Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (10.65 MB, 90 trang )
- Coi thị trường là khâu quan tong nhất của quá trình tái sản xuất hàng hoa
- Trên thị trường, người mua (nhu cầu) có vai trò quyết định đến sản xuất
- Nhu cầu là yếu tố quyết định quá trình sản xuất kinh doanh
- Nhu cầu có ảnh hưởng quyết định đến sản xuất hàng hoa và bán hàng
để thoa mãn nhu cầu đó. (Bán cái m à khách hàng cần, chứ không bán cái m à
ta đã có).
Marketing bao gồm tất cả các hoạt động và tính toán về mục tiêu, ý đồ
chiến lược từ khi sản xuất ra sản phệm cho đến những hoạt động sản xuất, tiêu
thụ và những dịch vụ sau bán hàng.
Tóm lại, Marketing là tổng thể các hoạt động của doanh nghiệp hướng
tới thoa mãn, gợi mở những nhu cầu của người tiêu dùng trên thị trường để đạt
được mục tiêu lợi nhuận.
1.2. Marketing dịch vụ du lịch
Muốn hiểu rõ marketing dịch vụ du lịch, chúng ta cần tìm hiểu marketing
dịch vụ bởi marketing dịch vụ du lịch cũng chính là một hình thái đặc biệt của
marketing dịch vụ.
Marketing dịch vụ có thể được định nghĩa là hoạt động nhằm thoa mãn
nhu cảu của con người về dịch vụ thông qua mua bán dịch vụ . Đ ể thoa mãn
6
nhu cầu của người tiêu dùng dịch vụ, nhiệm vụ của marketing dịch vụ là phải
phát hiện nhu cầu về dịch vụ của người tiêu dùng dịch vụ (nghiên cứu thị
trường), phát triển các dịch vụ đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng dịch vụ, xác
định giá dịch vụ thích hợp, tổ chức kênh cung cấp dịch vụ, thúc đệy việc tiêu
dùng dịch vụ, xây dựng, thực hiện và kiểm tra chiến lược kinh doanh, kế
hoạch marketing.
Marketing dịch vụ du lịch được hiểu là tiến trình nghiên cứu, phân tích
những nhu cấu của khách hàng, những sản phảm dịch vụ du lịch vả những
phương thức cung ứng, hể trợ để đưa khách hàng đến với dịch vụ nhằm thoa
mãn nhu cảu của ho, đổng thời đát ãươc múc tiêu của tổchức^(\m t\~K\
AJ
^
'Xi-tí-^v \
Nguyền Hoài Nam (2005), Marketing địch vụ trong phát triển thương mại dịch vụ ở Việt Nam trong tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế, Đ ạ i học Ngoại Thương, ư 16.
' Trân Ngọc Nam, Trân Huy Khang (2005), Marketing du lịch, tr 17
6
5
c
2. Những đặc trưng cơ bản của Marketing dịch vụ du lịch
2.1. Đặc trưng cơ bản của sản phẩm dịch vụ du lịch
Dịch vụ du lịch có những đặc tính sau: tính vô hình (Intangibility), tính
bất khả phân (Inseparability), tính khả biến (Variability), tính đễ phân huy
(Perishability), tính không đổng nhất (Herogeneity) và tính không có quyền sở
hữu (Nonownership)
Tính vô hình (Intangibility)
Khác với sản phẩm vật chất, các dịch vụ không thể nhìn thấy, nếm, ngửi,
cảm giác hay nghe thấy được trước khi mua. Trước k h i lên máy bay hay xe
hơi, hành khách không có gì cả, ngoời trừ một vé máy bay và lời hứa hẹn đảm
bảo về chất lượng sản phẩm ở nơi đến du lịch. Những nhân viên của lực lượng
bán dịch vụ lưu trú không thể mang một phòng ngủ đến bán cho khách qua
những cuộc gọi bán phòng. Thực tế, họ không thể bán phòng m à chỉ bán
quyền sử dụng phòng trong một khoảng thời gian đã chỉ định. K h i khách rời
phòng, họ cũng không mang theo một thứ gì khác ngoài một biên lai tính tiền.
