Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (12.12 MB, 100 trang )
cường... đã trờ thành lòng yêu thiết tha sự nghiệp của ngân hàng, có m ố i quan
hệ hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau...Nguyên tắc tập trung dân chủ được khuyến
khích trong tập thể tại nhiều ngân hàng.
Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam ( B I D V ) ý thức sâu sắc rằng:
" M ỗ i cán bọ B I D V phải là mọt lợi thế trong cạnh tranh"; "BIDV chính là ngôi
nhà chung". M ỗ i cán bọ nhân viên ngân hàng đấu tư và phát triển Việt Nam
luôn phấn đấu, học tập để đảm bảo tiêu chuẩn Đức-Tài, có đủ năng lực chuyên
m ô n và phẩm chất đạo đức theo tiêu chuẩn, chuẩn mực của ngân hàng và phù
hợp với yêu cẩu của xã họi. Ngân hàng rất coi trọng hành v i văn hóa, cách ứng
xử văn hóa của m ỗ i cán bọ ngân hàng đối với khách hàng, đối tác cũng như
với gia đình, bè bạn...
Nguồn nhàn lực có văn hóa không thể thiếu trình đọ chuyên môn. M ọ t
nguồn nhân lực tài năng luôn là mục tiêu của các N H T M hiện nay. Nếu như
trước kia, mọt người m ố i chỉ tốt nghiệp cấp 3 cũng có thể làm việc trong
ngành ngân hàng thì thời điểm này, có thể khẳng định rằng điều đó không còn
tồn tại trong hệ thống N H T M Việt Nam. Hệ thống N H T M Việt Nam trừ
những cán bọ tuổi đời trên 45 (thường được bổ nhiệm trong chế đọ cũ) thì
những người còn lại đều có bằng từ trung cấp ngân hàng trở lên và số người có
trên Ì bằng tốt nghiệp đại học ngày càng phổ biến. Hầu hết các ngân hàng đều
có sự sàng lọc khắt khe về trình đọ chuyên m ô n của những ai muốn vào làm
ngân hàng. Đ ó là nghiệp vụ cơ bản tốt, khả năng tiếng A n h cũng như phải thể
hiện sự thông minh, năng đọng, khả năng thích ứng công việc... Như đợt tuyển
dụng gần đây nhất của Ngân hàng Đ ầ u tư và Phát triển Việt Nam, yêu cầu tối
thiểu nhất cho các ứng viên là tốt nghiệp chính quy các ngành học chuyên
ngành kinh tế, tài chí
nh, ngân hàng tại các trường đại học. Không chỉ thế,
điểm trung bình với các ứng viên nữ là từ 7,5 trở lên. Hay ngân hàng SeABank
áp dụng thi tuyển bằng GMAT, mọt hình thức kiểm tra trình đọ tiên tiến phổ
biến trên thế giới và ngân hàng Techcombank thì đòi hỏi ứng viên phải có
chứng chỉ tiếng A n h TOEIC... M ọ t nhận thức rọng rãi đang trở nên phổ biến
37
trong xã hội là những người muốn thi vào ngân hàng thì trình độ phải cao. V à
hệ quả là xã hội đang dành cho những nhân viên ngân hàng một cái nhìn coi
trọng hơn rất nhiều nhũng lao động làm trong các ngành nghề khác.
Trình độ chuyên m ô n của đội ngũ nhân viên được hầu hết các ngân
hàng quan tâm bổi dưỡng, nâng cao thông qua các chế độ đào tạo và đào tạo
lại. Chẳng hạn như tại Techcombank, đào tạo nhàn viên m ớ i là bịt buộc. Khóa
học tập trung, tùy từng vị trí, có thể diễn ra từ 6 tháng đến Ì năm, do các
chuyên gia trong và ngoài nước giảng dạy. Ngoài ra, các nhân viên mới còn
được đào tạo thực tế tại nơi làm việc, có người hướng dãn, giám sát và đánh
giá.
