1. Trang chủ >
  2. Kinh tế - Quản lý >
  3. Chứng khoán >

Trình bày các phương pháp đo lường rủi ro trong đầu tư chứng khoán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 140 trang )


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục



Lợi suất danh mục Rp = ∑ wk * r k







Phương sai của danh mục:σ = ∑∑ wi * w j *σ ij

2







r = w *r + w *r

σ = w1 *σ 1 + w2 *σ 2 + 2 * w * w * Cov(r r )

(r − r ) * (r − r )

Cov( r ; r )= ∑



+) Danh mục gồm 2 chứng khoán:

2



2



2



2



p



1



Hệ số tương quan









2



i



j



r



ij



1



2



i



i







1



1



2



2



j



2



j



N



COV

σ *σ



=



i



ij

j



Hệ số tương quan càng nhỏ thì khả năng giảm thiểu rủi ro càng lớn.

Nếu r = +1 thì không giảm được rủi ro.



PP2 Hệ số beta đo lường sự biến động tỷ suất lợi nhuận của từng cổ phiếu so với sự biến

động tỷ suất lợi nhuận của toàn bộ thị trường

3.Xác định chuỗi return của giá chứng khoán để có được giá chứng khoán trong quá khứ.

Pt − P (t − 1)

Rt=

Pt

Pt= Pđóng cửa * hệ số tách tích lũy + DPS* hệ số tách tích lũy

4.Xác định beta của chứng khoán đã niêm yết

• B1: Xác định chuỗi lợi suất Ri và Rm

• B2: Xác định hiệp phương sai Cov(Ri,Rm)=



 Var (Rm) =



∑ ( Rm − Rm)



∑ ( Ri − Ri) * ( Rm − Rm)

N −1



2



N −1

Cov ( Ri, Rm)

• B3: Xác định β =

Var ( Rm)

5.ƯL beta của chứng khoán chưa niêm yết

• B1: Xác định tỷ trọng đầu tư theo ngành tại DN

• B2: Tính beta của các ngàh hoặc DN điển hình

• B3: Tính theo công thức : β = ∑ w j * β

i







j



Điều chỉnh hệ số beta khi tính đến tác động của đòn bẩy và thuếTNDN



β



UL



β



L



=



β



L



D

E

(1 + (1 − T ) * D / E ) − β



1 + (1 − T ) *







u



debt



(1 − T ) D / E



Ta nhận thấy beta so sánh sự đồng biến động của chứng khoán và thị trường với sự biến

động riêng biệt của thị trường. Hệ số này càng lớn chứng tỏ sự biến động của chứng khoán càng

lớn so với sự biến động của thị trường.



Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục



Beta được xác định với đầu vào là các tỷ suất lợi nhuận, mà tỷ suất này được tính toán dựa

trên các mức giá của cổ phiếu theo thời gian. Xét về mặt toán học, beta chỉ là một công cụ đo

lường khả năng biến động giá của các cổ phiếu so với sự biến động của chỉ số thị trường, nhưng

nó là một đại diện cho rủi ro của doanh nghiệp. Ta có thể giải thích vấn đề này bằng EMH

(Efficient Market Hyppothesis - giả thuyết thị trường hiệu quả). Theo thuyết này, giá cả chứng

khoán sẽ phản ánh tất cả mọi hoạt động của doanh nghiệp. Và như vậy, beta đo lường rủi ro trong

sự thay đổi mức giá của cổ phiếu, cũng chính là đo lường rủi ro của doanh nghiệp.

4. Trình bày các phương thức đầu tư chứng khoán. Nhận xét của anh chị về hoạt động đầu

tư chứng khoán ở Việt Nam hiện nay

Đầu tư chứng khoán là một loại hình đầu tư tài chính. Trong hoạt động này nhà đầu tư bỏ tiền

ra để mua các chứng khoán bao gồm cổ phiếu, trái phiếu, chứng khoán phái sinh. Gía tri của các

chứng khoản phụ thuộc vào năng lực tài chính của nhà phát hành và quan hệ cung cầu của chứng

khoán trên thị trường. Hoạt động đầu tư chứng khoán là hoạt động phức tạp, đòi hỏi các nhà đầu

tư phải có trinh độ chuyên môn cao, am hiểu về thị trường, đồng thời phải có thị trường chứng

khoán phát triển, tạo ra sự sẵn có của các công cụ đầu tư có tính thanh khoản cao.

