Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.86 MB, 499 trang )
IMMANUEL KANT
267
thế kinh nghiệm “người” của chúng ta. Vì nếu sự phân tích của
chúng ta l{ đúng, thì thế giới như chúng ta biết đến là một tạo
tác, một sản phẩm đ~ tựu thành, có thể nói là một món hàng
được chế tạo mà tâm thức đóng góp v{o đó, với những hình
thức đúc kết của nó, cũng nhiều như sự vật với những kích động
của nó. (Bởi thế ta tri giác cái mặt bàn là tròn trong khi cảm giác
của chúng ta thấy nó hình bầu dục). Sự vật như nó xuất hiện cho
chúng ta là một hiện tượng, một dáng vẻ có lẽ rất khác với ngoại
vật trước khi nó vào trong sự nhận biết của giác quan ta; sự vật
nguyên thủy ra sao chúng ta không bao giờ biết được; “vật tự
th}n” có thể là một đối tượng của tư tưởng hay của suy lý (một
“bản thể” noumenon), nhưng nó không thể được kinh nghiệm, vì
trong khi được kinh nghiệm nó sẽ bị biến đổi qua giác quan và
tư tưởng. “Chúng ta vẫn hoàn toàn không biết được sự vật tự
thân ra thế nào, tách biệt với cảm nhận của giác quan ta. Chúng
ta không biết gì ngoài cách thế chúng ta tri giác chúng; cái cách
thế đặc biệt của riêng chúng ta không tất yếu phải chung cho mọi
sinh vật hay cho mọi con người” (Phê bình, trang 37). Mặt trăng
như chúng ta biết được chỉ là một mớ cảm gi|c (như Hume
thấy) được thống nhất lại (điều mà Hume không thấy) bởi cơ
cấu tinh thần bẩm sinh của chúng ta qua sự kiện toàn những
cảm giác thành ra tri giác và tri giác thành ra quan niệm hay ý
tưởng. Kết cuộc, mặt trăng đối với chúng ta chỉ là những ý
tưởng của chúng ta.
Không phải Kant đ~ ho{i nghi hiện hữu của “vật chất” v{ ngoại
giới. Nhưng ông thêm rằng chúng ta không biết gì về chúng
ngoại trừ biết rằng chúng hiện hữu. Hiểu biết chi tiết của ta là về
sự xuất hiện của chúng, hiện tượng của chúng, về những cảm
giác mà ta có về chúng. Duy t}m không có nghĩa như người
268
Will Durant: CÂU TRUYỆN TRIẾT HỌC
thông thường nghĩ, l{ không có gì hiện hữu ngoài chủ thể tri
gi|c, m{ có nghĩa rằng một phần khá lớn của mọi sự vật l{ được
tạo tác bởi những hình thái của tri giác và nhận thức: chúng ta
biết sự vật như l{ sự vật đ~ biến th{nh ý tưởng: nó ra thế nào
trước khi nó bị biến dạng ra như thế, chúng ta không thể biết.
Chung quy, khoa học thật ngây ngô, nó tưởng rằng nó đang xét
đến chính những vật thể rằng thực-tại-tính nguyên vẹn và ngoại
tại của chúng; triết học hơi biết điều hơn, nhận rằng toàn thể
nguyên liệu của khoa học gồm có cảm giác, tri giác và quan niệm,
hơn l{ gồm những sự vật. “Gi| trị lớn lao nhất của Kant chính là
sự phân biệt hiện tượng với vật-tự-th}n”. (Schopenhauer, Thế
giới xét như Ý dục và Biểu tượng, q.II, tr.7). Do đó kết quả là mọi
cố gắng của khoa học hay tôn gi|o để nói rõ thực tại tối hậu là gì,
đều phải rơi trở lại vào giả thuyết suông. “Hiểu biết không bao
giờ có thể vượt ngoài giới hạn của cảm tính” (Phê bình, tr. 215).
Như thế một nền khoa học thuần túy sẽ biến mất trong những
phản luận (paralogisms). Vai trò tàn bạo của “biện chứng pháp
siêu nghiệm” l{ kh|m xét gi| trị những nỗ lực của lý tính để
thoát khỏi vòng rào của cảm giác và ngoại diện nhằm bước vào
trong thế giới không thể biết của những “vật tự th}n”.