Khi mua một dịch vụ du lịch, người mua có nhiều kỷ niệm có thể chia sẻ vói
người khác.
Đ ể giảm sự bất định về tính chất vô hình, người mua thường tìm hiểu
những dấu hiệu hữu hình qua việc thu thập thông tin để có được sự tin tưởng
chắc chắn về dịch vụ. Do tính chất vô hình của dịch vụ và sản phẩm du lịch
thường ở quá xa khách hàng nên người mua phải mất một khoảng thời gian
khá dài kể từ ngày mua sản phẩm cho đến khi sử dụng. Ngoài ra khi mua dịch
vụ du lịch, khách chỉ biết qua thông tin và một vài hình ảnh của một phần dịch
vụ, nên người bán đôi khi quá thổi phồng về dịch vụ làm cho khách cảm thấy
mình bị đánh lừa khi sử dụng dịch vụ kém chất lượng so với những lời quảng
cáo trước khi mua.
Tính bất khả phân
(Inseparabiìity)
Hầu hết các dịch vụ về khách sờn, nhà hàng, cả người cung cấp dịch vụ
và khách hàng không thể tách rời. Khách hàng tiếp xúc với nhân viên là một
6
phần quan trọng của sản phẩm. Thực phẩm trong nhà hàng có thể hoàn hảo,
nhưng nếu người phục vụ thiếu sự ân cần, hời hạt hay cung cấp dịch vụ thiếu
chu đáo, khách hàng sẽ đánh giá thấp về kinh nghiệm của nhà hàng. Vói tính
chất bất khả phân cho thấy sự tác động qua lại giữa người cung cấp và khách
hàng tạo nên sự tiêu thụ dịch vụ.
Tính bất khả phân cũng có nghĩa rằng khách hàng là một phần của dịch
vụ. Thởt vởy, không riêng gì người cung cấp dịch vụ m à cả khách hàng cũng
góp phần tạo nên chất lượng sản phẩm. Trong một nhà hàng, nếu một vài
người khách gây ổn ào, huyên náo sẽ làm ảnh hưởng đến những khách khác
không cùng nhóm, làm cho họ khó chịu. V à điều này vô hình chung đã làm
cho chất lượng dịch vụ của nhà hàng kém đi do bầu không khí không được
thoải mái với khách.
Như vởy, do tính bất khả phân, đòi hỏi người quản lý trong du lịch phải
đảm bảo sự quản lý chặt chẽ cả nhân viên lẫn khách hàng.
Tinh khả biến (Variability)
Dịch vụ rất dễ thay đổi, chất lượng của sản phẩm tuy thuộc phần lớn vào
người cung cấp và khi nào, ở đâu chúng được cung cấp. Có nhiều nguyên nhân
về sự thay đổi này:
- Dịch vụ được cung cấp và tiêu thụ cùng lúc nên giới hạn việc kiểm tra
chất lượng sản phẩm.
- Sự dao động về nhu cẩu tạo nên khó khăn cho việc cung cấp chất lượng
đồng nhất trong thời gian có nhu cầu cao điểm.
- Chất lượng sản phẩm tuy thuộc vào kỹ năng chuyên m ô n của người
cung cấp dịch vụ và lúc tiếp xúc giữa khách hàng với nhân viên.
- Chất lượng dịch vụ du lịch còn phụ thuộc vào tâm trạng, sức khoe của
người cung cấp dịch vụ: một khách du lịch có thể nhởn được nhũng dịch vụ
tuyệt vời ngày hôm nay và những dịch vụ xoàng xĩnh trong ngày kế tiếp do
cùng một nhân viên cung cấp. Trong trường hợp cung cấp dịch vụ tồi kể trên,
có lẽ nhân viên cung cấp dịch vụ cảm thấy sức khoe lúc bấy giờ không được
tốt hoặc do gặp vấn đề về tình cảm.
7
- Sự dễ thay đổi và thiếu đồng nhất của sản phẩm là nguyên nhân chính
của sự thất vọng ở khách hàng.
Tính di phân huy (Perishability)
Dịch vụ không thể tổn kho, nghĩa là sản phẩm du lịch không thể để dành
cho ngày mai. Dịch vụ không bán được ngày hôm nay, không thể để lại bán
sang ngày hôm sau. Thật vậy, mặt khách sạn có 100 phòng, nếu công suất
thuê phòng ngày hôm nay là 6 0 % , thì ngày mai không thể bán 140 phòng.
