Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 140 trang )
− Nhu cầu vốn lưu động
− Đầu tư TSCĐ
- Cách tính dòng tiền của chủ sở hữu
FCFE =
LNST
+ Chi phí không bằng tiền mặt (KH, …)
+ Vốn vay nhận được
− Nhu cầu vốn lưu động
− Đầu tư TSCĐ
− Trả gốc vay
•
Xác định tỷ suất chiết khấu
Tỷ suất chiết khấu phải phù hợp với dòng tiền chiết khấu.
3. Nếu dùng phương pháp FCFF thì tỷ suất CK phải là chi phí vốn bình quân WACC
WACC = wd ×kd×(1 – t) + wp×kp + we×ke
4. Nếu dùng phương pháp FCFE thì tỷ suất CK phải là chi phí vốn chủ.
Chi phí VCSH được xác định theo nhiều cách, trong đó phương pháp phổ biến và dễ thực
hiện là dùng mô hình CAPM
Ke = Kf + beta×(Km – Kf)
Trong đó: Kf là lợi tức phi rủi ro (thường lấy lãi suất tín phiếu kho bạc)
Km là lợi tức thị trường
Beta là hệ số rủi ro thị trường (rủi ro hệ thống)
Ngoài mô hình CAPM, Ke còn có thể được ước lượng qua mô hình tăng trưởng cổ tức, phần
bù rủi ro…
•
Chiết khấu dòng tiền các kỳ về thời điểm hiện tại theo tỷ suất chiết khấu phù hợp với
dòng tiền đó
Ứng dụng:
DCF được ứng dụng rất rộng rãi:
5. Định giá TS hữu hình và TS tài chính để ra quyết định nên mua hay bán TS đó
6. Phân tích, ra quyết định nên mua hay thuê mua 1 TSCĐ
7. Đánh giá tính hiệu quả của 1 dự án để ra quyết định có đầu tư vào dự án đó hay ko
8. Phân tích, đánh giá và ra quyết định nên hay không nên mua 1 doanh nghiệp
3. Mô hình sử dụng số nhân thu nhập (P/E)
•
Xác định lợi tức yêu cầu k
9. Được xác định bởi tỷ lệ lợi tức phi rủi ro, tỷ lệ lạm phát kỳ vọng, phần bù rủi ro;
10. Xác định tỷ lệ tăng trưởng cổ tức
g = b x ROE
Trong đó:
•
•
g là tỷ lệ tăng trưởng
•
ROE = LNSTcho CP thường/Slg CP
•
b là tỷ lệ lợi nhuận giữ lại tái đầu tư
Xác định P/E
P/E = P0/E0 = ((D0/E0).(1+g))/(k-g) = ((1-b).(1+g))/(k-g)
P/E = P0/E1 = (D1/E1)/(k-g) = (1-b)/(k-g)
Chú ý:
•
P/E không dự đoán giá CP trong ngắn hạn
•
P/E cao (giá CP đắt) nhưng giá CP vẫn có thể tiếp tục đi lên
•
P/E thấp nhưng giá CP vẫn có thể đi xuống
•
P/E giúp hình dung giá CP trong dài hạn
•
P/E giúp xác định giá CP đang ở mức nào để đưa ra chiến thuật đt hợp lý
Cách sử dụng P/E
•
P/E hiện tại ít có khả năng ảnh hưởng đến giá CP trong tương lai
•
Sử dụng P/E trên cơ sở lợi nhuận dự đoán khi phân tích
•
P/E của các công ty tăng trưởng nhanh có lợi nhuận đột phá có thể sai lạc và do vậy có
thể bị bỏ qua
•
P/E của CP thành công thường cao hơn P/E chung của thị trường kho CP này bắt đầu đợt
tăng giá
•
Nên mua CP có P/E thấp hơn nếu các yếu tố khác tương đương
•
Chọn CP có P/E thấp hơn tốc độ tăng trưởng
•
Nếu nhà đt tổ chức nắm giữ ít thì P/E thường thấp
•
Nên so sánh P/E lịch sử, P/E các công ty khác trong cùng ngành
•
Không mua CP có P/E thấp nhất trong nhóm/ngành chỉ vì có vẻ bị đánh giá thấp
•
