Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 140 trang )
phần đang làm giảm hiệu quả hoạt động của các ngân hàng. Sức ép từ phía khách hàng đang
ngày một lớn đối với các NHTM.
3. Các đối thủ gia nhập tiềm năng:
Rào cản gia nhập vào ngành ngân hàng là khá lớn, tuy nhiên cá rảo cản đó vãn chưa đủ để ngăn
cản các đối thủ gia nhập có tiềm lực. Đối với ngành NH trong thời điểm hiện nay, các đối thủ có
tiềm năng gia nhập và tác động đến cấu trúc ngành là NH của các tổng công ty nhà nước, NH
nước ngoài. Việc một số NH trở thành các HN riêng, các công ty con trong các tập đoàn sẽ làm
giảm mạnh thị trường của các NH còn lại. Ngay cả đối với các NH đó, hướng hoạt động chuyên
doanh sẽ làm tăng rủi ro và giảm hiệu quả hoạt động.
4. Các hàng hóa thay thế:
Các hàng hóa thay thế của NH xuất phát từ: Các tổ chức tín dụng khác cạnh tranh với NH về cho
vay và nhận gửi, công ty bảo hiểm cạnh tranh về huy động vốn, thị trường chứng khoán cạnh
tranh về huy động vốn. Sự phát triển của hàng hóa thay thế tạo sức ép rất lớn lên hệ thống ngân
hàng, tuy nhiên lại tạo điều kiện để NH phát triển dịch vụ cung cấp. Chẩng hạn, sự phát triển của
thị trường trái phiếu , đặc biệt là thị trường trái phiếu doanh nghiệp sẽ tạo áp lực lớn cho NH
trong hoạt động cho vay dự án, song lại tạo điều kiện cho các NH phát triển hoạt động đại lý, bảo
lãnh phát hành, đại diện người sỏ hữu trái phiếu hoặc thanh toán và lưu ký.
5. Yếu tố khác:
Sự thay đổi về khung pháp lý, sự thay đổi về công nghệ, chu kì kinh doanh, chu kì kinh tế…
Ngành ngân hàng đang có tốc độ tăng trưởng cao khoảng 20% mỗi năm. có giai đoạn tăng
trưởng nhanh
và duy trì ổn định trong thời gian tới. Mặc dù kinh tế có nhiều biến động, tuy
nhiên các NH vẫn đạt lợi nhuận cao. Năng lực hoạt động, cơ cấu tổ chức điều hành, cơ cấu tài
chính của các ngân hàng đã thay đổi tích cực, từ đó nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của
các ngân hàng và đặc biệt là các ngân hàng thương mại cổ phần.
Hiện nay Vn có 6 ngân hàng thương mại quốc doanh, 38 ngân hàng thương mại cổ phàn ,
4 ngân hàng lien doanh, 29 chi nhánh của ngân hàng nước ngoài, 45 văn phòng đại diện của các
ngân hàng nước ngoài, 5 công ty tài chính và 9 công ty cho thuê tài chính đang hoạt động.
Mức độ cạnh tranh trong hệ thống ngân hàng đã gia tăng đáng kể. Tuy nhiên, bốn ngân
hàng thương mại quốc doanh lớn chiếm xấp xỉ 70% dư nợ của nền kinh tế . Các ngân hàng Vn
gần như vẫn độc canh trên thị trường tín dụng , tỷ trọng thu phí và dịch vụ từ hoạt động đầu tư
tài chính thấp.
Tài liệu tham khảo them:
Thời gian qua, cổ phiếu ngân hàng trên TTCK được nhà đầu tư đánh giá rất cao. Những cái tên
như ACB, Sacombank… trở nên sáng giá hơn bao giờ hết. Cổ phiếu ngân hàng luôn được nhà
đầu tư ưu ái đặc biệt so với nhiều loại cổ phiếu khác có tiềm năng trên thị trường. Tại sàn Hà
Nội, cổ phiếu của ACB có mức chào bán lên tới hơn 16 lần mệnh giá, cá biệt có lúc lên đến gần
290.000 đồng/ cổ phiếu, gấp gần 30 lần mệnh giá. Thậm chí có nhiều nhà đầu tư đã bán cổ phiếu
của các doanh nghiệp để mua cổ phiếu của các ngân hàng vì kỳ vọng giá cổ phiếu của ngân hàng
trong tương lai sẽ tăng cao.
