệt đới, nên ở thượng lưu sông có nhiều nước do mưa xích đạo và

mưa gió mùa, ở trung và hạ lưu sông chảy qua miền sa mạc Xahara, nên lưu lượng

sông càng về hạ lưu càng giảm. Chế độ sông Nin phụ thuộc chặt chẽ vào chế độ sông

Nin xanh (cung cấp cho sông Nin 57% khối lượng nước).



Sông Nin (đoạn chảy qua Ai Cập)

b.3. Lưu vực Ấn Độ Dương:

Lưu vực Ấn Độ Dương chiếm 18,5% diện tích Châu Phi, các sông lớn nhất lưu

vực là sông Dămbedơ (2600 km), sông Giuba (1600 km) và sông Limpippô (1600

km).

Sông Dămbedơ là sông lớn nhất, từ thượng nguồn cho đến thác Victoria, sông

chảy trên 1 sơn nguyên cao và tương đối bằng phẳng (sơn nguyên Lunđa-Catanga),

phía dưới thác Victoria, sông chảy trong 1 thung lũng kiến tạo hẹp qua nhiều ghềnh

đá khác nhau rồi đổ ra Ấn Độ Dương. Ở hạ lưu sông bồi thành châu thổ rộng 8.000

km2.

Sông chảy trong miền khí hậu gió mùa xích đạo có nước lớn vào mùa hạ (từ

tháng 11-3).

b.4. Lưu vực nội lưu:

Lưu vực nội lưu thường là các sông nhỏ đổ vào các hồ hoặc các sông tạm thời

chỉ có nước vào những lúc có mưa bất thường. Đáng chú ý là sông Sari (1500 km)

chảy vào hồ Sat và sông Oacavangô (1600 km) đổ vào đầm lầy Ocavangô.

2. Lục địa Á-Âu

a. Đặc điểm chung

Lục địa này có nhiều hệ thống sông lớn bậc nhất thế giới, lượng nước đổ ra

biển, đại dương chiếm 2/3 khối lượng dòng chảy của thế giới. Nguyên nhân là do

kích thước lục địa rộng lớn, núi và sơn nguyên cao tập trung ở trung tâm, có băng hà



phát triển. Hơn nữa nhiều sông chảy qua các sơn nguyên và đồng bằng rộng, khí hậu

ẩm ướt.

Sự phân bố mạng lưới sông và chế độ nước sông không đồng đều. Nơi mưa

nhiều mạng lưới sông phát triển, sông nhiều nước và ngược lại. Các vùng Trung Á,

bán đảo Arap mạng lưới thưa thớt và thậm chí không có dòng chảy.

Chế độ nước sông phụ thuộc chặt chẽ vào nguồn cung cấp nước:

- Sông chảy trong miền khí hậu Xích đạo và ôn đới hải dương có nguồn cung

cấp nước chủ yếu do mưa thì sông nhiều và đầy nước quanh năm.

- Sông chảy trong miền khí hậu gió mùa thì nước sông lớn vào mùa hạ-thu và

cạn vào đông xuân.

- Sông chảy trong miền khí hậu cận nhiệt Địa Trung Hải có nước sông lớn vào

thu đông và cạn vào mùa hạ.

- Sông chảy trong miền khí hậu ôn đới và cận cực thường có nước lớn vào cuối

xuân đầu hạ và đóng băng vào mùa đông.

- Sông chảy trong miền khí hậu khô hạn nguồn cung cấp nước chủ yếu là do

tuyết và băng tan từ núi cao nên có nước lớn vào cuối mùa xuân, đầu mùa hạ và lưu

lượng giảm dần về hạ lưu.

b. Các lưu vực sông

b.1. Lưu vực Bắc Băng Dương

Các sông lớn là sông Obi, Enisei, Lena và Kolyma. Tất cả các sông đều bắt

nguồn từ vùng núi Nam Siberi rồi chảy về phía Bắc qua các đới khí hậu ôn đới, cận

cực và cực.

Nguồn cung cấp nước chủ yếu do tuyết tan và mưa vào mùa xuân-hạ. Lượng

mưa tuy không nhiều nhưng do nước bốc hơi kém nên mạng lưới sông rất dày.