Không mua CP chỉ vì P/E thấp nhất trong một giai đoạn nhất định
•
Cẩn thận với P/E thấp không bình thường
•
P/E trở nên vô nghĩa nếu xuất hiện lỗ, thậm chí chỉ 1 quý hoặc chi phí bất thường
•
Không nên quyết định mua hay bán CP chỉ dựa vào chỉ tiêu P/E mà phải kết hợp với các
tiêu chí khác
25. Trình bày nội dung, ý nghĩa của phân tích thị trường chứng khoán. Nhận xét của anh
chị về thị trường chứng khoán Việt Nam
ND:
YN:
NX TTCK VN:
Giá cả chưa phản ánh được chất lượng CP
Tâm lý số đông không chỉ có ở TTCK VN mà có ở tất cả các TTCK trên TG. Tuy nhiên ở
VN, tâm lý số đông do trình độ chuyên môn yếu kém dẫn đến đưa giá cả đi quá xa với giá trị
thực của CP. Khi giá lên đỉnh thì bắt đầu ồ ạt mua và khi có dấu hiệu giảm giá thì đồng loạt
bán khiến tình hình càng trở nên trầm trọng hơn và kết quả là tạo điều kiện dễ dàng cho một
bộ phận thao túng thị trường, gây thiệt hại cho nhà đt. Đã có những lúc chỉ số P/E của các
DN VN vượt xa các chỉ số của các DN cùng ngành trên TG (FPT đạt 75 trong khi Google là
63.37, Kinh Đô đạt 83.82 trong khi trung bình ngành là 23.67, Vinamilk đạt 50.42 trong khi
CocaCola đạt 21.61…). Tuy trong thời điểm hiện tại, TTCK VN đã đi dần vào quỹ đạo
nhưng phần lớn nhà đt vẫn thụ động chạy theo thị trường, tranh nhau mua khi giá vượt quá
giá trị thực và tranh nhau bán khi giá xuống dưới giá trị thực.
Độ trễ của thị trường
TTCK VN bị khống chế trong mức giá trần và giá sàn trong một phiên giao dịch nên sự biến
động của giá nhiều khi không phản ánh đầy đủ xu hướng của thị trường. Hơn nữa, quy định
T + 3 của UBCKNN cũng làm giảm tính lỏng của việc mua bán CK, nhiều khi nhà đt nhận
thấy xu hướng của thị trường nhưng không kịp phản ứng vì chưa được bán khi chưa đến hạn
hoặc không mua kịp khi tiền chưa về đến tài khoản trong thời gian T + 3.
Thông tin không minh bạch
TTCK VN chưa có cơ chế hiệu quả buộc các DN công bố thông tin chính xác phục vụ quyết
định của nhà đt, các thông tin đưa ra rất chung chung và bị sửa đổi rất nhiều, kể cả những báo
cáo tài chính đã được kiểm toán cũng không đáng tin cậy. Chính vì sự thiếu minh bạch này
dẫn đến việc một bộ phận những người có thế lực thâu tóm, đứng đằng sau điều khiển thị
trường, đưa thông tin giả tạo nhằm trục lợi và gây hại cho nhà đt.
26. Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán. Nhận xét của Anh (Chị)
về TTCK Việt Nam hiện nay
Các yếu tố vĩ mô :
* Sự tiến triển của nền kinh tế quốc dân, tình hình kinh tế khu vực và thế giới: Thông thường,
giá cổ phiếu có xu hướng tăng khi nền kinh tế phát triển (và có xu hướng giảm khi nền kinh tế
yếu đi). Bởi khi đó, khả năng về kinh doanh có triển vọng tốt đẹp, nguồn lực tài chính tăng lên,
nhu cầu cho đầu tư lớn hơn nhiều so với nhu cầu tích luỹ và như vậy, nhiều người sẽ đầu tư vào
cổ phiếu.