Đ ố i với những cán bộ cao tuổi, được giáo dục trong chế độ cũ, để giúp
họ bịt kịp với sự thay đổi trong công việc, nhiều N H T M tổ chức các lớp bồi
dưỡng chuyên m ô n nghiệp vụ. Ngoài ra, với những cán bộ công nhãn viên
khác trong ngân hàng, các lớp huấn luyện tư tường, đường l ố i , kĩ năng cũng
được tổ chức khá đều đặn. Chẳng hạn như ở các chi nhánh của ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hải Phòng, hàng tuần họ tổ chức những
buổi họp bàn về nghiệp vụ ngân hàng, về phong cách phục vụ khách hàng do
chính các cán bộ ngân hàng đã đi học về giảng dạy hoặc mời chuyên gia về
trực tiếp hướng dẫn.
Tuy vậy, văn hóa của các nhân viên ngân hàng đã và đang bộc l ộ những
biểu hiện đáng lo ngại như tinh thần làm việc thấp, phàn nàn của khách hàng
ngày càng nhiều, nhiều cơ hội và công việc kinh doanh bị bỏ lỡ, năng suất làm
việc không cao, chậm thích ứng với những thay đổi mới. Các ngân hàng
thương mại Việt Nam đang quá chú trọng tới hình thức bên ngoài, trong khi
hàng loạt các yế tố thiết yếu khác như phong cách làm việc hiện dại, hành v i
u
ứng xử thân thiện .. lại không được quan tâm. Các nhân viên ăn mặc m ỗ i
.
người một kiểu. Có nhân viên đeo thẻ, có người thì không.
Tình trạng tự mãn về hiệu quả làm việc của mình quá sớm, không thấy
được tính cấp thiết của việc phải giải quyết những yêu cầu của khách hàng có
38
thể nhận thấy ở rất nhiều ngân hàng. Đ ộ i ngũ nhân viên bị động, í chủ động
t
trong việc cải tiến công việc và có thái độ trông chờ vào cấp trên. Nhất là với
phương thức làm việc theo quy trình của ngán hàng thì nếu nhân viên ngân
hàng không có tinh thẩn vì sự đi lên của ngân hàng thì tất yếu sẽ dẫn đến sự trì
trệ và không nhạy bén trong hoạt động kinh doanh. Đ ộ i ngũ lãnh đạo trước
tình huỉng đó lại do dự, chậm trong việc xử lý nhũng người làm việc không
hiệu quả, không tiến hành cải tổ đúng cách m à chỉ giảng giải về những dự
định và kê hoạch của mình một cách hình thức.
Các hành vi giao tiếp tưởng chừng như nhỏ nhật như cách ăn mặc, thân
thiện với đồng nghiệp, khách hàng, có khi chỉ là nụ cười, một câu chào hỏi
lịch sự ....nhưng lại là sự thể hiện văn hóa. Ông Nguyễn Công Tụ, Tổng giám
đỉc ngân hàng Việt Á dẫn giải: một nhân viên trẻ không thể ngang nhiên bắt
tay với khách hàng lớn tuổi hơn mình. Vào phòng làm việc với khách hàng,
anh nhân viên ngân hàng phải biết mình ngồi ở vị trí nào phù hợp. Hoặc cùng
đi cẩu thang bộ với một phụ nữ mặc váy, anh phải đi trước dẫn đường chứ
không thể đì sau...
Các bất cập trong văn hóa nhân viên ngân hàng còn thể hiện ở nhiều
khía cạnh khác. Và nếu nhận thức văn hóa doanh nghiệp là những vấn đề trình
bày như trên thì các ngân hàng sẽ thấy là nhiệm vụ xây dựng văn hóa doanh
nghiệp không chỉ đơn thuần là một khẩu hiệu thật hay ho, không chỉ là những
bộ đổng phục đẹp đẽ m à cần bắt đẩu từ xây dựng chiến lược kinh doanh với
...
các chương trình kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện các phẩm chất văn
hóa cho m ọ i cán bộ ngân hàng, nâng cao tầm nhận thức của họ về văn hóa
doanh nghiệp.