Các sông có nước lớn vào cuối mùa xuân và đầu mùa hạ. Ở các sông lớn vào

cuối mùa xuân thường có lũ băng ở phần trung lưu và hạ lưu. Về mùa đông, các sông

bị đóng băng trong một thời gian dài. Tuy nhiên, các sông vẫn có giá trị về giao

thông (mùa hạ) và có dự trữ thủy năng lớn.

Hệ thống sông lớn nhất của lưu vực Bắc Băng Dương là Obi-Irtysh. Sông Obi

cùng phụ lưu lớn của nó là Irtysh làm thành một hệ thống dài tới 5410km. Sông Obi

là con sông đồng bằng điển hình. Độ dốc của sông rất bé (từ 8- 10cm/km) nên quanh

năm nước chảy êm đềm. Phần hạ lưu sông đổ vào một vịnh cửa sông gọi là vịnh Obi,

dài gần 1000km

Ngoài Obi, ở Siberi còn có hệ thống sông Enisei và Lena là hai hệ thống sông

lớn, chảy dọc theo rìa phía Tây và Đông sơn nguyên Trung Siberi. Diện tích lưu vực

hai sông này tuy nhỏ hơn Obi nhưng lưu lượng và dao động mực nước giữa hai mùa

lại lớn hơn. Hiện tượng trái ngược trên đây chủ yếu do các sông chảy trên các vùng

núi và sơn nguyên có nhiều băng tuyết đông kết vĩnh cửu. Về mùa xuân, khi tuyết tan



thì đất vẫn còn đóng băng, nước không ngấm được vào đất nên theo sườn dốc chảy

vào sông. Các sông có nước lớn vào cuối xuân và đầu hạ, sang mùa đông thì nước

cạn và bị đóng băng một thời gian khá dài.



Sông Obi đóng băng về mùa đông

b.2. Lưu vực Thái Bình Dương

Lưu vực này bao gồm tất cả các sông của miền Đông Á và các vùng đảo trong

Thái Bình Dương. Các sông lớn nhất là Amur (Hắc Long Giang), Hoàng Hà, Trường

Giang, Mê Kông, Mê Nam.

Phần lớn các sông thuộc lưu vực này đều chảy trong miền khí hậu gió mùa nên

sông có nước lớn vào cuối mùa hạ, đầu mùa thu và nước cạn vào cuối mùa đông, đầu

mùa xuân. Vào mùa hạ, các sông thường có lũ lụt lớn gây tai họa cho sản xuất nông

nghiệp và đời sống của cư dân.

Do điều kiện khí hậu và nguồn cung cấp nước khác nhau nên chế độ nước các

sông không đồng nhất trên toàn khu vực.

- Các sông miền duyên hải Bắc Viễn Đông và Kamchatka, do địa thế hẹp nên

rất ngắn. Sông có lượng nước lớn vào cuối mùa xuân do tuyết tan từ trên núi xuống.

Lượng nước chảy trong thời kỳ này chiếm tới 60% lưu lượng dòng chảy cả năm. Các

sông ở Kamchatka, về mùa hạ, còn có nước băng tan và mưa phối hợp nên vẫn đầy

nước. Về mùa đông các sông bị đóng băng hoàn toàn.

- Vùng Đông Á (bao gồm cả lãnh thổ Trung Quốc, bán đảo Triều Tiên, Nam

Viễn Đông và Nhật Bản) có địa thế rộng lớn và mưa nhiều nên có nhiều sông lớn.

Các sông quan trọng nhất là Amur, Hoàng Hà và Trường Giang.

Sông Amur là sông lớn nhất của miền Nam Viễn Đông Liên bang Nga. Trên

một quãng dài, nó là biên giới tự nhiên giữa Trung Quốc và Nga. Sông Amur dài gần

4500km, có nhiều nước (lưu lượng trung bình 12.500m³/s)

Hoàng Hà chỗ chế độ nước sông phức tạp hơn sông Amur. Con sông này bắt

nguồn từ sơn nguyên Tây Tạng, phần thượng lưu chảy trong miền núi cao. Nguồn



nước tạo thành dòng sông ở đầu nguồn là do tuyết và băng tan từ núi cao xuống, vì

thế phần thượng lưu sông có nước lớn nhất vào cuối mùa xuân và đầu mùa hạ. Phần

trung và hạ lưu chịu ảnh hưởng của mưa gió mùa nên có nước lớn nhất vào cuối mùa

hạ, về mùa đông, nước sông bị khô cạn. Hoàng Hà có chế độ nước thất thường, mực

nước chênh lệch giữa hai mùa rất lớn, vào cuối mùa hạ thường có lũ nguy hiểm.



