Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 140 trang )
Hoặc có thể được thể hiện lại như sau:
бM= [X1Mб1M + ………….+ XNMбNM]^0.5
thước đo hợp lý rủi ro của một tài sản riêng lẻ đóng góp vào danh mục đầu tư thị trường
là hệ số tích sai của tài sản đó với danh mục thị trường, và được thể hiện qua công thức dưới đây:
бiM/ б2M
Như vậy, kết hợp các công thức trên, ta có công thức căn bản của CAPM thể hiện mối
quan hệ giữa lợi nhuận kỳ vọng của một chứng khoán riêng lẻ hoặc của một danh mục không
hiệu quả và rủi ro tương ứng của chúng như sau:
E(RP)= RF +[(E(RM) – RF) / бM] * бiM/ бM
(*)
Theo đó, giá của một đơn vị rủi ro được thể hiện bằng: (E(RM) – RF) / бM
Công thức (*) được viết lại như sau, đây chính là công thức của đường thị trường chứng khoán
(SML):
E(RP)= RF +[(E(RM) – RF) / бM]*βi
Theo đó, beta được xác định theo công thức: βi = бiM/ бM = COV(Ri, RM)/VAR( RM)
Đường SML được thể hiện trên hình vẽ như sau:
Đường thị trường chứng khoán (SML)
Độ dốc của đường SML thể hiện mức độ ngại rủi ro trong nền kinh tế: mức ngại rủi ro
trung bình của nhà đầu tư càng lớn, đường SML càng có độ dốc lớn, mức bù rủi ro đối với bất kỳ
chứng khoán nào càng lớn và mức lợi nhuận kỳ vọng đối với các chứng khoán càng cao. Chúng
ta đều biết mức lãi suất phi rủi ro danh nghĩa bao gồm một mức lãi suất thực cộng với một mức
bù lạm phát dự kiến, vì vậy nếu lạm phát dự kiến tăng, thì đường SML sẽ tịnh tiến thẳng lên phía
trên.
Việc so sánh giữa đường thị trường chứng khoán SML và đường thị trường vốn CML là
điều cần thiết. Đường CML mô tả lợi nhuận kỳ vọng của các danh mục đầu tư hiệu quả là một
hàm của mức độ dao động của danh mục (được tính bằng độ lệch chuẩn của các mức lợi nhuận).
Điều này là hợp lý vì độ lệch chuẩn là thước đo rủi ro phù hợp đối với những danh mục đầu tư
được đa dạng hóa hiệu quả. Ngược lại, đường SML mô tả lợi nhuận kỳ vọng của một tài sản
riêng lẻ như là một hàm rủi ro của tài sản (được đo bằng độ nhạy cảm của chứng khoán đó trước
những biến động của thị trường). Thước đo rủi ro phù hợp đối với tài sản riêng lẻ nằm trong một
danh mục được đa dạng hóa tốt không phải là độ lệch chuẩn hoặc phương sai của tài sản đó, mà
là phần rủi ro của tài sản riêng lẻ đóng góp vào rủi ro tổng thể của danh mục (được đo bằng hệ số
beta của tài sản riêng lẻ). Sự hữu dụng của SML nằm ở khả năng định giá tài sản riêng lẻ: một tài
sản được định giá chính xác sẽ nằm đúng trên đường SML.
Lưu ý rằng, tất cả các danh mục vốn đầu tư hiệu quả của đường CML cũng nằm trên
đường SML, nhưng điều ngược lại thì không đúng. Điều này xuất phát từ thực tế là một danh
mục đầu tư gồm các tài sản rủi ro sẽ có mức khoản lợi nhuận kỳ vọng tỷ lệ với beta của danh
mục (xác định thông qua đường SML). Tuy nhiên, trừ phi danh mục này giống hệt danh mục đầu
tư thị trường, nếu không bất kỳ danh
mục đầu tư nằm trên đường SML không nhất thiết phải là hiệu quả và do đó không nhất thiết
nằm trên đường CML. Đường SML tạo ra một mức chuẩn để đánh giá hiệu quả hoạt động của
một loại chứng khoán. Với mức rủi ro xác định của một tài sản đầu tư (được đo bằng beta của tài
sản đó), đường SML đưa ra mức lợi nhuận kỳ vọng yêu cầu đối với tài sản đó để bù đắp cho mức
rủi ro mà nhà đầu tư chấp nhận cũng như cho giá trị của tiền đầu tư theo thời gian. Trong điều
kiện cân bằng giá cả trên thị trường, tất cả các chứng khoán đều phải nằm trên đường SML. Khi
đó, để phân tích xem một chứng khoán nào đó có phải là một khoản đầu tư tốt (bị định giá quá
thấp) hay không, ta phải xác định được chứng khoán đó đem lại một mức lợi nhuận kỳ vọng cao
hơn mức lợi nhuận kỳ vọng cân bằng xác định theo mô hình CAPM. Như vậy, các chứng khoán
bị định giá quá thấp sẽ nằm phía trên đường SML. Ngược lại các chứng khoán bị định giá quá
cao sẽ nằm phía dưới đường SML. Khoản chênh lệch giữa mức giá cân bằng hợp lý theo CAPM
và mức lợi nhuận thực của chứng khoán được gọi là hệ số alpha của chứng khoán, ký hiệu là α .