* Lạm phát: Lạm phát tăng thường là dấu hiệu cho thấy, sự tăng trưởng của nền kinh tế sẽ không
bền vững, lãi suất sẽ tăng lên, khả năng thu lợi nhuận của DN bị hạ thấp khiến giá cổ phiếu giảm.
Lạm phát càng thấp thì càng có nhiều khả năng cổ phiếu sẽ tăng giá và ngược lại.
* Tình hình biến động của lãi suất: Lãi suất tăng làm tăng chi phí vay đối với DN. Chi phí này
được chuyển cho các cổ đông vì nó sẽ hạ thấp lợi nhuận mà DN dùng để thanh toán cổ tức. Cùng
lúc đó, cổ tức hiện có từ cổ phiếu thường sẽ tỏ ra không mấy cạnh tranh đối với nhà đầu tư tìm
lợi tức, sẽ làm họ chuyển hướng sang tìm nguồn thu nhập tốt hơn ở bất cứ nơi nào có lãi suất
cao. Chính vì vậy, lãi suất tăng sẽ dẫn đến giá cổ phiếu giảm. Ngược lại, lãi suất giảm có tác
động tốt cho DN vì chi phí vay giảm và giá cổ phiếu thường có xu hướng sẽ tăng lên.
Tuy nhiên, sự dao động của lãi suất không phải luôn được tiếp theo bởi sự phản ứng tương
đương và trái ngược của giá cổ phiếu. Chỉ khi nào lãi suất phản ánh xu hướng chủ đạo trong lạm
phát, nó mới trở thành thước đo hiệu quả sự dao động của TTCK. Lãi suất có xu hướng giảm khi
lạm phát giảm và lạm phát giảm khiến giá cổ phiếu tăng cao hơn. Ngược lại, lạm phát tăng cùng
với lãi suất, giá cổ phiếu sẽ giảm.
* Chính sách thuế của Nhà nước đối với thu nhập từ chứng khoán và các chính sách tiền tệ,
tài khóa: Nếu khoản thuế đánh vào thu nhập từ chứng khoán cao (hoặc tăng lên) sẽ làm cho số
người đầu tư giảm xuống, từ đó làm cho giá chứng khoán giảm.Những chính sách tiền tệ or tài
khóa cũng tác động mạnh mẽ đến TTCK.
* Những biến động về chính trị, xã hội, quân sự: Đây là những yếu tố phi kinh tế nhưng cũng
ảnh hưởng không nhỏ đến giá cổ phiếu trên thị trường. Nếu những yếu tố này có khả năng ảnh
hưởng tích cực tới tình hình kinh doanh của DN thì giá cổ phiếu của DN sẽ tăng lên.
*Cán cân thương mại ( tình hình xuất nhập khẩu)
Các yếu tố vi mô:
* Những yếu tố nội tại gắn liền với nhà phát hành biến động: yếu tố về kỹ thuật sản xuất: trang
thiết bị máy móc, công nghệ, tiềm năng nghiên cứu phát triển...; yếu tố về thị trường tiêu thụ:
khả năng về cạnh tranh và mở rộng thị trường...; yếu tố về con người: chất lượng ban lãnh đạo,
trình độ nghề nghiệp của công nhân; tình trạng tài chính của DN...