Sông Hoàng Hà

Trường Giang cũng bắt nguồn từ sơn nguyên Tây Tạng, sau đó chảy qua bồn

địa Tứ Xuyên, qua miền Hoa Trung rồi đổ ra biển. Trường Giang tuy chảy trong đới

khí hậu cận nhiệt gió mùa tương tự như Hoàng Hà nhưng lại là dòng sông có nhiều

nước và chế độ nước tương đối điều hòa. Sở dĩ có sự khác nhau như vậy là do ở lưu

vực Trường Giang ngoài tuyết và băng tan từ trên núi, mưa gió về mùa hạ, về mùa

đông sông nó còn nhận được nước do hoạt động của khí xoáy.

- Chế độ nước của các sông trên bán đảo Trung Ấn phụ thuộc chặt chẽ vào chế

độ mưa gió mùa xích đạo. Mực nước lớn nhất thường vào cuối mùa hạ và cạn nhất

vào cuối mùa đông, đầu mùa xuân.

Sông Mê Kông là con sông lớn nhất trên bán đảo Trung Ấn. Sông bắt nguồn từ

sơn nguyên Tây Tạng, dài 4500km. Nguồn cung cấp nước chủ yếu do mưa gió mùa

về mùa hạ và tuyết, băng tan từ thượng nguồn xuống. Mực nước sông tuy thay đổi

theo hai mùa rất rõ nhưng phần hạ lưu nhờ có Biển Hồ Tonlé Sap điều tiết nên về

mùa cạn nước sông còn khá lớn. Lưu lượng trung bình ở cửa sông là hơn

15.000km³/s, thời kỳ lũ là 30.000km³/s và thời kỳ cạn nhất là 1500km³/s. Ở hạ lưu

sông bồi thành một châu thổ rộng tới 70.000km².

- Vùng quần đảo Mã Lai nằm trong miền xích đạo nóng và ẩm ướt quanh năm,

có mạng lưới sông dày đặc và chế độ nước sông rất điều hòa. Các sông có nhiều

nước quanh năm, mực nước chênh lệch giữa mùa cạn và mùa lũ không đáng kể. Tuy

nhiên do địa thế hẹp, các đảo có nhiều núi non hiểm trở nên các sông thường ngắn và

có nhiều thác ghềnh. Các sông không thuận tiện cho giao thông nhưng có nhiều tiềm

năng về thủy điện.

b.3. Lưu vực Ấn Độ Dương



Lưu vực này gồm các sông thuộc Tây Nam Á, Nam Á và phần Tây bán đảo

Trung Ấn.

- Ở Tây Nam Á, mạng lưới sông rất thưa thớt trong đó nhiều vùng rộng không

có dòng chảy thường xuyên. Có hai sông khu vực này là Euphrates và Tigris chảy từ

sơn nguyên Armenia xuống. Nhờ nguồn nước tuyết và mưa trên núi phong phú mới

có thể vượt qua vùng đồng bằng Lưỡng Hà khô hạn để ra vịnh Persian.

Các sông có hai thời kỳ nước lớn, một vào mùa xuân do tuyết tan trên núi và

một vào mùa đông do mưa trên đồng bằng. Mùa hạ khô và nóng, nước bốc hơi mạnh

nên mực nước rất thấp và lưu lượng càng về hạ lưu thì càng giảm dần.