>
Về vân đề tuyển d ụ n g nhân viên mới
Tuyển dụng đóng vai trò khá lớn trong việc hình thành một đội ngũ nhàn
viên có ý thức văn hóa doanh nghiệp. Lý do thật đơn giản là nếu như những người
trở thành các nhân viên của ngân hàng không phải bằng chính thực lực của mình
39
thì ngay hành động đó cũng đã thể hiện văn hóa không mấy lành mạnh của họ.
Đấy là còn chưa nói đến trình độ văn hóa không đủ yêu cẩu.
Không thể phủ nhận rằng quy trình tuyển dụng của các N H T M đã diễn
ra khá nghiêm túc và có chất lượng hơn. M ộ t số lượng đáng kể ngân hàng có
chính sách tuyển dụng với đối tượng là sinh viên có học lực khá ngay k h i còn
chưa tốt nghiệp. Ví dụ như ngân hàng Đông Á, sinh viên năm thờ 3 hoặc thờ 4
có chuyên đề thực tập liên quan đến lĩnh vực ngân hàng có thể được tuyển
dụng thực tập, tham gia vào các dự án thực tập của ngân hàng hoặc thử việc tại
các bộ phận theo hình thờc tuyển dụng tạm thời.
Tuy thế, vẫn còn tình trạng ưu tiên con em trong ngành. Chỉ cần có bố mẹ,
anh chị làm ngân hàng thì những sinh viên không tốt nghiệp ở các trường đại học
chính quy về ngân hàng cũng có thể có được một vị trí chắc chắn trong ngân hàng
của người thân mình. Hậu quả là các ngân hàng phải bỏ ra tiền của, thời gian để
đào tạo lại những nhân viên mới này. Thời gian này là một lãng phí lớn cho ngân
hàng và bất công với những người có trình độ thật sự.
>
V â n đề g i ữ chân người tài bằng văn hoa
Con người có năng lực, tài năng, gắn bó lâu dài là tài sản quý giá m à
mỗi ngân hàng phải giữ. Sau khi tuyển dụng rồi thì giữ được chân người tài lại
càng khó. Đ ể biến con người thành tài sản thì phụ thuộc vào cách làm, cách
gây dựng V H D N của ngân hàng mình. Hiện nay, có một sổ ngân hàng tìm
cách giữ chân người t i bằng cách k h i họ được tuyển vào làm thì phải nộp một
à
khoản tiền cam kết phòng trường hợp k h i họ bỏ ra đi. Đây là một cách không
được hay cho lắm.
Tuyển dụng và giữ nhân viên giống như hai mặt của một đồng xu. Đờng
ở góc độ nhân sự, tuyển dụng là đưa ra lời hờa để thu hút người, còn việc thực
hiện lời hờa sẽ quyết định chuyện có giữ được chân họ hay không. L ờ i hờa
không chỉ quỵ ra tiền, m à còn là môi trường làm việc và cơ hội thăng tiến của
mỗi cá nhân. Chính vì muốn g i ũ người, các giám đốc nhân sự phải hiểu nhân
40
viên mình muốn gì, cẩn gì, phải có kế hoạch phát triển sự nghiệp cho những vị
trí quản lý chủ chốt.
Trong thực tế, đã và đang có sự chuyển dịch lớn về nhân sự từ các ngân
hàng thương mại trong nước theo hướng từ các ngân hàng thương mại nhà
nước sang các ngân hàng thương mại cổ phần và các chi nhánh ngân hàng
nước ngoài. V à các N H T M lòn trong nước cũng tìm cách thu hút các nhân sự
ở các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam về ngân hàng mình. Điều
này khiến cho các chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải đưa ra chính sách
nhân sự dài hạn. Chẳng hạn như ở HSBC, bợ phận nhân sự đã có kế hoạch
ngoài việc học các khoa đào tạo chuyên môn, nhân viên được đánh giá là có
tiềm năng còn được gửi sang học ở trường đào tạo quản lý của tập đoàn HSBC
tại Luân Đôn, được huấn luyện sang làm việc tại văn phòng HSBC ở nhiều
nước khác nhau. Trong quá trình đó, bợ phận nhân sự có thể phát hiện được
r
đúng khả năng của họ và sắp xếp họ vào những vị t í phù hợp với họ cũng nhu
với định hướng phát triển của ngàn hàng.