Doanh số sẽ mãi mãi mất đi do việc 40 phòng không bán được. Chính vì đặc
tính dễ phân huy này m à có nhiều khách sạn để cho khách đãng ký giữ chỗ
vượt trặi số phòng khách sạn hiện có, đôi khi việc làm này dẫn đến sự phiền
toái cho cả khách lẫn chù.
Tính không đồng nhất (Herogeneity)
Sản phẩm dịch vụ du lịch được tạo nên bởi sản phẩm hữu hình và vô
hình. Sản phẩm hữu hình là cơ sở vật chất du lịch còn sản phẩm vô hình là quy
trình phục vụ, thái đặ phục vụ... của người cung cấp dịch vụ. Chính vì vậy
dịch vụ du lịch có tính không đồng nhất. V ớ i đặc tính này thường rất khó khăn
để đạt tiêu chuẩn đầu ra của dịch vụ. M ỗ i trường hợp tiêu thụ dịch vụ đòi hỏi
có sự thực hiện cả người cung cấp lẫn người tiêu thụ. Cho nên, muốn có dịch
vụ tốt cần có sự thực hiện tốt từ cả hai phía.
Tính không có quyền sở hữu (Nonownership)
Dịch vụ du lịch không có quyền sở hữu. Thật vậy, với các dịch vụ như
khách sạn, hãng hàng không... khi sử dụng xong, chúng ta không mang theo
được chỗ ngồi hay chỗ nằm trong máy bay hay trong khách sạn để làm của
riêng m à chỉ mua quyền sử dụng những thứ đó.
Do những đặc tính trên nên sản phẩm dịch vụ du lịch có nhũng đặc điểm riêng:
Thứ nhất, thời gian khách du lịch tiếp cận với các dịch vụ du lịch ngắn
hơn so với dịch vụ khác, có thể chỉ trong vài giờ hoặc vài ngày.
Thứ hai, sự hấp dẫn mua sản phẩm dịch vụ của khách du lịch dựa vào
tình cảm nhiều hơn. Người mua sản phẩm này là khách du lịch, là người đi
8
chơi, nghỉ ngơi, mong muốn cảm nhận về nhân văn của một vùng, một nước.
Nhũng xúc cảm và tình cảm cá nhân nảy sinh từ những giao tiếp, phục vụ và
chúng có tác động lên hành v i mua sau này. Khách du lịch không chỉ là mua
một bữa ăn, mua cốc nước uống, ngủ trọ một đêm, ở một khách sạn m à chính
họ mua cái "tôi" của họ.
Thứ ba, khách du lịch thường đánh giá chất lưứng của dịch vụ du lịch
bằng những "dấu vết" (qua các dấu vết đã trải qua) hoặc bằng chứng hữu hình
m à họ đã nhìn thấy, ví dụ trong khách sạn là môi trường vật chất (trang trí,
bàn ghế...), bằng giá cả (giá cao đưức coi là chỉ số về sự sang trọng và chất
lưứng), những thông tin về các dịch vụ do họ đưức tiếp nhận, những đối tưứng
khách du lịch đã và đang lưu trú tại khách sạn.
Thứ tu, khách du lịch đa dạng về mục đích, về đối tưứng, về không gian
và thời gian nên bán sản phẩm dịch vụ du lịch cần có nhiều kênh phân phối,
nhiều hình thức phân phối.
2.2. Đặc trung cơ bản của Marketing dịch vạ du lịch
Do dịch vụ du lịch có những đặc tính riêng nên marketing dịch vụ du lịch
cũng có nhũng đặc trưng cơ bản sau:
Một, do tính vô hình của dịch vụ du lịch nên nhiệm vụ của marketing
dịch vụ du lịch là làm cho dịch vụ trở nên "hữu hình" đối với khách hàng, tạo
niềm tin cho khách hàng khi tiêu dùng dịch vụ. Do tính không đồng nhất của
dịch vụ du lịch, cần phải tiêu chuẩn hoa quy trình phục vụ, chuyên nghiệp hoa
đội ngũ nhân viên phục vụ...