- Các sông thuộc những lưu vực còn lại đều chịu ảnh hưởng của chế độ mưa

gió mùa nên chế độ tương tự như các sông ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á. Các

sông đáng chú ý nhất là Ấn, Hằng, Brahmaputra và Salween.

b.4. Lưu vực Đại Tây Dương

Lưu vực bao gồm các sông chảy trên phần đất châu Âu đổ vào Địa Trung Hải,

Bắc Hải và biển Bantich

Ở đây sông ngòi rất phát triển và phân bố đều trên toàn lãnh thổ, tạo thành

mạng lưới sông ngòi dày đặc. Tuy nhiên đa phần đều là các sông ngắn, diện tích lưu

vực nhỏ. Đường phân thủy (đường chia nước) giữa các lưu vực sông thấp nên hệ

thống kênh đào nối liền các sông rất phát triển, giao thông thủy rất thuận lợi

Riêng vùng Bắc Âu và phần Bắc Đồng bằng Nga, do chịu ảnh hưởng của băng

hà Đệ Tứ nên sông trẻ nhiều thác ghềnh và nối liền với các hồ (nguồn gốc băng hà)

tạo thành mạng lưới sông hồ phức tạp.

Các sông lớn nhất là Vonga và Đanuyp

- Sông Vonga dài nhất (3690km) và nhiều nước nhất châu Âu. Sông bắt nguồn

từ miền đất cao Trung Nga và chảy vào Caxpi, ở hạ lưu sông bồi thành đồng bằng

châu thổ tương đối rông (13 000km2)

Nguồn cung cấp nước cho sông bao gồm tuyết tan (60%), nước ngầm (30%)

và nước mưa (10%). Về thủy chế, sông có hai thời kì nước lớn là cuối xuân đầu hạ từ

tháng 3-4, và cuối mùa thu từ 10-11 do mưa. Hiện nay do xây dựng các đạp thủy điện

nên chế độ nước điều hòa hơn, càng về hạ lưu thì lưu lượng nước càng giảm dần

- Sông Đanuyp dài thứ hai châu Âu (2850km) bắt nguồn từ sườn Đông dãy

Xvacxvan (Liên bang Đức) qua nhiều nước châu Âu và đổ về biển Đen. Ở hạ lưu

sông có bồi thành đồng bằng nhưng diện tích nhỏ.

Ở thượng lưu nguồn cung cấp nước cho sông chủ yếu từ băng tuyết tan còn ở

trung và hạ lưu sông nhận nguồn nước do mưa vào mùa xuân và hạ nên sông có nước

lớn vào mùa hạ và cạn vào mùa đông

b. 5. Lưu vực nội lưu



Lưu vực nội lưu gồm các sông chảy trong miền Trung Á, Nội Á và sơn nguyên

Iran. Các vùng này tuy thuộc đới khí hậu khô, lượng mưa hằng năm không đáng kể

song các sông tồn tại được là nhờ có nguồn tuyết và băng tan từ trên núi cao cung

cấp.

Các sông lớn nhất là Syr Darya và Amu Darya, bắt nguồn từ vùng núi cao

Thiên Sơn, Pamir rồi chảy qua các hoang mạc cát Trung Á và đổ vào hồ Aral, sông

Ili đổ vào hồ Balkhash. Một số sông như Murghab thì cạn dần khi đổ vào các hoang

mạc cát.

Các sông ở khu vực nội lưu đều có nước lớn vào cuối mùa xuân và mùa hạ,

nhưng lưu lượng của chúng giảm dần từ nguồn đến hạ lưu.

3. Lục địa Bắc Mĩ

a. Đặc điểm chung

Mạng lưới sông ngòi khá dày đặc và phân bố tương đối đều trên toàn lục địa

(vùng đất không có dòng chảy chỉ chiếm diện tích không đáng kể). Do đại bộ phận

lục địa nằm trong phạm vi các đới khí hậu cận nhiệt, ôn đới, cận cực dù lượng mưa

không lớn nhưng lượng nước bốc hơi nhỏ nên lượng dòng chảy lớn chỉ sau lục địa ÁÂu và Nam Mĩ.

Phần lớn các sông đổ vào Đại Tây Dương, riêng Thái Bình Dương và Bắc

Băng Dương chỉ có một số ít.