Kết quả kinh doanh đầy ấn tượng của các ngân hàng trong năm qua và quý 1 năm nay là nguyên
nhân khiến cho giá cổ phiếu ngân hàng tiếp tục giữ vị trí cao những loại hàng có giá trị nhất trên
TTCK. Năm 2006 các ngân hàng thương mại đạt mức sinh lời rất hấp dẫn, tỷ lệ lãi ròng trên vốn
tự có bình quân đạt 17-18%, một số ngân hàng thương mại đạt trên 30%. Còn trong quý 1 năm
nay, ACB vừa công bố lợi nhuận trước thuế đạt 413 tỷ đồng, gấp 3.75 lần so với cùng kỳ năm
ngoái. Với sự tăng trưởng nhanh và vững, cổ phiếu ACB tiếp tục là tâm điểm thu hút sự chú ý
của nhiều nhà đầu tư. Còn Sacombank cũng công bố mức lợi nhuận trước thuế trong quý 1 năm
nay
đạt
mức
302
tỷ
đồng,
tăng
188%
so
với
cùng
kỳ
năm
trước.
Ngoài sức hấp dẫn từ hoạt động kinh doanh ngân hàng không ngừng tăng trưởng nhanh với mức
lợi nhuận ấn tượng thì yếu tố vốn ngoại đổ vào các ngân hàng cũng là một điểm nhấn thu hút sự
chú ý của các nhà đầu tư. Sacombank, ACB, Techcombank, VPBank lần lượt có đối tác chiến
lược nước ngoài. Lĩnh vực kinh doanh tài chính đang được xem là tiềm năng và sáng giá nhất
trong bối cảnh hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới.trong các ngành hấp dẫn thu hút dầu tư
thì ngân hàng- tài chính với tỷ lệ 36.5% trong khi ngành hấp dẫn thứ hai là dầu khí chỉ có tỷ lệ
được chọn là 12.4%.
Đặc biệt, theo nhiều chuyên gia, TTCK hứa hẹn sẽ sôi động với sự đại náo của các ngân hàng
quốc doanh được cổ phần hóa.
Ngân hàng là một doanh nghiệp đặc biệt. Đặc biệt bởi đó là một doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ.
Ngân hàng nhận tiền gửi của những người tạm thời có vốn nhàn rỗi thông qua tài khoản tiền gửi
tiết kiệm , tiền gửi thanh toán, các kỳ phiếu , trái phiếu ngân hàng…và sau đó chuyển giao chúng
cho các chủ thể cần vốn trong nền kinh tế. Lợi nhuận của ngân hàng có được do sự chênh lệch lãi
suất giữa lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay. Lãi suất cho vay phải cao hơn lãi suất tiền gửi một
khoảng đủ để bù đắp chi phí hoạt động và có một phần lợi nhuận cho ngân hàng. Bên cạnh đó,
lợi nhuận của ngân hàng còn có đựơc từ việc cung cấp các dịch vụ tính phí đối với khách hàng.
Một
nguồn
thu
khác
nữa
đến
từ
đầu
tư
và
chứng
khoán.
Xét về mặt lý thuyết , ngân hàng là một ngành kinh doanh đầy rủi ro. Rủi ro bởi hoạt động của
ngân hàng dựa chủ yếu trên lòng tin của người dân. Họ đem tiền đến ngân hàng gửi và tin tưởng
vào khả năng thanh toán của ngân hàng khi họ có nhu cầu. Do vậy chỉ cần một thông tin thất
thiệt làm mất lòng tin của người dân về khả năng tài chính của ngân hàng là ngay lập tức họ có
thể đồng loạt kéo đến ngân hàng rút tiền, có thể khiến ngân hàng lâm vào tình cảnh khốn khó,
thậm chí có thể phá sản.
Ngân hàng- tiềm năng
Có thể khẳng định rằng trong bối cảnh nền kinh tế đang rất cần vốn để tăng trưởng thì tương lai
cho hoạt động của các ngân hàng là rất tiềm năng. Nhất là khi mà hiện nay dư nợ cho vay mới
chỉ chiếm 60% GDP, trong khi ở Trung Quốc là 150%, con số trên 84 triệu dân nhưng mới chỉ
có trên 5 triệu tài khoản và số thẻ tín dụng đang tính ở con số hàng trăm nghìn, số thẻ ATM cũng
chỉ khoảng 3 triệu thẻ…Nhưng đây cũng là ngành tiềm ẩn rủi ro rất lớn. Cùng với rủi ro lãi suất ,
rủi ro tín dụng có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với hoạt động của ngân hàng.
Cuộc
chạy
đua
tăng
lãi
suất
của
ngân
hàng
Việt
Nam
Manh nha cho cuộc chạy đua tăng lãi suất bắt đầu từ năm 2004 và liên tiếp tăng trong năm 2005
và 2006. Riêng trong năm 2006, tính từ đầu năm đến cuối năm hầu hết các ngân hàng thương
mại đều đồng loạt tăng lãi suất huy động vốn. Tùy vào nhu cầu vốn, thời hạn huy động và điều
kiện của mỗi ngân hàng, lãi suất được điều chỉnh tăng với các mức khác nhau đối với mỗi loại kỳ
hạn tiền gửi. So với đầu năm, lãi suất huy động bằng đồng VN của các ngân hàng thương mại
tăng từ 0,2 - 0,9%/năm, dao động từ 8 - 9,84%/năm.
Điều đáng nói việc tăng lãi suất dường như không dựa trên cơ sở cung - cầu vốn, mà căn cứ bởi
nhiều lý do khác, đặc biệt là lý do cạnh tranh để giữ thị phần. Theo Ngân hàng Nhà nước Chi
nhánh TP.HCM, 9 tháng đầu năm 2006 tổng dư nợ tín dụng ước đạt 205.731 tỷ đồng, tăng 18,8%
so với đầu năm; trong khi huy động vốn tiếp tục đạt tốc độ tăng trưởng cao, đạt 241.300 tỷ đồng,
tăng 27,7% so với đầu năm và tăng 37,6% so với cùng kỳ năm trước. Điều này chứng tỏ vốn của
các ngân hàng đang trong tình trạng dư thừa, cung cầu vốn ở mức bình thường, nhưng lãi suất
huy động trên thị trường vẫn tăng cao.Với áp lực tăng lãi suất huy động, việc tiếp tục điều chỉnh
tăng lãi suất cho vay là khó tránh khỏi. Tuy nhiên, khi lãi suất huy động và lãi suất cho vay
không có bước gia tăng tương ứng thì rất có thể các ngân hàng phải chấp nhận giảm lợi nhuận,
mặt khác lãi suất cho vay tăng cao cũng làm tăng khả năng gia tăng nợ khó đòi.
Thế nhưng con số lợi nhuận ấn tượng các ngân hàng công bố ra công chúng trong năm 2005,
2006 và quý 1 năm 2007 dường như lại phủ nhận những lo ngại trên. Vậy đâu là lời giải cho bí
ẩn
lợi
nhuận
của
ngân
hàng?
Lợi nhuận cao là tốt, song điều nhà đầu tư chờ đợi hơn cả là lợi nhuận cao cùng sự ổn định trong
dài hạn. Nhưng hầu hết lợi nhuận các ngân hàng có được đều phụ thuộc chủ yếu vào hoạt động
tín dụng. Ở các nước có hệ thống ngân hàng phát triển thì chênh lệch lãi suất đầu vào đầu ra thấp
và phần lớn thu nhập của ngân hàng có được từ các hoạt động dịch vu. Nhưng điều này lại ngược
lại ở Việt Nam. Chênh lệch lãi suất đầu vào - đầu ra của ngân hàng Việt Nam vẫn còn cao so với
các nước có hệ thống ngân hàng phát triển. Trong khi đó so với cổ phiếu của các ngân hàng châu
Á thì giá ở Việt Nam hiện nay cao gấp đôi. Phải chăng nhà đầu tư nên có cái nhìn lại đối với cổ
phiếu ngành ngân hàng?
Cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập
Mặc dù do đặc thù trong hoạt động Ngân hàng, việc thành lập một Ngân hàng thương mại mới
phải tuân thủ theo các điều kiện khá chặt chẽ do Ngân hàng Nhà nước ban hành. Trong một
chừng mực nào đó, các ngân hàng thương mại chưa thật sự chịu áp lực cạnh tranh lớn như các
ngành nghề khác. Do vậy ngành ngân hàng tự thân đã có sức hút mạnh mẽ. Sự hấp dẫn chung do
đặc thù ngành khi cơn sốt cổ phiếu lên cao độ, chênh lệch cổ phiếu giữa các ngân hàng đã liên
tục được giảm. Trên thị trường OTC, giá cổ phiếu ABBank, SHB, G-Bank… đã tiến rất gần
những ngân hàng thâm niên hơn, quy mô hơn, thương hiệu nổi tiếng hơn, lợi nhuận lớn hơn là
VPBank, VIB Bank, Southern Bank, Habubank… Nhà đầu tư cố gắng săn, mua cho bằng được
cổ phiếu ngân hàng mà không quan tâm đến ngân hàng đó ra sao? Quy mô hoạt động thế nào?
Chính điều này có thể dẫn đến những sai lầm lớn cho nhà đầu tư. Bởi theo cam kết gia nhập
WTO, từ 2007, Việt Nam phải mở cửa thị trường tài chính. Cùng với đó, ngân hàng thương mại
nước ngoài sẽ được phép thành lập chi nhánh và ngân hàng con tại Việt Nam. Dự báo cho thấy
trong tương lai không xa, tấm bản đồ Việt Nam sẽ có những thay đổi căn bản. Khoảng 50% các
ngân hàng nhỏ sẽ biến mất do bị các ngân hàng lớn mua lại hoặc sáp nhập với các ngân hàng lớn
do sức ép cạnh tranh. Chỉ có ngân hàng nào đủ mạnh về lượng và chất mới có thể tồn tại, nếu
không sẽ phá sản. Do vậy, trước khi chọn đầu tư vào cổ phiếu ngân hàng nào, nhà đầu tư phải hết
sức thận trọng.
Thời gian qua, nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh trong bối cạnh hội nhập, các ngân hàng đã
tăng vốn điều lệ, gia tăng mạng lưới hoạt động, chúng ta liên tục chứng kiến các ngân hàng lần
lượt gia nhập vào câu lạc bộ “1000 tỷ”. Tuy nhiên, việc tăng vốn điều lệ và mở rộng mạng lưới
hoạt động trong khi ngân hàng chưa đủ khả năng, nhân lực để mở rộng sản phẩm, dịch vụ của
mình. Đầu tư nhiều tỷ đồng để cho ra đời các dự án nhằm thực hiện chương trình “Hiện đại hóa
ngân hàng” trong khi chưa có nhân lực. Rồi chi phí thuê mặt bằng, thuê nhân viên, các dịch vụ
khác… khi mở rộng mạng lưới chi nhánh mà chưa có khách hàng là gánh nặng đối với ngân
hàng. Thêm nữa, các ngân hàng tự tin khi các ngân hàng nước ngoài đổ bộ vào Việt Nam, họ có
ưu thế là am hiểu con người , địa phương, nắm bắt được tâm lý người Việt, có được một lượng
khách hàng quen thuộc. Thế nhưng, nếu nhân viên các ngân hàng nước ngoài cũng là người Việt
thì liệu lợi thế trên có còn không? Cũng nên nhắc lại một bài báo đăng trên tờ Newsweek ngày
31-10-2005 cho thấy ngay cả ở Trung Đông, nơi kinh Koran và luật pháp Koran cấm cho vay
tiền để kiếm lời, mà những tập đoàn như Citigroup vẫn thành công và lần chiếm thị phần của
ngân hàng nội địa. Liệu chăng cũng là một ví dụ cho chúng ta nhìn rõ hơn những thách thức
trong bối cảnh hội nhập của ngân hàng.
36. Phân tích sự khác biệt giữa phân tích công ty và phân tích cổ phiếu
Nhà đầu tư thực hiện hoạt động phân tích cơ bản phải trải qua 3 giai đoạn : Phân tích vĩ
mô nền kinh tế và thị trường cỏ phiếu nhằm xác định tỷ trọng vốn đầu tư vào cổ phiếu , phân tích
các ngành kinh doanh nhằm xác định những ngành có có thu nhập trên mức rủi rot rung bình.
Lúc này nhà đầu tư phải trả lời câu hỏi cuối cùng trong qui trình phân tích cơ bản : Có những
công ty nào trong ngành kinh doanh đã là lựa chon tốt nhất và cổ phiếu của nó có đang ở dưới
giá trị hay không. Nói cách khác, công ty được lựa chọn là những công ty mà giá trị cổ phiếu lớn
hơn giá trị thị trường, hoặc tỷ suất lợi nhuận kì vọng cổ phiếu ngang bằng hay lớn hơn tỷ suất lợi
nhuận yêu cầu.
Phân tích công ty và phân tích cổ phiếu có sự khác biệt. Cổ phiếu công ty tốt không nhát
thiết là khoản đầu tư tốt. Việc phân tích cho phép đánh giá về chất lượng công ty, đội ngũ quản
lý và triển vọng của nó trong tương lai. Tuy nhiên, giá trị của một công ty không phải là sự phản
ánh nhu cầu đầu tư vào cổ phiếu của công ty đó. Trong phân tích cổ phiếu, nhà đầu tư phải so
sánh giá trị thực của một cổ phiếu với giá trị thị trường để xem quyết định có nên đầu tư vào cổ
phiếu đó không. Cổ phiếu của một công ty tốt với đội ngũ quản lý có năng lực và kết quả hoạt
động cao có thể có thị giá quá cao so với giá trị thực, loại cổ phiếu này không đáng đầu tư.
Ngược lại, cổ phiếu của công ty có kết quả hoạt động kinh doanh không tốt bằng, song giá trị thị
trường của cổ phiếu lại thấp hơn giá trị thực của nó. Việc đầu tư vào có thể kiếm thu nhập từ
tăng giá cổ phiếu.
1.
Công ty tăng trưởng và cổ phiếu tăng trưởng:
Công ty tăng trưởng là một doanh nghiệp với đội ngũ quản lý có năng lực và có cơ hội
thực hiện đầu tư đẻ thu dc tỷ suất lợi nhậu cao hơn tỷ suất lợi nhuận yêu cầu của công ty.
Cổ phiếu tăng trưởng không nhất thiết là những cổ phần của công ty tăng trưởng. Một cổ
phiếu tăng trưởng là một cổ phiếu có tỷ suất thu nhập cao hơn những cổ phiếu khác trên thị
trường với cùng độ rủi ro. Cổ phiếu đạt thu nhập cao là vì ở một số thời điểm , thị trường đánh
giá nó có giá trị kém hơn cổ phiếu khác. Một cổ phiếu tăng trưởng trong tương lai có thể được
phát hành bỏi bất kì loại công ty nào, chỉ cần cổ phiếu đó đnag bị thị trường đánh giá dưới giá trị
2.
Công ty phòng vệ và cổ phiếu phòng vệ: Công ty phòng về là những công ty
mà thu nhập tương lai của chúng có thể ít có sự biến động khủng hoảng kinh tế. Nhưng công ty
này có rủi ro kinh doanh thấp và hầu như không có rủi ro tài chính vượt mức. Cổ phiếu phòng
về là cổ phiếu có tỷ suất lợi nhuận không giảm sút trong giai đoạn xuống dốc của toàn bộ thị
trường.
3.
Công ty có tính chu kì và cổ phiếu có tính chu kỳ: Doanh số bán và thu nhập
của công ty chu kỳ sẽ bị ảnh hưởng nặng nề bởi rất nhiều hoạt động kinh doanh. Công ty này sẽ
ăn nên làm ra trong quá trình phát triển của nền kinh tế và sẽ lâm vào hoàn cảnh khó khăn khi
nền kinh tế suy thoái. Một cổ phiếu có chu kỳ sẽ có tỷ suất lợi nhuận thay đổi lớn hơn sự thay
đổi của lợi nhuận của toàn thị trường.
4.
Công ty đầu cơ và cổ phiếu đầu cơ: Công ty đầu cơ là công ty mà tài sản củ nó
bao gồm nhiều tài sản có độ rủi ro cao, nhưng cũng có khả năng sinh lời lớn. Cổ phiếu đầu cơ là
cổ phiếu có khả năng đạt tỷ suất sinh lời thấp hơn hoặc âm và ít có khả năng đạt tỷ suất lợi nhuận
trung bình hoặc cao. Nó có thể là cổ phiếu của công ty đầu cơ, hoặc ngược lại với một cổ phiếu
tăng trưởng. Cụ thể, cổ phiếu đầu cơ là loại cổ phiếu được đánh giá quá cao, vì vậy vào thời kì
tương lai khi thị trường điều chỉnh giá cổ phiếu về đúng giá trị thực, nó sẽ thu được tỷ suất lợi
nhuận thấp hoặc có thể âm.
37. Phân tích các chiến lược cạnh tranh của doanh nghiệp
Mục tiêu chiến lược cạnh tranh là tìm ra vị trí trong ngành mà công ty có khả năng tự vệ
tốt nhất trước những yếu tố cạnh tranh hoặc có thể tác động thay đổi chúng theo hướng có lợi.
Năm yếu tố cạnh tranh là : Sự gia nhập, sự đe dọa của sản phẩm thay thế, sức mạnh mặc
cả của khách hàng, sức mạnh mặc cả của nhà cung cấp, cạnh tranh giữa các đối thủ hiện có và sự
gia nhập của đối thủ mới. Năm yếu tố cạnh tranh quyết định đến cường độ cạnh tranh và mức lợi
nhuận đạt được.
Các chiến lược cạnh tranh của doanh nghiệp:
-
Đối với doanh nghiệp mới gia nhập. Sự gia nhập này phụ thuộc vào các rào cản
như: lợi thế kinh tế nhờ qui mô, đặc trưng sản phẩm,yếu tố vốn, các chi phí chuyển đổi, sự tiếp
cận đến các kenh phân phối… Tạo ra các lợi thế về qui mô sản xuất, vốn hoạt động, các kênh
phân phối, cắt giảm chi phí cùng với kinh nghiệm tích lũy trong ngành nghề kinh doanh sẽ tạo ra
rào cản gia nhập.