Hai, về định giá dịch vụ du lịch: đo tính vô hình và tính không đổng nhất
của dịch vụ nên người tiêu dùng khó khăn hơn khi đánh giá giá cả của dịch
vụ, bởi người tiêu dùng không biết trước chất lưứng cũng như chi phí dịch vụ
trước khi tiêu dùng dịch vụ đó. v ề phía người cung cấp dịch vụ, ngoài dựa vào
chi phí, việc định giá dịch vụ phụ thuộc vào cảm nhận của người tiêu dùng.
Do đó định giá dịch vụ rất linh hoạt để thích ứng với điều kiện cụ thể từng
khách hàng hoặc từng nhóm khách hàng.
9
Ba, về phân phối dịch vụ du lịch: việc lựa chọn kênh phân phối phải căn
cứ vào đặc thù kinh t ế - k ỹ thuật của từng dịch vụ cụ thể. Có những dịch vụ sử
dụng đước cả kênh phân phối trực tiếp và gián tiếp, song có những dịch vụ chỉ
có thể phân phối qua kênh trực tiếp. Ví dụ, dịch vụ l ữ hành có thể phân phối
trực tiếp hoặc gián tiếp qua đại lý l ữ hành, nhưng dịch vụ hướng dẫn du lịch
chỉ có thể cung cấp trực tiếp từ hướng dẫn viên du lịch đến du khách.
Bốn, việc bán các sản phẩm dịch vụ du lịch cần phải có sự giúp đỡ tài trớ
của nhiều bộ phận, cơ quan trong việc quảng cáo, thông tin. Ví dụ trong ngành
kinh doanh khách sạn, cần phải có sự hỗ trớ phối hớp giúp đỡ nhau giữa các
khách sạn vì một khách sạn không thể đáp ứng đầy đủ mọi nhu cầu của khách
du lịch đước.
Năm, trong chiến lước marketing việc tổ chức quảng cáo, khuyến mại các
dịch vụ du lịch phải đước tiến hành trước thời kỳ cao điểm của du lịch (tức là
trước các mùa du lịch), có như vậy việc quảng cáo, khuyến mại mới có hiệu quả.
3. Sự khác biệt giữa Marketing dịch vụ du lịch với Marketing hàng hóa
Do đặc thù của dịch vụ, nên marketing dịch vụ, cụ thể là marketing dịch
vụ trong ngành du lịch trở nên phức tạp hem nhiều so với marketing hàng hoa.
Marketing dịch vụ du lịch giải quyết nhiều vấn đề khác nhau, trong đó có m ố i
quan hệ giữa sự nhận thức của khách du lịch và sự tiếp nhận của khách về sân
phẩm dịch vụ du lịch, cung và cầu dịch vụ du lịch, phương thức chuyến giao
dịch vụ du lịch... Sự khác biệt đó đước thể hiệnở những điểm sau:
- Điểm khác biệt cơ bản giữa marketing dịch vụ du lịch so với marketing
hàng hoa chính là đối tướng của marketing dịch vụ du lịch là sản phẩm dịch vụ
du lịch còn đối tướng của marketing hàng hoa là sản phẩm hữu hình.
- Về việc định giá dịch vụ du lịch: sản phẩm hữu hình đước ước tính
chính xác về các chi phí nhưng dịch vụ du lịch khi định giá ngoài dựa vào chi
phí còn phải tính đến cảm nhận của người tiêu dùng. Do vậy, việc xác lập kế
hoạch, việc định giá chi phí, giá thành và giá bán trong marketing dịch vụ du
lịch rất khó chính xác và hớp lý.
10
- v ề các kênh phân phối: ngành du lịch không có hệ thống phân phối vật
chất như các ngành sản xuất vật chất khác nên không thể vận chuyển sản
phẩm dịch vụ du lịch đến các nơi. Chính vì vậy phân phối dịch vụ du lịch cần
u
có nhiều trung gian, môi giói (các đại lý, văn phòng đại diện, các tổ chức điề
hành du lịch...)