* Tâm lý nhà đầu tư: Theo thuyết lòng tin về giá cổ phiếu, yếu tố căn bản trong biến động của
giá cổ phiếu là sự tăng hay giảm lòng tin của nhà đầu tư đối với tương lai của giá cổ phiếu, của
lợi nhuận DN và của lợi tức cổ phần. Vào bất cứ thời điểm nào, trên thị trường cũng xuất hiện 2
nhóm người: nhóm người lạc quan và nhóm người bi quan. Khi số tiền do người lạc quan đầu tư
chiếm nhiều hơn, thị trường sẽ tăng giá và khi số tiền bán ra của người bi quan nhiều hơn, thị
trường sẽ hạ giá. Tỷ lệ giữa 2 nhóm người này sẽ thay đổi tuỳ theo cách diễn giải của họ về
thông tin, cả về chính trị lẫn kinh doanh, cũng như những đánh giá của họ về nền kinh tế nói
chung và TTCK nói riêng.
Ngoài ra, các hành động lũng đoạn, tung tin đồn nhảm, các biện pháp kỹ thuật của nhà điều hành
thị trường, ý kiến của các nhà phân tích... cũng có thể khiến thị giá cổ phiếu biến động.
Nhận xét về TTCK Việt Nam hiện nay:
. Những thành tựu đạt được
- Về quy mô hoạt động :Đã tăng đáng kể
- Về chủ thể tham gia thị trường :Đang tăng cả về số lượng và sự đa dạng
- Về cơ chế quản lý
Cơ quan quản lý nhà nước đã đảm đương được vai trò hoạch định chính sách, tổ chức, giám
sát nhằm đảm bảo TTCK hoạt động ổn định. Các chuẩn mực kiểm toán, công bố thông tin, quản
trị công ty được áp dụng với các công ty niêm yết, các thành viên của thị trường. Theo đó, tỷ lệ
nắm giữ tối đa tổng số cổ phiếu niêm yết, đăng ký giao dịch của các tổ chức, cá nhân nước ngoài
trên TTCKVN được nâng lên từ 30% tới 49%. Bên cạnh đó nhà đầu tư nước ngoài cũng được sở
hữu tối đa 49% tổng số chứng chỉ quỹ đầu tư niêm yết, đăng ký giao dịch của một quỹ đầu tư
chứng khoán, đồng thời không giới hạn tỷ lệ nắm giữ đối với trái phiếu lưu hành của tổ chức
phát hành. Đây là điểm thay đổi quan trọng thúc đẩy các nhà đầu tư tiềm năng nước ngoài tham
gia vào TTCKVN.
- Về khuôn khổ pháp luật : Kể từ ngày 1/1/2007 TTCKVN sẽ được điều chỉnh bởi văn bản
pháp lý cao nhất này. Với việc hình thành nên một trật tự thị trường, một khung pháp lý chuẩn
làm định hướng cho sự phát triển của các thành phần tham gia thị trường, Luật Chứng khoán với
nhiều điểm tích cực sẽ góp phần quan trọng trong việc hoàn thiện hệ thống quản lý, kích thích
luân chuyển vốn, phù hợp với giai đoạn khởi động nhằm thúc đẩy nhanh chóng TTCK Việt nam
phát triển.
- Về công tác đào tạo, quảng bá và tuyên truyền.
Bước đầu công tác đào tạo và tuyên truyền đã được chú trọng. Công tác này đóng góp đáng
kể vào việc cung cấp kiến thức cơ bản cũng như những hiểu biết về mặt pháp luật về chứng
khoán và TTCK cho công chúng. Đồng thời nó cũng góp phần cung cấp cho thị trường những
nhà đầu tư có kiến thức nhất định về chứng khoán, TTCK và tạo ra đội ngũ nhân viên quản lý,
giao dịch chuyên nghiệp cho các cơ quan quản lý và công ty chứng khoán.
Có thể nói, tuy chưa thực sự trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn lớn nhất cho nền
kinh tế như sứ mệnh phải có của nó, nhưng TTCKVN đã có những bước tiến đáng kể, tạo dựng
được nền móng ban đầu cho sự phát triển của TTCK trong tương lai; đánh dấu bước tiến mới
trong quá trình phát triển thị trường tài chính Việt Nam.