Các phương thức đầu tư chứng khoán:

1) Theo hình thức đầu tư:

Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động

đầu tư.

Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư thông qua việc mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, các giấy

tờ có giá khác, quỹ đầu tư chứng khoán và thông qua các định chế tài chính trung gian khác mà

nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư.

Như vậy, đầu tư trực tiếp bỏ vốn vào các tài sản thực, do vậy làm tăng năng lực sản xuất của nền

kinh tế còn đầu tư gián tiếp thi không.

2) Theo thời hạn đầu tư:

Đầu tư ngắn hạn: thương có kỳ hạn từ 1 năm trở xuống, chủ yếu là hoạt động đâut tư

ngân quỹ, hoạt động đầu tư hưởng lợi và hoạt động đầu tư phòng vệ.

Đầu tư dài hạn: có kỳ hạn trên 1 năm thường tập trung ở hoạt động đầu tư nắm quyền

kiểm soát, đầu tư góp vốn kinh doanh và hoạt động góp vốn của các nhà đầu tư chiến lược.

3) Theo mục đích đầu tư:



Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục



Đầu tư ngân quỹ: thường được thực hiện bới các tổ chức kinh tế và các nhà đầu tư lớn.

Xuất phát từ nhu cầu thanh toán chi trả, nhu cầu dự phòng và dự trữ, thay vì phải nắm giữ một

lượng tiền khá lớn, các tổ chức kinh tế và các nhà đầu tư lớn thường đầu tư vào các chứng khoán

ngắn hạn có tính thanh khoản cao như: tín phiếu kho bạc, CDs, kỳ phiếu ngân hàng, thương

phiếu…





Đầu tư hưởng lợi: lợi nhuận từ hoạt động đầu tư có thể có từ lợi tức từ tài sản đầu



tư như cổ tức được phân phối hàng năm, hay lợi tức từ trái phiếu;chênh lệch giá chứng khoán và

các quyền lợi khác nếu có. Hoạt động đầu tư hưởng lợi có thể bao gồm:





Kinh doanh chênh lệch giá: là hoạt động mua bán chứng khoán nhằm tìm kiếm lợi



nhuận trong ngắn hạn từ chênh lệch giá chứng khoán.



Hoạt động đầu cơ: là hoạt động đầu tư chứng khoán nhằm tìm kiếm lợi nhuận từ

lợi tức và chênh lệch giá trong dài hạn. Hoạt động đầu cơ làm cho chứng khoán trở nên khan

hiếm, giá chứng khoán tăng và nhà đầu tư có thể tìm kiếm đc lợi lớn từ tăng giá chứng khoán.



Kinh doanh giảm giá: là hoạt động đầu tư hưởng lợi khi có hiện tượng giảm giá

chứng khoán. Khi dự báo giá chứng khoán giảm, nhà đầu tư sẽ bán chứng khoán để chờ hạ giá và

mua lại. Phần chênh lệch giá sau khi trừ đi chi phí giao dịch sẽ là thu nhập của nhà bán kinh

doanh giảm giá.



Tạo lập thị trường: Là trường hợp nhà đầu tư, thường là các công ty chứng khoán,

các NHTM đảm nhận thị trường cho các loại chứng khoán trên thị trường OTC. Họ có thể thu đc

lợi tức đầu tư từ cổ tức, trái tức, chênh lệch tăng giá chứng khoán, tiền hoa hồng khi thực hiện

môi giới cho các nhà đầu tư, được miễn giảm thuế,miễn giảm chi phí giao dịch, được miễn phí

thông tin.Hoạt động tạo lập thị trường có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo tính thanh khoản

cho các chứng khoán.



Đầu tư phòng vệ: các công cụ phòng vệ nhằm giúp các nhà đầu tư phòng tránh rủi

ro như hợp đồng giao sau, hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng quyền mua…



Đấu tư nắm quyền kiểm soát: Cổ phiếu cho phép CSH có quyền kiểm soát công ty

phát hành





thông qua quyền được nhận thông tin, quyền tham dự và biểu quyết tại đại hội cổ



đông. Số lượng cổ phiếu nắm giữ sẽ quyết định khả năng biểu quyết, kiểm soát của các nhà đàu

tư. Thông qua hoạt động đầu tư vốn, nhà đầu tư có thể tham gia hội đồng quản trị nhằm thực hiện

hoạt động quản lý.

Hoạt động đầu tư chứng khoán ở VN hiện nay: các nhà đầu tư lớn , có tổ chức còn

chiếm tỷ lệ nhỏ trong khi đó tỷ trọng của các nhà đầu tư cá nhân chiếm tỷ lệ lớn.

Năm 2007 phần lớn nhà đầu tư cá nhân mua chứng khoán để đầu cơ ăn chênh lệch nên có tâm

lý nóng vội, ít quan tâm xem công ty mình sở hữu CP hoạt động thế nào mà chỉ căn cứ vào tính

thanh khoản cao hay thấp, có khả năng “sốt” hay không. Nhiều nhà đầu tư cũng thú thực họ

không đủ thì giờ đi học và kiến thức để nắm bắt những công ty nào lãi thực, lãi giả và qui luật



Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục



giao dịch của thị trường mà chủ yếu ra các sàn “nghe hơi nồi chõ”, đầu tư theo những người khác.

Bởi thế vẫn có những đợt tụt dốc của những CP Vinamilk, Sacombank, TDH… dù các công ty

này vẫn đang kinh doanh tốt.

Tâm lý bầy đàn:Chứng minh bằng số liệu và mô hình thống kê toán cho thấy Hiệu ứng

bầy đàn rất mạnh ở Việt Nam, và theo số liệu của chúng tôi là mạnh nhất thế giới. Hiệu ứng này

đặc biệt mạnh khi giá thị trường tăng trong một khoảng thời gian liên tiếp khá dài.

Hệ quả trực tiếp là người đầu tư từ bỏ cả kỳ vọng cá nhân, để theo đuổi mức kỳ vọng của

đám đông trên thị trường, khiến cho khoảng cách chiến lược đầu tư tiến dần tới epsilon bé tí.

Trong khi đó, tính thanh khoản tạo ra do các Delta >> epsilon, và con người có các xu hướng giao

dịch trái chiều.

Hệ quả thứ hai, cũng trực tiếp, là tính thanh khoản giảm dần. Mà tính thanh khoản chính là

giá trị lớn nhất, duy nhất của TTCK (chứ không phải theo quan niệm sai lầm chung là tính năng

huy động vốn) Khi tính thanh khoản trở nên mờ nhạt không còn mang tính quyết định thì thị

trường biến thành Casino. Thực sự là Casino vì mọi người cho rằng nó là cỗ máy kiếm tiền, xay

ra tiền, nhào ra tiền, và đâu cũng là tiền... Chúng ta bằng sự nhìn nhận bình thường sẽ hiểu rằng

điều này quá sai lầm và hoàn toàn tự huyễn hoặc.

Phần lớn nhà đầu tư chỉ quan tâm tới lợi nhuận, và chỉ nhăm nhăm tới những thông tin

không xác thực ngoài luồng. Điều này thật sai lầm. Kiến thức khác thông tin. Kiến thức là một bộ

lọc thông tin có phương hướng, có chủ đích và có phương pháp. Việc chỉ chăm chắm đào bới các

thông tin ngoài luồng không làm các nhà đầu tư khôn ngoan hơn, có khi còn làm “loạn hết óc”

trong thời buổi thông tin bùng nổ. Chính vì không bổ sung kiến thức, nên thị trường hỗn loạn

trong các dòng chảy thông tin. Mệt mỏi với thông tin càng khiến cho người ta dễ từ bỏ các kỳ

vọng cá



nhân, để hào hứng đi



theo



sự



vẫy gọi của



"hiệu



ứng bầy đàn".