Đa số các sông ở đây có nguồn cung cấp nước hỗn hợp, vừa do băng tuyết tan

vừa do mưa. Thời kì nước lớn vào cuối xuân đầu hạ. Một số ít sông có nước lớn vào

mùa đông (khu vực khí hậu Địa Trung Hải)

b. Các lưu vực sông lớn

b.1. Lưu vực Thái Bình Dương

Bao gồm các sông chảy từ sườn Tây của hệ thống Coocd-đi-e xuống biển. Do

hệ thống núi này cao và nằm sát biển, bởi vậy các sông ở lưu vực đều ngắn và chảy

xiết, có nhiều thung lũng sâu và nhiều thác ghềnh. Các sông có hai nhóm với chế độ

nước khác nhau

Các sông phía Bắc vĩ tuyến 40 0B chảy trong miền có nhiều mưa nên lượng

dòng chảy lớn nhất lục địa. Các sông bị đóng băng vào mùa đông và và nước lớn vào

mùa hạ như Yu-côn (3700km) và Columbia (2250km)

Các sông phía Nam vĩ tuyến 40 0B chảy trong miền khí hậu khô hạn có nguồn

cung cấp nước là mưa và băng tuyết tan. Sông lớn nhất là Cô-lô-ra-đô (2740km)

chảy từ dãy Thạch Sơn qua cao nguyên Cô-lô-ra-đô và đổ vào vịnh Caliphonia. Sông

này cắt qua một miền địa chất đá rắn nên tạo thành nhiều hẻm vực sâu, nhiều thác

ghềnh.

Một đoạn sông Cô-lô-ra-đô ở Hẻm vực Lớn



b.2. Lưu vực Bắc Băng Dương

Lưu vực này đa số là các sông trẻ mới được hình thành sau băng hà Đệ Tứ.

Các sông thường có nước lớn vào cuối xuân đầu hạ. Do ảnh hưởng của tầng đông kết

vĩnh cửu nên trong thời kì tuyết tan, nước dồn xuống sông rất nhanh gây lụt lội, đặc

biệt là các sông chảy theo hướng Nam-Bắc. Các sông thường nối với hồ tạo thành

mạng lưới sông-hồ phức tạp

Hai sông lớn nhất là Mackendi (4600km) và Xaxcacheoan-Nenxon (2600km)

b.3. Lưu vực Đại Tây Dương

Lưu vực Đại Tây Dương rộng lớn nhất và có nhiều sông lớn do có địa thế rộng

và lượng mưa khá phong phú. Các sông lớn như Mixixipi, Xanh Lo-răng

Sông Mixixipi lớn nhất Bắc Mĩ có nhiều phụ lưu (Acandat, Ohaio, Tennetxi...)

với tổng chiều dài 6400km, rộng 3,3 triệu km 2. Các phụ lưu chảy trong nhiều điều

kiện khí hậu khác nhau nên chế độ dòng chảy khác nhau. Các phụ lưu ở hữu ngạn

tiếp nước vào cuối xuân đầu hè do băng tuyết tan, và cung cấp lượng lớn phù sa cho

sông. Các phụ lưu ở tả ngạn nằm trong miền có nhiều mưa và phân bố mưa đều

quanh năm nên cung cấp phần lớn lượng nước cho trung và hạ lưu sông chính.

Ở hạ lưu Mixixipi bồi đắp đồng bằng châu thổ rộng lớn, hàng năm đều mở

rộng về phía biển

4. Lục địa Nam Mĩ

a. Đặc điểm chung

Nam Mĩ có mạng lưới sông ngòi dày, có nhiều sông lớn, đầy nước quanh năm

và phân bố khá đều trên toàn lục địa. Hàng năm các sông đổ vào đaị dương lượng

nước bằng 20% lượng dòng chảy của các sông toàn thế giới

Đường phân thủy chính của lục địa chạy dọc theo hệ thống núi Andet chia lục

địa thành hai phần cực kì chênh lệch: phần phía Tây thuộc lưu vực Thái Bình Dương

chỉ rộng 1,34 triệu km2 với các sông nhỏ còn phía Đông là thuộc lưu vực Đại Tây

Dương rộng 15,65 triệu km2 gồm tất cả các sông lớn và trung bình

Nguồn cung cấp nước chủ yếu do mưa bởi vậy chế độ nước sông chủ yếu phụ

thuộc vào chế độ mưa. Chỉ có một số sông nhỏ ở phía Nam có thêm nguồn cung cấp

nước từ băng tuyết.



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

×