TTCK Việt nam hiện nay tuy đã dần đc cải thiện và đi vào ổn định nhưng vẫn còn
nhiều bất cập:
- Quy mô TTCK còn quá nhỏ bé cả về cung và cầu, hàng hoá trên TTCK ít về số lượng và
nghèo nàn về chủng loại. Hiện nay hàng hoá chủ yếu là cổ phiếu, trái phiếu và 1Chứng chỉ quỹ
đầu tư(VF1). Thị trường trái phiếu Chính phủ đơn điệu với cách thức phát hành đơn giản, chưa
thường xuyên, giao dịch thứ cấp chưa phát triển, thị trường trái phiếu công ty rất sơ khai.
- Số lượng các công ty niêm yết có khả năng tài chính tốt còn khiêm tốn, khả năng cạnh tranh
trên thị trường đặc biệt là thị trường nước ngoài về sản phẩm của các công ty này còn hạn chế.
Cơ chế quản trị công ty, chế độ kế toán kiểm tóan còn nhiều điểm chưa phù hợp với thông lệ
quốc tế. Thị trường chưa thu hút được sự tham gia tích cực của các công ty cổ phần, do các công
ty này chưa thấy hết được lợi thế ưu việt của công cụ cổ phiếu.
- Hoạt động chứng khoán còn mang nặng tính đầu cơ ngắn hạn, thiếu tính phân tích và dự
đoán trên TTCKVN, công chúng còn đầu tư theo yếu tố tâm lý, chủ yếu bị ảnh hưởng bởi cảm
tính. Có rất ít những nhà đầu tư chuyên nghiệp đầu tư theo phương pháp phân tích các chỉ số, số
liệu của công ty, điều này ảnh hưởng lớn tới sự phát triển bền vững của TTCK. Hơn nữa, tính
chính xác của thông tin mà các đối tượng tham gia trên thị trường đưa ra chưa cao đã làm cho
các nhà đầu tư khó có thể đưa ra được các quyết định hợp lý. Các tổ chức niêm yết chưa thấy hết
được tầm quan trọng của việc công khai hoá thông tin. Do vậy họ còn thiếu chủ động tự giác
cung cấp thông tin cho công chúng làm ảnh hưởng tới các quyết định tham gia thị trường của
người đầu tư.
- Hệ thống giám sát hoạt động của TTCK đã được thiết lập nhưng hoạt động chưa thực sự
hiệu quả, chưa có hệ thống chỉ tiêu giám sát. Bên cạnh đó năng lực giám sát, các chế tài cưỡng
chế hành vi vi phạm còn hạn chế; các văn bản pháp luật khác có liên quan như luật Dân sự, Bộ
luật Hình sự, Luật Thanh tra, Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính… chưa quy định rõ thẩm
quyền và chưa có các quy định rõ ràng về các hành vi vi phạm trong hoạt động chứng khoán.
Công tác phổ biến, quán triệt các quy chế chính sách đối với hoạt động của TTCK tuy đã được tổ
chức thực hiện nhưng chưa được sâu rộng nên ý thức chấp hành chưa cao. Đội ngũ cán bộ làm
công tác quản lý còn chưa có nhiều kinh nghiệm, chưa nắm chắc nghiệp vụ nên kết quả kiểm tra
còn hạn chế.
- Việc cụ thể hoá mô hình, chính sách và giải pháp phát triển TTCK trong Chiến lược phát
triển TTCK còn chậm. Công tác phát triển hàng hoá gặp nhiều khó khăn, chưa tạo ra được bước
đột phá mới. Các doanh nghiệp nhà nước được hỗ trợ về vốn hoặc được cho vay ưu đãi nên
doanh nghiệp “chưa cần” gõ cửa TTCK vẫn có vốn rẻ để đầu tư kinh doanh! Hệ thống NHTM
Việt nam vẫn chủ yếu kinh doanh “độc canh” trên thị trường tín dụng truyền thống nên vẫn là
kệnh cung ứng vốn chủ yếu cho nền kinh tế. Các chính sách, giải pháp phát triển thị trường chưa
được ban hành đồng bộ.