Năm 2009 Một yếu tố đáng chú ý trên thị trường chứng khoán Việt Nam từ đầu năm tới

thời điểm này là sự khác biệt tương đối lớn giữa sự lên xuống của giá các cổ phiếu. Dường như,

các nhà đầu tư Việt Nam cuối cùng đã lựa chọn kỹ hơn khi mua cổ phiếu, thay vì mua theo cảm

tính như trước đây.Ngoài ra, nhờ giá cổ phiếu tăng, nhóm cổ phiếu có giá trị vốn hóa thị trường

đủ lớn để các nhà đầu tư ngoại rót vốn cũng tăng lên. Hiện đang có 8 cổ phiếu có giá trị vốn hóa

từ 500 triệu USD trở lên, so với 4 cổ phiếu ở thời điểm cuối tháng 2.

Tuy nhiên, báo cáo của HSBC cũng cho thấy, các nhà đầu tư ngoại không phải là đối tượng

chèo lái đợt phục hồi này của thị trường chứng khoán Việt Nam. Lượng mua vào của khối ngoại

đã co lại tới mức gần như không có gì. Từ đầu năm tới nay, lượng mua ròng cổ phiếu Việt Nam

của khối ngoại chỉ là 3 triệu USD. Sau một thời gian bán ròng trong quý 4/2008, hoạt động của

các nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán Việt Nam về cơ bản gần như là trung tính,

với các hoạt động bên phía mua và phía bán cùng ít.



Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục



Theo số liệu của HSBC, hiện khối ngoại vẫn chiếm khoảng 1/5 khối lượng giao dịch trên

thị trường chứng khoán Việt Nam, nhưng có vẻ như lượng vốn nước ngoài mới chảy vào thị

trường này là rất hạn chế. Trong đó, các hoạt động của khối ngoại tập trung vào việc tái cân bằng

danh



mục



đầu







của



các



quỹ



quốc



gia



đóng.



Do sự thiếu minh bạch trong vấn đề công bố lợi nhuận cũng như xác định giá trị của các cổ

phiếu, ở thời điểm hiện tại, HSBC tiếp tục thận trọng về triển vọng thị trường chứng khoán Việt

Nam. Các chuyên gia của ngân hàng này cho rằng, thị trường Việt Nam vẫn là một thị trường

nhiều biến động và có độ minh bạch thấp nên rủi ro cho các nhà đầu tư lớn.

5. Trình bày thu nhập và phương pháp xác định thu nhập trong đầu tư chứng khoán theo

các phương thức đầu tư hưởng lợi, đầu tư nắm quyền kiểm soát và tạo lập thị trường

Thu nhập của một khoản đầu tư chứng khoán là phần chênh lệch giữa kết quả thu được sau

một khoảng thời gian đầu tư và vốn gốc mà nhà đầu tư phải bỏ ra ban đầu.

Khi đầu tư vào cổ phiếu, các nhà đầu tư thường kỳ vọng vào hai loại thu nhập, đó là thu nhập

từ cổ tức và từ mức tăng thị giá cổ phiếu. Thu nhập từ cổ tức tùy thuộc vào tình hình kinh doanh

của công ty và quyết định của Hội đồng quản trị. Thu nhập từ mức tăng thị giá cổ phiếu là biểu

hiện của mối quan hệ trực tiếp giữa triển vọng kinh doanh của công ty với nhu cầu mua cổ phiếu

trên thị trường.





Theo phương thức đầu tư hưởng lợi: nhà đầu tư nhằm mục đích lợi nhuận bao gồm cả lợi

tức và chênh lệch giá. Thu nhập từ hoạt dộng này bao gồm:

-



Thu nhập từ hoạt động kinh doanh chênh lệch giá: mua bán trong ngắn hạn để tìm

kiếm LN từ chênh lệch giá



-



Thu nhập từ hđ đầu cơ: tìm kiếm lợi nhuận từ lợi tức và chênh lệch giá trong dài

hạn. Khi CK khan hiếm, NĐT bán và thu lợi nhuận.