Đối với bất kỳ hệ số alpha nào khác 0, nhà đầu tư sẽ coi là chứng khoán đó đang chưa được định
giá đúng. Anh ta sẽ mua những chứng khoán nào có alpha >0 và bán những chứng khoán nào có
alpha<0. Ví dụ, nếu một cổ phiếu có beta là 1,2, mức lợi nhuận thị trường dự kiến là 14% và lãi
suất phi rủi ro là 6%, khi đó theo CAPM lợi nhuận dự kiến của cổ phiếu sẽ là 6+ 1,2(14-6)
=15,6%. Nếu một nhà đầu tư tin rằng cổ phiếu này đang đem lại mức lợi nhuận là 17%, giá trị
alpha của cổ phiếu sẽ là +1,4% và nhà đầu tư sẽ cân nhắc mua vào chứng khoán này.
17. Trình bày các giả thuyết của mô hình CAPM
a. Định nghĩa
Mô hình định giá tài sản vốn (Capital asset pricing model – CAPM) là mô hình mô tả mối quan
hệ giữa rủi ro và lợi nhuận kỳ vọng. Trong mô hình này, lợi nhuận kỳ vọng của một chứng khoán bằng
lợi nhuận không rủi ro (risk-free) cộng với một khoản bù đắp rủi ro dựa trên cơ sở rủi ro toàn hệ thống
của chứng khoán đó. Còn rủi ro không toàn hệ thống không được xem xét trong mô hình này do nhà đầu
tư có thể xây dựng danh mục đầu tư đa dạng hoá để loại bỏ loại rủi ro này.
Mô hình CAPM là mô hình đơn giản về mặt khái niệm và có khả năng ứng dụng sát thực với
thực tiễn. Cũng như bất kỳ mô hình nào khác, mô hình này cũng chỉ là một sự đơn giản hoá hiện thực
bằng những giả định cần thiết, nhưng nó vẫn cho phép chúng ta rút ra những ứng dụng hữu ích.
b. Giả định
Lý thuyết về mô hình CAPM và ứng dụng của nó dựa trên một số các giả thiết quan trọng về thị
trường chứng khoán và thái độ của nhà đầu tư như sau:
Giả định 1: Thị trường vốn là hiệu quả ở chỗ nhà đầu tư được cung cấp thông tin đầy đủ, chi phí
giao dịch không đáng kể, không có những hạn chế đầu tư, và không có nhà đầu tư nào đủ lớn để ảnh
hưởng đến giá cả của một loại chứng khoán nào đó. Nói khác đi, giả định thị trường vốn là thị trường
hiệu quả và hoàn hảo.
Đầu tiên. Một thị trường hiệu quả nó đòi hỏi một số lượng lớn các đối thủ cạnh tranh tham gia thị
trường với mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận, họ tiến hành phân tích và định giá các loại chứng khoán một
cách hoàn toàn độc lập với nhau.
Thứ hai là những thông tin mới về chứng khoán được công bố trên thị trường một cách ngẫu nhiên và
tự động, và việc quyết định về thời điểm công bố thông tin cũng độc lập lẫn nhau.
Thứ ba, đặc biệt quan trọng, là các nhà đầu tư luôn tìm mọi cách điều chỉnh giá chứng khoán thật nhanh
nhằm phản ánh chính xác ảnh hưởng của thông tin. Giá chứng khoán được điều chỉnh một cách nhanh
chóng là bởi số lượng lớn các nhà đầu tư với mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận cạnh tranh với nhau.
Cuối cùng, bởi tất cả các thông tin sẽ điều chỉnh giá chứng khoán, do đó những mức giá này sẽ phản
ánh tất cả các thông tin được công bố công khai tại bất kỳ thời điểm nào. Vì vậy, giá chứng khoán nào
mà bất biến tại mọi thời điểm có thể là do kết quả phản ánh sai thông tin và có thể mang lại rủi ro với
người sở hữu chứng khoán đó. Vì lẽ này, trong một thị trường hiệu quả, thu nhập kỳ vọng ẩn trong mức
giá hiện tại của chứng khoán cũng sẽ phản ánh rủi ro của nó.
Giả định 2: Nhà đầu tư kỳ vọng nắm giữ chứng khoán trong thời kỳ 1 năm và có hai cơ hội đầu
tư: đầu tư vào chứng khoán không rủi ro và đầu tư vào danh mục cổ phiếu thường trên thị trường.
Giả định 3: Các nhà đầu tư nắm giữ danh mục chứng khoán đa dạng hóa hoàn toàn. Do đó
những đòi hỏi về tỷ suất sinh lợi của nhà đầu tư bị tác động chủ yếu bởi rủi ro hệ thống của từng chứng
khoán chứ không phải là rủi ro tổng thể.
Ngoài ra còn có các giả định:
- Không có chi phí cho việc mua và bán chứng khoán.
- Không có thuế.