27. Phân tích ảnh hưởng của các yếu tố vĩ mô đến thị trường chứng khoán (Tình hình kinh tế
xã hội; luật pháp; Lạm phát, lãi suất, tỷ giá, cán cân thương mại, v.v…)
TTCK bị ảnh hưởng bởi rất nhiều yếu tố, cả những yếu tố vĩ mô và vi mô. Do đó, khi đầu tư cổ
phiếu, nhà đầu tư cần quan tâm tìm hiểu và phân tích tác động của các yếu tố tới cổ phiếu mình
đang đầu tư, để đưa ra các quyết định đầu tư thích hợp. Sau đây là một số yếu tố ảnh hưởng đến
giá cổ phiếu:
* Sự tiến triển của nền kinh tế quốc dân, tình hình kinh tế khu vực và thế giới: Thông thường,
giá cổ phiếu có xu hướng tăng khi nền kinh tế phát triển (và có xu hướng giảm khi nền kinh tế
yếu đi). Bởi khi đó, khả năng về kinh doanh có triển vọng tốt đẹp, nguồn lực tài chính tăng lên,
nhu cầu cho đầu tư lớn hơn nhiều so với nhu cầu tích luỹ và như vậy, nhiều người sẽ đầu tư vào
cổ phiếu.
* Lạm phát: Lạm phát tăng thường là dấu hiệu cho thấy, sự tăng trưởng của nền kinh tế sẽ không
bền vững, lãi suất sẽ tăng lên, khả năng thu lợi nhuận của DN bị hạ thấp khiến giá cổ phiếu giảm.
Lạm phát càng thấp thì càng có nhiều khả năng cổ phiếu sẽ tăng giá và ngược lại.
* Tình hình biến động của lãi suất: Lãi suất tăng làm tăng chi phí vay đối với DN. Chi phí này
được chuyển cho các cổ đông vì nó sẽ hạ thấp lợi nhuận mà DN dùng để thanh toán cổ tức. Cùng
lúc đó, cổ tức hiện có từ cổ phiếu thường sẽ tỏ ra không mấy cạnh tranh đối với nhà đầu tư tìm
lợi tức, sẽ làm họ chuyển hướng sang tìm nguồn thu nhập tốt hơn ở bất cứ nơi nào có lãi suất
cao. Hơn nữa, lãi suất tăng còn gây tổn hại cho triển vọng phát triển của DN vì nó khuyến khích
DN giữ lại tiền nhàn rỗi, hơn là liều lĩnh dùng số tiền đó mở rộng sản xuất, kinh doanh. Chính vì
vậy, lãi suất tăng sẽ dẫn đến giá cổ phiếu giảm. Ngược lại, lãi suất giảm có tác động tốt cho DN
vì chi phí vay giảm và giá cổ phiếu thường tăng lên.
Tuy nhiên, sự dao động của lãi suất không phải luôn được tiếp theo bởi sự phản ứng tương
đương và trái ngược của giá cổ phiếu. Chỉ khi nào lãi suất phản ánh xu hướng chủ đạo trong lạm
phát, nó mới trở thành thước đo hiệu quả sự dao động của TTCK. Lãi suất có xu hướng giảm khi
lạm phát giảm và lạm phát giảm khiến giá cổ phiếu tăng cao hơn. Ngược lại, lạm phát tăng cùng
với lãi suất, giá cổ phiếu sẽ giảm. Nhưng nếu lạm phát không phải là một vấn đề nghiêm trọng
và lãi suất tăng, đầu tư vào TTCK thường mang lại nhiều lãi. Bởi vì trong trường hợp này, lãi
suất tăng là do nền kinh tế tăng trưởng.