-



TN từ hđ kinh doanh giảm giá: Khi CK có dấu hiệu giảm giá NĐT bán CK rồi

chờ giá hạ và mua lại, khoản chênh lệch trừ đi cphis giao dịch sẽ la TN của NĐT.

TH đặc biệt là bán khống: vay CK của 1 cty để bán đi, đợi giá hạ sẽ mua trả để

hưởng chênh lệch.







Theo hình thức đtư nắm quyền kiểm soát: cho phép CSH có quyền kiểm soát công ty PH

thông qua quyền dc nhận t.tin, q` tham dự và biểu quyết tại ĐH cổ đông. Số lượng cp

nắm giữ qđ khả năng kiểm soát, biểu quyết của NĐT. Thông qua nắm q` kiểm soát các

NĐT lớn sẽ t/hiện tái cấu trúc qlis cty,thay đổi công nghệ, từ đó năng cao hiệu quả hđ và

cải thiện h/a cty trong mắt công chúng từ đó thực hiện bán CP trên TT tập trung or OTC

khi cp tăng giá,đó chính là thu nhập của họ.







Tạo lập thị trường: Là các NĐT,thường là các cty CK,NHTM đảm nhận tạo thị trường

trên tt OTC thực hiện mua bán theo y/cầu tạo tính thanh khoản cho CK. Thu nhập của họ



Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục



dc tạo ra từ cổ tức,trái tức,chênh lệch giá Ck,tiền hoa hồng khi thực hiện môi giới cho các

NĐT.

6. Phân tích mối quan hệ giữa thu nhập và rủi ro trong đầu tư chứng khoán

Khi đầu tư vào cổ phiếu, các nhà đầu tư thường kỳ vọng vào hai loại thu nhập, đó là thu nhập

từ cổ tức và từ mức tăng thị giá cổ phiếu. Thu nhập của một khoản đầu tư là phần chênh lệch

giữa kết quả thu được sau một khoảng thời gian đầu tư và vốn gốc mà nhà đầu tư phải bỏ ra

ban đầu.

Rủi ro được định nghĩa như là một sự khác biệt giữa giá trị thực tế và giá trị kỳ vọng.

Theo các lý thuyết cũ, rủi ro là những yếu tố làm cho mức sinh lời giảm. hiện nay người ta

cho rằng cả mọi yếu tố làm cho thu nhập thay đổi so với dự tính dù là tăng hay giảm đều coi

là rủi ro.

Đầu tư vào cổ phiếu chứa đựng nhiều loại rủi ro bao gồm cả rủi ro hệ thống và phi hệ thống:

-



rủi ro hệ thống bao gồm: + rủi ro tỷ giá

+ rủi ro thị trường

+ rủi ro lãi suất

+rủi ro sức mua



-



Rủi ro phi hệ thống bao gồm: rui ro kinh doanh,rủi ro tài chính, rủi ro quản lý.



Cũng như các lĩnh vực đầu tư khác, trong đầu tư chứng khoán tồn tại mối quan hệ tỷ lệ thuận

giữa mức thu nhập với mức rủi ro. Thu nhập càng cao thì mức độ rủi ro tiềm ẩn càng lớn.

Nếu sử dụng mô hình CAPM để phân tích thi ta cũng có CT:

ks = Rrisk free + Beta * (Rmarket - Rrisk-free)

với ks là lãi suất kỳ vọng trên cổ phiếu.

Trong đó:



* Beta là chỉ số phản ánh rủi ro thị trường của một cổ phiếu. Beta có thể được dự đoán dựa trên các số

khứ

* Rrisk free là tỷ lệ phi rủi ro, và thường là lãi suất trái phiếu chính phủ vì loại lãi suất này được coi là

rủi ro thanh toán

* Rmarket là thu nhập thị trường kỳ vọng qua thời gian

Qua công thức trên ta cũng thấy rằng Beta càng cao tức rủi ro càng cao thì ks tức thu nhập kì



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.doc) (140 trang)

×