Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 140 trang )
Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục
P
R
ln
At
Div
At
t
PA,t 1
Trong đó: RAt: Tỷ suất sinh lợi của tài sản A thời điểm t, PAt và PA,t-1: Giá trị tài sản
A thời điểm t và thời điểm t-1, Divt: Cổ tức (dòng tiền thu nhập) trong suốt thời kỳ từ t-1 đến t.
Với giả định tỷ suất sinh lợi chứng khoán là một đại lượng ngẫu nhiên. Do vậy, nó có
đầy đủ các tham số đặc trưng của đại lượng ngẫu nhiên như: kỳ vọng toán, phương sai, độ lệch
chuẩn, giá trị tin chắc nhất, mô men, hệ số bất đối xứng, hệ số nhọn…
Tỷ suất sinh lợi kỳ vọng của danh mục:
Tỷ suất sinh lợi kỳ vọng của danh mục. ký hiệu E(Rport) được tính như sau:
n
E( R port )
Wi E(Ri )
i 1
Trong đó,
Wi = tỷ trọng tài sản thứ i trong danh mục
(1.1)
Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục
E(Ri) = tỷ suất sinh lợi của tài sản thứ i.
Phương sai (độ lệch chuẩn) của tỷ suất sinh lợi của một tài sản.
Phương sai (độ lệch chuẩn) của tỷ suất sinh lợi của một tài sản đôi khi ta còn gọi là
phương sai (độ lệch chuẩn) của một tài sản, được xác định như sau:
n
Phương sai:
2
2
R
i
E(Ri ) Pi , trong đó: Pi là xác suất của TSSL Ri.
i 1
n
Độ lệch chuẩn:
2
Ri
2
E (Ri ) Pi
i
1
Phương sai (độ lệch chuẩn) của tỷ suất sinh lợi của danh mục đầu tư:
Trước tiên, ta xem xét định nghĩa về hiệp phương sai. Hiệp phương sai của hai tỷ suất
sinh lợi của hai chứng khoán i và j (ký hiệu Covij) được định nghĩa:
Covij = E(RiRj) – E(Ri)E(Rj)
8
Hệ số tương quan của hai tỷ suất sinh lợi đo lường mức độ quan hệ tuyến tính giữa tỷ
suất sinh lợi hai chứng khoán i và j, ký hiệu ρij, được xác định:
Covij
ij
i j
Hệ số tương quan có tính chất: -1 ≤ ρij ≤ +1. Nếu ρij càng gần 0 thì ta gọi là tương
quan lỏng lẻo, còn nếu ρij càng gần ±1 thì có sự tương quan chặt. Nếu hai chứng khoán có tỷ
suất sinh lợi độc lập thì ρij = 0. Tuy nhiên, lưu ý rằng điều ngược lại không đúng, tức là nếu
hai tỷ suất sinh lợi của hai chứng khoán có hệ số tương quan bằng 0 thì chưa chắc chúng là độc
lập.
Khi đó, độ lệch chuẩn của danh mục được xác định:
n
2
wi
2
i
n
n
wi w j Covij
port
(1.2)
i 1
i 1 j 1
i j
Trong đó:
wi
: tỷ trọng của tài sản i trong danh mục;
2
σi
: Phương sai của tỷ suất sinh lợi của tài sản i.
Công thức trên chỉ ra rằng độ lệch chuẩn của tỷ suất sinh lợi của danh mục là một hàm
của trung bình có trọng số của các phương sai riêng lẻ (ở đây các tỷ trọng được bình phương),
cộng với hiệp phương sai có trọng số của các tài sản trong danh mục. Độ lệch chuẩn của danh
mục không chỉ bao hàm phương sai của các tài sản đơn lẻ mà còn bao hàm cả hiệp phương sai
đôi một giữa các tài sản trong danh mục. Hơn nữa, nó còn chỉ ra rằng trong một danh mục đầu
tư với một lượng lớn các chứng khoán, công thức này là bình quân gia quyền của các hiệp
phương sai. Để đơn giản, ta quy ước một số ký hiệu như sau: Hiệp phương sai của hai tài
sản i và j là Cov(ri, rj), được ký hiệu là σij; phương sai của tài sản i là
2
Var(ri) = σi , được ký hiệu là σii.