* Chính sách thuế của Nhà nước đối với thu nhập từ chứng khoán và các chính sách tiền tệ,
tài khóa: Nếu khoản thuế đánh vào thu nhập từ chứng khoán cao (hoặc tăng lên) sẽ làm cho số
người đầu tư giảm xuống, từ đó làm cho giá chứng khoán giảm.Những chính sách tiền tệ or tài
khóa cũng tác động mạnh mẽ đến TTCK.
* Những biến động về chính trị, xã hội, quân sự: Đây là những yếu tố phi kinh tế nhưng cũng
ảnh hưởng không nhỏ đến giá cổ phiếu trên thị trường. Nếu những yếu tố này có khả năng ảnh
hưởng tích cực tới tình hình kinh doanh của DN thì giá cổ phiếu của DN sẽ tăng lên.
28. Nhận xét của Anh (Chị) về ảnh hưởng của các nhân tố vĩ mô đến thị trường chứng
khoán Việt Nam
TTCK Việt Nam chỉ mới bắt đầu phát triển trong vài năm trở lại đây khi chứng khoáng bùng
nổ vào khoảng 2006- 2007. Đến 2008 do chịu tác động trực tiếp và gián tiếp bởi khủng hoảng kinh tế
thế giới thì TTCK VN đã giảm mạnh từ mốc hơn 1000 điểm xuống chỉ còn hơn 200 điểm. TTCK
Việt Nam chịu ảnh hưởng rất lớn bởi các nhân tố vĩ mô như :tình hình kinh tế xã hội; luật pháp,
lạm phát, lãi suất, tỷ giá, cán cân thương mại,...Ngoài ra, còn có một nhân tố đáng chú ý đấy là sự ko
cân xứng về mặt nắm bắt thông tin trên thị trường. Phân tích sự ảnh hưởng bởi các nhân tố vĩ mô đến
TTCK VN thì ta có thể có một số nhận xét sau:
TTCK VN chịu tác động trực tiếp và gián tiếp bởi các nhân tố vĩ mô đến thị trường chứng
khoán. Năm 2007 quả là một năm khởi sắc của TTCK VN xong về bản chất thời gian đó TTCK VN
đã tăng ko phản ánh đúng với kết quả sản xuất kinh doanh của các cty niêm yết mà phần lớn là do
tâm lý đám đông của đại bộ phận nhà đầu tư trên thị trường lúc này. Điều này phản ánh ảnh hưởng
tâm lý nhà đâu tư trên thị trường là cực kỳ lớn, nó phản ánh sự non trẻ của cả thị trường và kinh
nghiệm của nhà đâu tư. Cho đến nay, tâm lý nhà đầu tư cũng bị tác động trực tiếp bởi các thông tin vĩ
mô và nó ảnh hưởng đến quyết định của mỗi nhà đầu tư.Vì vậy, chúng ta có thể hiểu các nhân tố vĩ
mô tác động đến thị trương chứng khoán trực tiếp đến thế nào.
Ngoài ra, TTCK VN là có sự tham gia của rất nhiều các thành phần kinh tế khác nhau vì vậy
TTCK VN có sự tương tác trực tiếp đến nhiều ngành nghề và lĩnh vực. Trong năm 2008 và đầu năm
2009 chúng ta đã đc chứng kiến sự tụt dốc của TTCK VN bởi diễn biến của Khủng hoảng tài chính
toàn cầu và nguyên nhân chủ yếu là do sự tăng trưởng quá nóng của thời kỳ trước đó. Năm 2009 với
tình trạng lạm phát cao là dấu hiệu cho thấy, sự tăng trưởng của nền kinh tế sẽ không bền vững,
lãi suất sẽ tăng lên, khả năng thu lợi nhuận của DN bị hạ thấp khiến giá cổ phiếu giảm, cùng với
lạm phát là tình hình biến động của lãi suất. Lãi suất tăng làm tăng chi phí vay đối với DN. Chi
phí này được chuyển cho các cổ đông vì nó sẽ hạ thấp lợi nhuận mà DN dùng để thanh toán cổ
tức. Cùng lúc đó, cổ tức hiện có từ cổ phiếu thường sẽ tỏ ra không mấy cạnh tranh đối với nhà
đầu tư tìm lợi tức, sẽ làm họ chuyển hướng sang tìm nguồn thu nhập tốt hơn ở bất cứ nơi nào có
lãi suất cao. Chính vì vậy, lãi suất tăng sẽ dẫn đến giá cổ phiếu giảm, đã có những giai đoạn mà
lãi suất của các NHTM lên đến 22%, thì việc giá cổ phiếu trên TTCK VN giảm là điều hoàn toàn
dễ hiểu. Trong thời gian đó, cán cân thương mại của VN cũng mất cân đối trầm trọng do khó
khăn trong XK. Đây cũng là một nguyên nhân tác động xấu đến TTCK VN trong thời gian qua.