Mâu thuẫn là những song quan luận không thể giải quyết, phát
sinh từ một nền khoa học cố vượt qua kinh nghiệm. Bởi thế,
chẳng hạn khi tri thức cố gắng định đoạt xem thế giới là hữu hạn
hay vô cùng trong không gian, thì tư tưởng phản kháng lại cả hai
giả thuyết: chúng ta luôn bị thúc đẩy phải quan niệm một cái gì
xa hơn, vượt ngoài bất cứ giới hạn n{o, đến vô tận; và tuy nhiên,
chính sự vô cùng lại không thể quan niệm được. Lại nữa, thế
giới có một khởi điểm trong thời gian chăng? chúng ta không
thể quan niệm về sự vĩnh cửu, nhưng ở đ}y cũng thế, ta cũng
IMMANUEL KANT
269
không thể quan niệm một thời điểm nào trong quá khứ mà
không cảm thức ngay rằng trước đó còn có một cái gì. Hoặc dây
xích nguyên nhân mà khoa học khảo sát ấy, có một khởi điểm
chăng, một nguyên nh}n đầu tiên? Có, vì một dây xích bất tận
không thể quan niệm được. Không, vì một nguyên nh}n đầu
tiên, không do nh}n sinh, cũng không thể quan niệm. Có một
ngõ ra nào từ những con đường mịt mù này của tư tưởng
không? Có, Kant bảo, nếu ta nhớ rằng không gian, thời gian và
nguyên nhân... là những cách thế tri giác và quan niệm thấm vào
trong mọi kinh nghiệm của chúng ta, bởi chúng l{ tơ dệt v{ cơ
cấu của kinh nghiệm; những song quan luận sinh khởi là vì cho
rằng không gian, thời gian, nguyên nhân... là những vật ngoại
giới biệt lập với tri giác. Chúng ta sẽ không bao giờ có một kinh
nghiệm nào mà ta không giải thích theo những yếu tố không
gian, thời gian v{ nguyên nh}n, nhưng chúng ta cũng không bao
giờ có một nền triết học nào nếu ta quên rằng không có sự vật
mà chỉ có những cách thế giải thích v{ lĩnh hội.
Như thế, với những phản luận của thần học “duy lý” - nền thần
học cố chứng minh bằng lý tính rằng linh hồn là một bản thể bất
hoại, rằng ý chí là tự do v{ vượt trên định luật nhân quả, rằng
của một “thực thể tất yếu”, Thượng đế, như l{ điều tiên quyết
của mọi thực tại,- biện chứng pháp siêu nghiệm phải nhắc nhở
cho thần học biết rằng bản thể, nguyên nhân và tất yếu tính là
những phạm trù hữu hạn, những cách thế sắp đặt và phân loại
mà tâm thức áp dụng cho kinh nghiệm giác quan, và chỉ có giá
trị đ|ng tin cậy đối với hiện tượng xuất hiện cho kinh nghiệm ấy.
Chúng ta không thể áp dụng những khái niệm này cho thế giới
bản thể (hay thế giới chỉ do phỏng đo|n v{ suy lý). Ta không thể
kiểm chứng tôn giáo bằng lý tính thuyết lý.
270
Will Durant: CÂU TRUYỆN TRIẾT HỌC
Cuốn Phê bình đầu chấm dứt ở đó. Người ta có tưởng tượng
ngay David Hume -một người Tô Cách Lan cổ qu|i hơn cả chính
Kant- nhìn những kết quả ấy với một nụ cười nhạo báng.
Đ}y l{ một tác phẩm khổng lồ, t|m trăm trang d{i nặng trĩu
những thuật ngữ kềnh càng khó hiểu; đòi giải quyết tất cả những
vấn đề của siêu hình học, và nhân thể, cứu vớt tuyệt đối tính của
khoa học và chân lý tinh yếu của tôn giáo. Tác phẩm ấy thực sự
đ~ l{m gì? Nó đ~ ph| hủy thế giới chất phác của khoa học và giới
hạn khoa học, nếu không về trình độ thì cũng chắc chắn về phạm
vi, vào một thế giới chỉ có bề mặt và dáng vẻ, ngoài thế giới này
khoa học chỉ có thể đưa ra những “m}u thuẫn” trò hề. Khoa học
được “cứu vớt” như thế đó ! Thảo nào những linh mục của Đức
quốc cực lực phản kháng sự cứu rỗi này, và trả thù bằng c|ch đặt
tên những con chó của họ là Immanuel Kant (Wallace, Kant,
trang 82).
Và thảo n{o Heine đ~ so s|nh vị gi|o sư nhỏ thó của thành Königsberg với hung thần Robespierre; ông này chỉ mới giết một vị
vua v{ sơ sơ v{i ng{n người Ph|p (điều mà một người d}n Đức
có thể tha thứ được), nhưng Kant đ~ giết thượng đế, đ~ l{m bật
tung những luận chứng quý báu nhất của thần học. “Thật là một
mối tương phản gay gắt giữa cuộc đời bên ngoài của con người
ấy với những ý tưởng phá hoại, l{m rúng động thế giới của ông.
Nếu những người dân thành Königsberg phỏng đo|n được toàn
thể ý nghĩa những tư tưởng kia thì có lẽ khi thấy Kant họ đ~ sợ
h~i hơn thấy một đao phủ. Nhưng những người dân lành này chỉ
thấy Kant là một gi|o sư triết học, và khi vào giờ nhất định, ông
đi dạo qua, họ gật đầu chào thân mật rồi sửa lại đồng hồ” (Heine,
Tạp văn, Philadelphia, 1786, tr.146).
IMMANUEL KANT
271
Đấy là một cảnh hoạt kê, hay một khải thị?