N h ư vậy, ta có thể nhận thấy rằng những cách m à các ngân hàng đang
dùng để thu hút người tài và giữ chân người tài chính là biểu hiện của V H D N .
Hơn lúc nào hết, trong bối cảnh hợi nhập, cạnh tranh hiện nay, V H D N ngày
càng thể hiện tầm quan trọng, mức đợ ảnh hưởng của nó mợt cách rõ nét đến
sự tồn tại và phát triển của các ngân hàng. Ngân hàng nào có được nền văn
hóa tiến bợ, thích hợp thì khả năng "hấp dẫn" và "bảo toàn" được đợi ngũ
nhân viên tài năng của mình là rất lớn.
4. Văn hóa t r o n g các môi quan hệ n ợ i bợ
4.1. Văn hóa trong môi quan hệ lãnh đạo và nhân viên
Xây dựng mợt môi trường văn hoa trong m ỗ i mợt ngân hàng thương
mại không thể thiếu sự góp phần của mợt m ố i quan hệ nợi bợ tốt đẹp, hợp tác
và thân thiện giữa cấp trên và cấp dưới. Sự phồn vinh ngắn ngủi của mợt ngân
hàng có thể có được nhờ vào tài quan hệ của người lãnh đạo nhưng để có được
sự tăng trường liên tục và bền vững thì chỉ có thể nhờ vào các giá trị thống
41
nhất giữa lãnh đạo và nhân viên, qua thời gian hình thành nên sức mạnh văn
hóa. N ó làm nên sức sống mãnh liệt, tạo nên một sức mạnh tập thể to lớn, một
sự nhất trí đồng lòng của toàn thể cán bộ công nhân viên cùng sẻ chia công
việc, tạo nên một môi trường làm việc nhân văn, giúp cộng đồng cán bộ nhân
viên vượt qua sóng gió, thác ghềnh để không ngầng phát triển và lớn mạnh.
M ỗ i ngân hàng vầa là một tổ chức kinh doanh tạo lợi nhuận vầa là một
cộng đồng bao gồm nhiều thành phần, tôn giáo, lứa tuổi, năng lực và hoàn
cảnh sống khác nhau. Dung hòa và kết hợp được họ vào trong một không gian
làm việc văn hóa quả thật không dễ tí nào. M ộ t điều đáng mầng là trong bối
cảnh hiện nay, m ố i quan hệ lãnh đạo-nhân viên trong các ngân hàng thương
mại Việt Nam đang dần trở nên hài hòa, gắn bó và thân thiết hơn. Khoảng
cách giữa họ đã thu hẹp lại và khăng khít hơn nhiều. Bước chân vào rất nhiều
chi nhánh ngân hàng thương mại, khách hàng có thể thấy hình ảnh của các
cán bộ lãnh đạo đi đến tầng phòng ban trao đổi công việc. Hệ thống công
đoàn trong các ngân hàng được phát triển mạnh đã thúc dẩy tình đoàn kết bền
chặt giữa nhân viên và lãnh đạo của mình.
Ví dụ như ngân hàng VIB, một ngân hàng đã khẳng định được tiếng nói
của mình trong giới tài chính ngân hàng hiểu rằng một trong những động lực
quyết định sự thành công chính là nguồn lực con người và m ố i quan hệ thống
nhất giũa các bộ phận của nguồn lực đó. Vì thế m à ngân hàng này luôn tâm
niệm và cam kết mang lại cho toàn thể nhân viên:
•
Môi trường làm việc tin cậy và tôn trọng lẫn nhau;
•
Văn hóa làm việc hướng kết quả, tôn vinh cá nhân làm việc tốt;
•
Cơ hội phát triển khả năng làm việc và sự nghiệp.
Ngân hàng đã ý thức được con đường để phát triển vãn hóa ngân hàng là người
quản lý phải thường xuyên thảo luận với nhân viên về mục tiêu và tiến độ của
công việc.
Mặc dù còn mang dấu ấn của phong cách lãnh đạo "gia trưởng" nhưng
do ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ bình đẳng của chế độ X H C N nên quan hệ
42