29. Trình bày ý nghĩa của phân tích ngành kinh tế
Phân tích ngành kinh tế là việc phân tích vi mô và vĩ mô ngành.Với phân tích Vĩ mô ngành
thi qua 4 bước là: Phân tích chu kỳ kinh doanh, ảnh hưởng của thay đổi cấu trúc kinh tế tới
ngành, xác định chu kỳ sống của ngành và phân tích môi trường cạnh tranh trong 1 ngành.
Thực tế, Lợi nhuận và rủi ro của mỗi ngành là khác nhau nên việc phân tích ngành kinh tế
sẽ giúp chúng ta làm rõ mối quan hệ giữa lợi nhuận và rủi ro của từng ngành hay có thể so sanh
định tính được lợi nhuận rủi ro giữa các ngành với nhau để từ đó quyết định lựa chọn ngành nào
để đầu tư.
Việc phân tích Vĩ mô ngành sẽ giúp chúng ta hiểu được chu kỳ kinh doanh và chu kỳ sống
của mỗi ngành từ đó đoán định được một cách tương đôi giá của từng loại cổ phiếu trong những
giai đoạn khác nhau để đầu tư hiệu quả hơn, hay chúng ta nắm bắt và phân tích được những ảnh
hưởng của thay đổi cấu trúc kinh tế tới ngành như nhân khẩu học, phong cách sống, xu thế công
nghệ, chính trị và pháp luật để từ đó có những biện pháp khắc phục và điều chỉnh cơ cấu danh
mục đầu tư phù hợp hơn. Hơn nữa, chúng ta có thể nắm bắt được môi trường cạnh tranh của từng
ngành như các thông tin về người bán, người mua, các sản phẩm thanhh thế, các đối thủ trong
ngành và các đối thủ tiềm năng có thể gia nhập vào ngành để phân tích rủi ro và giúp cho việc ra
quyết định đầu tư do phải đảm bảo được nguyên tắc doanh lợi và rủi ro. Những ngành có rủi ro
và tính mạo hiểm cao thì nhà đầu tư sẽ đòi hỏi một mức lợi tức yêu cầu cao để bù đắp cho phần
bù rủi ro.
Bênh cạnh việc phân tích vĩ mô ngành thì phân tích ngành kinh tế còn phải phân tích vi mô
ngành. Việc phân tích vi mô ngành sẽ giúp nhà đầu tư ước lượng đc giá trị hiện tại của ngành
hoặc giá trị trung bình doanh nghiệp trong ngành, nó áp dụng với các DN trong ngành có sự
tương đồng.
Tóm lại, phân tích ngành kinh tế có một ý nghĩa vô cùng quan trọng với các chủ thể tham
gia vào TTCK bởi nó giúp cho mỗi chủ thể hiểu đc tổng quan về từng ngành, đặc điểm riêng của
mỗi ngành, định hướng phát triển của CP , các điểm mạnh điểm yêu trong từng nghành để từ đó
có những quyết định để phù hợp với mỗi mục tiêu riêng.