4. PHÊ BÌNH LÝ TÍNH THỰC TIỄN
Nếu tôn giáo không thể căn cứ vào khoa học và thần học thì căn
cứ v{o đ}u? V{o đạo đức. Nền tảng nơi thần học quá bấp bênh,
tốt hơn nên loại bỏ nó, phá hủy nó đi nữa, đức tin phải được
đem đặt ra ngoài tầm với, ngo{i lĩnh vực của lý tính. Nhưng bởi
thế nền tảng đạo đức của tôn giáo phải tuyệt đối không xuất phát
từ kinh nghiệm giác quan khả vấn hay từ suy lý bấp bênh; không
bị hư hỏng vì sự trộn lẫn với lý trí có thể lầm lỗi; nó phải xuất
phát từ bản ngã nội tâm nhờ tri giác và trực giác. Chúng ta phải
tìm ra một nền đạo đức tất yếu và phổ quát; tìm những nguyên
tắc tiên nghiệm của đạo đức, tuyệt đối và chắc chắn như to|n
học. Chúng ta phải chứng minh rằng “lý tính thuần túy có thể
thực tiễn, nghĩa l{ tự nó có thể định đoạn ý chí, biệt lập với bất
cứ gì thuộc lĩnh vực kinh nghiệm” (Phê bình lý tính thực tiễn, tr.
31), rằng ý thức đạo đức là bẩm sinh và không xuất phát từ kinh
nghiệm. Mệnh lệnh đạo đức mà chúng ta cần đến xem như nền
tảng của tôn giáo, phải là một mệnh lệnh có tính cách tuyệt đối,
thuộc vào các phạm trù tiên nghiệm. Bây giờ, thực tại lạ kỳ nhất
trong mọi kinh nghiệm chúng ta chính là ý thức đạo đức của
chúng ta, cảm thức không thể tránh của ta khi đứng trước một
cám dỗ, cảm thức rằng điều n{y hay điều nọ là quấy. Chúng ta có
thể đầu hàng cám dỗ nhưng cảm thức vẫn ở đấy. Buổi sáng tôi
lập những dự định, và chiều lại, tôi làm những chuyện điên rồ;
nhưng chúng ta biết đấy là những chuyện điên rồ, và chúng ta lại
quyết định. C|i gì đ~ đem đến sự cắn rứt, hối hận và những
quyết định mới? Chính là mệnh lệnh tuyệt đối (categorical im-
272
Will Durant: CÂU TRUYỆN TRIẾT HỌC
perative) ở trong ta, sự ra lệnh vô điều kiện của lương t}m bắt ta
phải “h{nh động như thể ch}m ngôn h{nh động của chúng ta là
phải trở thành một luật tự nhiên phổ quát (Phê bình lý tính thực
tiễn, tr. 139). Chúng ta biết, không bằng lý luận mà bằng cảm
thức linh động và trực tiếp, rằng ta phải tránh lối cư xử mà nếu
mọi người đều áp dụng thì xã hội sẽ loạn. Tôi có mong thoát
khỏi một hoàn cảnh rối ren bằng một lời dối tr| không? Nhưng
trong khi tôi có thể muốn dối trá, thì tôi lại tuyệt đối không
muốn rằng sự dối trá phải là một luật phổ quát. Vì với một định
luật như thế sẽ không có một hứa hẹn nào cả” (Ibid, p.19). Do đó
có cái cảm thức trong tôi rằng không được nói dối ngay dù sự
nói dối ấy có lợi cho tôi. Sự phòng xa là giả dối, châm ngôn của
nó là: chỉ lương thiện khi đó l{ phương s|ch tốt nhất; nhưng
định luật đạo đức ở trong tâm hồn ta vốn l{ vô điều kiện và tuyệt
đối.
Và một hành vi là thiện không phải vì nó có những kết quả tốt
đẹp, hay vì nó khôn ngoan, mà chính bởi vì nó tuân theo cảm
thức về bổn phận ở nội tâm, tuân theo cái luật đạo đức không do
từ kinh nghiệm riêng tư của ta, m{ được thiết lập tiên nghiệm
cho mọi hành vi của ta trong quá khứ, hiện tại, vị lai. Điều độc
nhất vô cùng thiện trong thế gian chính là thiện chí, ý chí tuân
theo luật đạo đức, bất kể điều ấy có lợi hay có hại cho mình.
Đừng kể đến hạnh phúc của bạn, cứ làm bổn phận của bạn đi.
“Đạo đức không phải là chủ thuyết làm thế n{o để cho ta hạnh
phúc, mà làm thế n{o để xứng đ|ng với hạnh phúc “ (Ibid, tr.
227). Ta hãy tìm hạnh phúc cho kẻ kh|c; nhưng cho chính ta, thì
hãy tìm sự toàn thiện, dù nó đem lại cho ta hạnh phúc hay đau
khổ (Tựa cuốn Những thành tố siêu hình của đạo đức - The Metaphysical Element of Ethics). Hoàn thành sự toàn thiện nơi