Do đó, công thức 1.2 được viết lại:
n n
wi w j
port
ij
(1.3)
i 1 j 1
9
Thành lập một danh mục đầu tư
Danh mục đầu tư với hai tài sản:
Một danh mục gồm hai tài sản, với một hệ số tương quan cho trước, nếu kết hợp tất
cả các khả năng xảy ra của các tỷ trọng trong danh mục thì ta sẽ được một đường cong (hoặc
đường thẳng nếu hệ số tương quan bằng +1).
Sự đa dạng hoá tài sản đầu tư sẽ mang lại hiệu quả là giảm rủi ro danh mục, ngoại trừ
trường hợp các tài sản có tương quan cùng chiều hoàn hảo. Với một mức rủi ro cho trước,
nhà đầu tư sẽ chọn danh mục trên đường cong sao cho đạt tỷ suất sinh lợi cao nhất. Do vậy,
trên đồ thị, vùng đường cong từ E đến G là vùng không đầu tư vì nó đã được thay thế bằng
vùng đường cong từ E đến C có tỷ suất sinh lợi cao hơn.
Danh mục đầu tư với n tài sản:
Với danh mục gồm n tài sản, ta sẽ tính tỷ suất sinh lợi kỳ vọng và độ lệch chuẩn theo
công thức 1.1 và 1.2. Sau đó, cũng giống như trường hợp danh mục gồm hai tài sản, nhà đầu tư
sẽ lựa chọn các trường hợp khác nhau của tỷ trọng các tài sản sao cho ứng với một mức TTSL
cho trước sẽ đạt được mức rủi ro tối thiểu.
10
Tuy nhiên, với một số lượng lớn tài sản trong danh mục, chẳng hạn 100 chứng khoán,
thì số lượng tính toán rất lớn, ta phải tính đến 4950 hệ số tương quan giữa các tài sản,
chưa kể các phép tính về tỷ suất sinh lợi kỳ vọng và phương sai của các tỷ suất sinh lợi.
Đây chính là nhược điểm cơ bản của mô hình danh mục Markowitz. Nhưng với sự phát triển
của công nghệ thông tin ngày nay, chúng ta có thể tính toán dễ dàng nhờ các môi trường tính
toán cực mạnh. Tuy nhiên, vào những năm 1960, W. F. Sharpe đã đề xuất “mô hình thị
trường”, ước lượng rủi ro bằng mô hình hồi qui, đã giảm đáng kể khối lượng tính toán.
Markowitz cho rằng các nhà đầu tư không nên chọn các DMĐTtối đa hoá lợi
nhuận kỳ vọng vì bản thân tiêu chí này đã bỏ qua nguyên tắc đa dạng hoá, mà thay vào
đó xem xét phương sai của lợi nhuận để lựa chọn danh mục vốn đầu tư có lợi nhuận kỳ
vọng cao nhất với phương sai cho trước.
Cac buoc:
1. Nhà đầu tư xác định rõ tập hợp các tài sản rủi ro và phi rủi ro anh ta muốn xem xét cũng như
thời gian đầu tư.
2. Thứ hai, thực hiện việc phân tích chứng khoán, ở đây cụ thể là xác định lợi nhuận kỳ
vọng, mức độ rủi ro và mối tương quan giữa các tài sản được xem xét.
3. Bước thứ ba là tính toán tập hợp đầu tư hiệu quả, sử dụng các dữ liệu đã được tính toán ở
bước hai. Nếu tài sản phi rủi ro được sử dụng, tập hợp hiệu quả sẽ là đường thẳng, nếu không
nó sẽ là đường cong.