- Về marketing hỗn hợp (marketing - mix): marketing - múc sản phẩm hữu
hình bao gộm 4 P: chính sách sản phẩm, chính sách giá, chính sách phân phối,
chính sách xúc tiến và hỗ trợ kinh doanh. Marketing dịch vụ du lịch kế thừa
marketing - mix sản phẩm hữu hình và mở rộng thêm các chính sách: con người,
cơ sở vật chất, quy trình phục vụ và quan hệ đối tác.
4. Vai trò của Marketing dịch vụ du lịch trong ngành du lịch Việt Nam
M u ố n thành công trong kinh doanh, ngoài các yếu tố vềvốn, công nghệ,
các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ du lịch phải hiểu rõ thị trường, nhu cầu
và mong muốn của khách du lịch, nghệ thuật ứng xử trong kinh doanh du
lịch... Marketing dịch vụ du lịch là một phương pháp hữu hiệu để các doanh
nghiệp thành công đổng thời phát triển dịch vụ du lịch của Việt Nam bội nó
có vai trò chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, marketing dịch vụ du lịch chỉ đạo, dẫn dắt và phối hợp các hoạt
động kinh doanh của các doanh nghiệp du lịch.
Thứ hai, marketing dịch vụ du lịch cung cấp cơ sở khoa học và thực tiễn
vững chắc cho việc ra quyết định kinh doanh của doanh nghiệp du lịch. Thông
qua việc nghiên cứu thị trường, marketing xác định rõ cung cấp dịch vụ cho ai,
cung cấp dịch vụ như thế nào... Nhờ đó, dịch vụ của doanh nghiệp kinh doanh
du lịch có thể thoa mãn được yêu cầu của khách du lịch, thu hút nhiều hơn
khách du lịch cả trong và ngoài nước.
Thứ ba, khách du lịch có yêu cẩu ngày càng cao đối với dịch vụ, chất
lượng dịch vụ, giá cả dịch vụ... Thông qua chức năng nghiên cứu thị trường,
marketing làm cho dịch vụ của doanh nghiệp kinh doanh du lịch luôn thích
ứng với nhu cầu thị trường và người tiêu dùng dịch vụ.
li
Thứ tư, marketing dịch vụ du lịch thúc đẩy nghiên cứu, phát triển và đổi
mới dịch vụ thích ứng với sự biến động thị trường.
Thứ năm, thông qua việc lập ra các chiến lược marketing dịch vụ du lịch,
marketing giúp các doanh nghiệp du lịch có hướng phát triển đúng đồng thời
thực hiện các hoạt động kinh doanh mang lại hiệu quả cao hơn.
Thứ sáu, marketing dịch vụ du lịch giúp tăng khả năng cạnh tranh cởa
dịch vụ du lịch Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
V ớ i những vai trò trên, marketing dịch vụ du lịch đã trở thành một tổng
hợp các phương pháp quảng cáo dịch vụ du lịch ngày càng hoàn chỉnh để sử
dụng vào việc đầu tư và cải tạo thị trường du lịch Việt Nam.
n. QUY TRÌNH NGHIỆP vụ MARKETING DỊCH vụ DU LỊCH
1 Nghiên cứu mõi trường Marketing dịch vụ du lịch
.
Môi trường Marketing dịch vụ du lịch là tổng thể các yếu tố bên ngoài
tác động đến hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch cởa doanh nghiệp. Môi
trường marketing dịch vụ vận động không ngừng và không phụ thuộc vào ý
chí chở quan cởa doanh nghiệp. Việc nghiên cứu môi trường marketing có vai
trò quan trọng đối với doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ du lịch. Muốn tổn tại
và phát triển, doanh nghiệp dịch vụ phải nắm bắt môi trường marketing. Việc
phân tích môi trường marketing giúp doanh nghiệp cảnh báo sớm những biến
đổi cởa môi trường, thị trường để kịp thời ứng phó. Thực tiễn cho thấy những
doanh nghiệp thành công là những doanh nghiệp có khả năng dự báo tốt và
phản ứng nhanh trước biến động cởa môi trường marketing.
Theo Philip Kotler, môi trường marketing gồm: môi trường v i m ô (doanh
nghiệp, người cung ứng, người môi giới marketing, khách hàng, đối thở cạnh
tranh...); môi trườns vĩ m ô (môi trường nhân khẩu học, môi trường kinh tế,
môi trường tự nhiên, môi trường khoa học - công nghệ, môi trường chính trị,
môi trường văn hoa).
12
1.1. Mòi trường vi mô
Môi trường v i m ô là bối cảnh thuộc nội bộ doanh nghiệp, các nhà cung
cấp, các trung gian marketing, khách hàng và cõng chúng. Bối cảnh nội bộ
doanh nghiệp chứa đựng các yếu t ố chủ quan m à doanh nghiệp có thể kiểm
soát được. Các nhân tố đó là: tình hình tài chính, trình độ công nghệ, đội ngũ
cán bộ nhân viên của doanh nghiệp, các quyết định từ các cấp thuộc doanh
nghiệp trong quá trình kinh doanh...
K h i nghiên cứu môi trường v i m ô , chúng ta cần chú ý xem xét chức năng
và hoạt động của tất cả các phòng ban trong doanh nghiệp, năng lực và x u
huống phát triển của các nhà cung cấp, nghiên cứu đặc điểm của các trung
gian marketing - hụ là những cá nhân và tổ chức giúp công ty du lịch tìm
kiếm khách hàng và cung cấp dịch vụ, bao gồm các đại lý du lịch, những công
ty điều hành tua du lịch quy m ô lớn, các đại diện khách sạn, công ty vận
chuyển hành khách, các hãng cung cấp dịch vụ marketing và các trung gian
tài chính.
1.2. Môi trường vĩ mô
Trong kinh doanh, các công ty du lịch đều không thể tránh khỏi phải
cạnh tranh với các doanh nghiệp khác. Đ ể có thể thành công, các công ty này
phải thoa mãn nhu cầu và mong muốn của khách hàng tốt hơn đối thủ cạnh
tranh của mình. Hoạt động marketing không chỉ hướng tới nhu cẩu của khách
hàng mục tiêu m à còn phải chống trụi với các chiến lược của các đối thủ cạnh
tranh cũng đang nhắm vào thị trường mục tiêu đó. K h i nghiên cứu đối thủ
cạnh tranh, các công ty sẽ biết được quy m ô và vị trí của mình trẽn thị trường
từ đó có thể đưa ra các chiến lược marketing phù hợp.
Các yếu tố về nhân khẩu thường được nghiên cứu là sự thay đổi về cơ
cấu tuổi của dân số (tỷ lệ các nhóm tuổi trẻ em, vị thành niên, thanh niên,
trung niên...); xu hướng thay đổi của các gia đình (tuổi trưởng thành, tuổi kết
hôn, tuổi sinh nở, số con trong gia đình, tỷ lệ ly hôn, thu nhập trong gia đình,
thời gian dành cho con cái...); vấn đề di dân về mặt địa lý; vấn đề giáo dục
13
đào tạo; sự đa dạng về dân tộc và sắc tộc. Chính những sự thay đổi này dẫn
đến những thay đổi về nhu cầu đối với dịch vụ du lịch của các công ty.
K h i nghiên cứu môi trường kinh tế cần chú ý các chỉ số: tổng sển phẩm
quốc nội hay tổng sển phẩm quốc dân, tốc độ tăng trưởng kinh tế, trình độ
phát triển kinh tế, phương thức chi tiêu của dân cư, tình hình lạm phát, thất
nghiệp, suy thoái hay tăng trưởng của địa phương, quốc gia, khu vực hay quốc
tế. Đ ấ y là những yếu tố ểnh hưởng đến quyết định du lịch của khách hàng.
Môi trường tự nhiên được nghiên cứu thiên về khía cạnh bểo tổn các
nguồn tài nguyên và xử lý rác thểi ểnh hường đến cơ sở hạ tầng trong
marketing dịch vụ du lịch.
Môi trường công nghệ có ý nghĩa sống còn đối với kinh doanh dịch vụ du
lịch, nó vừa mang lại sự sống cho ngành du lịch (thuốc chữa bệnh, khách sạn
được trang bị hiện đại...); lại vừa đe doa ngành này (chiến tranh hoa học, bom
khí...); đôi khi nó lại sển sinh ra những sân phẩm vừa phục vụ nhưng lại cũng
có thể gây hại đến du lịch (tivi, ô tô...)- Tuy nhiên nhìn chung, khoa học công
nghệ phát triển cũng làm tăng hàm lượng công nghệ trong dịch vụ, nâng cao
độ thoa dụng dịch vụ và chất lượng địch vụ. Do vậy, nếu biết lựa chọn những
tiến bộ công nghệ thích hợp, các doanh nghiệp sẽ có lợi thế cạnh tranh so với
các đối thủ khác.
Môi trường chính trị được tạo thành bởi luật pháp, các cơ quan chính phủ
và các tổ chức có khể năng gây ểnh hưởng và hạn chế đối với các tổ chức và
cá nhân trong xã hội. M u ố n thâm nhập và kinh doanh dịch vụ thành công ở thị
trường của một nước, việc nghiên cứu chính sách pháp luật và những tác động
của chính sách pháp luật đến kinh doanh dịch vụ là cần thiết. Từ đó các doanh
nghiệp du lịch có thể nấm bắt được những xu hướng chính trị và thấy được ý
nghĩa của chúng đối với công tác quển trị marketing của mình.
Nghiên cứu môi trường văn hoa có ý nghĩa quan trọng đối với các doanh
nghiệp du lịch. Văn hoa là phạm trù dùng để chỉ những giá trị vật chất và tinh
thần do một cộng đồng dân cư tạo lập như các d i sển, tập quán, chuẩn mực,
14
giá trị, niềm tin, cấu trúc xã hội, tôn giáo giao tiếp... M ỗ i nền văn hoa có
nhũng hệ thống giá trị khác nhau, bân thân một nền văn hoa ở những thời kỳ
lịch sử khác nhau cũng có những giá trị khác nhau. Hiểu rõ được các yếu tố đó
giúp doanh nghiệp du lịch có thể đưa ra những chiến lược marketing phù hợp
cho dịch vụ của mình.
2.
Nghiên cứu n h u cọu thị trường, phân đoạn thị trường, lựa chọn thị
trường mục tiêu và định vị dịch vụ d u lịch
Trong hoạt động marketing dịch vụ nói chung, marketing dịch vụ du lịch
nóiriêng,việc nghiên cứu thị trường là hết sức cọn thiết. Theo Philip Kotler:
"thị trường là tập hợp những người mua thực sụ hay nhũng người mua tiềm
tàng đối với một sản phẩm"*. Chính vì vậy, những kết quà nghiên cứu thị
trường sẽ là cơ sở cho các chính sách marketing sau này. Những nội dung cọn
phân tích trong nghiên cứu thị trường chủ yếu là: dung lượng thị trường, đối
thủ cạnh tranh và thị phọn của họ, từ đó xác định vị trí của doanh nghiệp mình
trên thị trường; nghiên cứu thái độ, tập tính khách hàng trên thị trường đối với
dịch vụ du lịch; lựa chọn các tiêu thức phân đoạn thị trường; xác định nhu cẩu
của khách hàng nhằm xác định thị trường mục tiêu mang tính chiến lược cho
doanh nghiệp.
2.1. Nghiên cứu nhu cầu thị trường dịch vụ du lịch
Đ ể ước tính cọu hiện tại của thị trường, chúng ta cọn xác định 3 nội dung
chính: tổng cẩu trên thị trường, cọu của thị trường theo vùng, doanh số thực tế
của ngành và thị phọn của doanh nghiệp.
Tổng cọu của thị trường đối với một sản phẩm dịch vụ du lịch là tổng số
dịch vụ được mua bởi một nhóm khách hàng xác định, tại một khu vực địa lý
xác định, trong một khoảng thời gian xác định, dưới một môi trường
marketing xác định với nhũng nỗ lực marketing nhất định của ngành. Cẩu của
thị trường được tính toán dựa trên quy m ô dân số, thu nhập của các hộ gia
đình, chi phí cho du lịch của các hộ qua một số năm gọn nhất, nỗ lực
8
Trường Đ ạ i học Ngoại Thương (2000), Giáo trình marketing lý thuyết, Nhà xuất bản Giáo Dục, ti 39.
15