4. Bước cuối cùng là xác định DMĐTtối ưu thỏa mãn từng nhà đầu tư cụ thể (dựa vào yếu tố
ngại rủi ro của họ).
Ưu điểm của phương pháp này là bước một đến bước ba độc lập với nhà đầu tư và
chỉ cần làm một lần. Chỉ có bước bốn phải xem xét cho từng nhà đầu tư.
14. Trình bày ý nghĩa và phương pháp xác định đường biên hiệu quả
Trả lời:
Danh mục đầu tư gồm một tài sản rủi ro và một tài sản phi rủi ro
Tập hợp của tất cả các phương án đầu tư khả thi, trong trường hợp này tương ứng với đường
biên hiệu quả, chính là đường thẳng nối hai
điểm thể hiện hai dạng tài sản đầu tư đang được xem xét (1 tài sản phi rủi ro và 1 tài sản rủi
ro). Đường này chính là đường phân bổ vốn
(CAL)
Đường phân bổ vốn (CAL)
Đường phân bổ vốn CAL gồm có 4 đoạn:
1. F là điểm ở đó nhà đầu tư chỉ nắm giữ tài sản phi rủi ro (x1=0), do vậy, độ lệch chuẩn = 0.
2. Đoạn từ F tới R1 là tập hợp của tất cả các danh mục đầu tư vào cả
tài sản rủi ro và phi rủi ro (0 ≤x1 ≤1).
3. Tại điểm R1 tất cả danh mục đều đầu tư vào tài sản rủi ro (x1=1).
4. Từ R1 trở lên, phần tài sản rủi ro vượt quá 100% vốn đầu tư của danh mục (có nghĩa là
x1 > 1, x2 < 0). Điều này có nghĩa các nhà
đầu tư vay mượn với lãi suất phi rủi ro để mua tài sản rủi ro.
Độ dốc của đường CAL, như nhìn trên hình vẽ, thể hiện mức gia tăng lợi nhuận kỳ vọng
ứng với mỗi đơn vị rủi ro tăng thêm của danh mục đầu tư, hay nói cách khác, là thước đo
mức lợi nhuận vượt trội bù đắp cho mỗi đơn vị rủi ro tăng thêm. Chính vì vậy độ dốc của
CAL còn được gọi là hệ số lợi nhuận bù đắp rủi ro (reward to variability ratio). Công thức tính
hệ số này như sau:
S= (E(Rp) – RF)/ бP
Danh mục đầu tư gồm N tài sản rủi ro + một tài sản phi rủi ro
Trong trường hợp này nhà đầu tư có cơ hội đầu tư một phần của cải của anh ta vào một
tài sản phi rủi ro và số còn lại đầu tư vào một tập hợp các tài sản rủi ro. Nếu chúng ta nhớ lại
phương thức xây dựng danh mục đầu tư gồm nhiều tài sản rủi ro ở phần trước, nhà đầu tư có thể
lựa chọn một danh mục đầu tư kết hợp tuyến tính giữa một tài sản rủi ro và một danh mục nhiều
tài sản rủi ro nằm trên đường biên hiệu quả. Trong trường hợp tổng quát này, đường hiệu quả
chính là đường tiếp tuyến từ RF tiếp xúc với phần bao ngoài hình chiếc ô (đường biên hiệu
quả của danh mục gồm toàn các tài sản rủi ro).
Để lựa chọn danh mục đầu tư tối ưu của mình, nhà đầu tư sẽ chọn một danh mục đầu tư
nằm trên đường hiệu quả tuỳ theo tâm lý ngại rủi ro của anh ta. Một nhà đầu tư hoàn toàn ngại
rủi ro sẽ đầu tư 100% vốn vào RF. Lưu ý rằng không giống như trường hợp với N tài sản rủi ro,
ở đâu chỉ có một danh mục tiếp điểm, do vậy hệ số lợi nhuận bù đắp rủi ro (S) đối với tất cả các
nhà đầu tư là như nhau
Đường hiệu quả được biểu diễn như sau: