Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (252.37 KB, 40 trang )
Ngô Thị Thanh Bình QTKDTM 43A
Đề án kinh tế thơng mại
là thu từ lệ phí trớc bạ xe máy, ô tô đợc giảm 2 lần , nhng số thu vẫn tăng,
số ngời tự nguyện nộp thuế ngày một tăng. Nếu một chính sách thuế hợp
lý, đúng đắn sẽ tăng thêm tính tự nguyện, tính tuân thủ pháp luật.
Trong nền kinh tế thị trờng, cạnh tranh nh hiện nay, vốn đóng vai
trò quan trọng đặc biệt . Hoàn thuế GTGT là hình thức trả lại vốn kinh
doanh Nhà nớc tạm giữ của doanh nghiệp nên có tác dụng to lớn trong
việc giải quyết một số khó khăn về vốn cũng nh khuyến khích đầu t tăng
năng lực sản xuất kinh doanh của DNSXKD .Hoàn thuế GTGT là một
hoạt động quan trọng cấu thành nên luật thuế GTGT. Trong thời gian qua,
tổng số thuế GTGT đã hoàn cho trờng hợp số thuế GTGT đầu vào lớn
hơn đầu ra, chiếm một tỷ trọng không nhỏ trong tổng số thuế GTGT đã
hoàn. Riêng năm 2001, tổng số thuế GTGT đã hoàn cho trờng hợp VAT
đầu vào > VAT đầu ra ớc tính gần 695 tỷ đồng. Việc hoàn thuế GTGT đã
góp phần khuyến khích xuất khẩu, bảo hộ hợp lý sản xuất trong nớc.
Trong gần 5 năm thực hiện luật thuế GTGT thì thấy việc hoàn thuế cho
hàng hoá xuất khẩu chiếm gần 80% tổng số thuế đợc hoàn. Số hoàn thuế
lớn chứng tỏ sản lợng hàng hoá sản xuất phục vụ cho mục đích xuất khẩu
ngày một tăng chứng tỏ các đơn vị này làm ăn có lãi. Trong năm 1999 đã
hoàn gần 2700 tỷ đồng, trong đó hoàn thuế cho hàng xuất khẩu chiếm
80%. VD: tại Hà Nội, tổng số thuế hoàn là 12,7 tỷ đồng , trong đó hoàn
thuế cho hàng xuất khẩu là 84,9 tỷ đồng. Trong đó, nhiều mặt hàng đã đợc hoàn thuế đầu vào làm cho giá trị xuất khẩu của nhiều mặt hàng tăng
lên đáng kể, điển hình nh cao su tăng 37,5%,gạo tăng 21,4%, thuỷ sản
14,1%, dệt may 16%, kim ngạch xuất khẩu năm 2000 đạt 14000 triệu
USD tăng 26,7%, đến năm 2001,tiếp tục tăng thêm 4,5%. Kim ngạch
xuất khẩu luôn tăng qua các năm sẽ giảm bớt đợc tình trạng nhập siêu
tăng thu cho nền kinh tế cũng nh giúp cho các sản phẩm của các doanh
nghiệp trong nớc tiếp cận với thị trờng quốc tế. Về bản chất hoàn thuế là
một biện pháp trợ giá gián tiếp của Chính Phủ, nhằm khuyến khích thúc
đẩy sản xuất kinh doanh trong nớc theo xu thế hớng ngoại.
Nhìn lại chặng đờng năm năm qua, có thể thấy luật thuế GTGT ra
đời, nền kinh tế đã đạt đợc những thành tựu to lớn về khống chế lạm
phát, tạo điều kiện cho giá cả tiêu dùng nhanh chóng di vào thế ổn định,
tạo ra 1 trong những tiền đề không thể thiếu để nền kinh tế đạt đợc mức
tăng trởng về tốc độ tăng GDP năm 1999 là 4,77%; năm 2000 là 6,79 %;
năm 2001 là 6,89 %; năm 2002 là 7,04 % dây là năm đàu tiên trong 6
- 14 -
Ngô Thị Thanh Bình QTKDTM 43A
Đề án kinh tế thơng mại
năm qua đã đạt đợc mục tiêu đề ra, đây cũng là tốc độ tăng cao thứ 2 so
với các nớc và các vùng lãnh thổ trong khu vực Châu á Thái Bình Dơng
chỉ sau Trung Quốc, năm 2003 là 7,24% và mục tiêu của năm 2004 là 7,5
%. Nếu quan sát các số liệu thống kê về chỉ số giá tiêu dùng có thể thấy
những thành tựu đạt đợc: Từ chỗ lạm phát phi mã của thập kỷ trớc còn rơi
rớt lại trong năm đầu thập kỷ (67%) chỉ số này chỉ còn dao động ở mức
5,2 -17,5 % ( năm 1992-1995), còn trong năm năm gần đây thì luôn ở
mức một con số, thậm chí năm 2000 còn xuông mức âm (-0,6 %), năm
2001 là 0,8 % năm 2002 là 4 %, năm 2003 là 3 %. Sự biến động đó phản
ánh thực trạng nền kinh tế nớc ta từ chỗ còn thiếu hụt mọi thứ vào đầu
thập kỷ đã nhanh chóng chuyển sang trạng thái cung đủ đáp ứng cầu.
Qua đó ta nhận thấy đợc thuế GTGT phần nào điều tiết đợc lạm phát và
giá cả cũng nh lu thông và sản xuất.
Trong công tác quản lý thuế GTGT, luật thuế đã khắc phục đợc rất
nhiều khó khăn trong công tác hạch toán quản lý thuế. Nếu nh thuế
doanh thu gây ra những khó khăn, bất hợp lý vì bị đánh thuế nhiều lần
đối với các doanh nghiệp dẫn đến hầu hết các doanh nghiệp đều tìm cách
trốn thuế mà cơ quan thuế không thể kiểm soát đợc vì chỉ có hoá đơn đầu
ra mà không xét đến hoá đơn đầu vào. Doanh số thu về của thuế cho
ngân sách nhà nớc từ năm 1999 đến tháng 10/2002 từ khi ra đời thuế
GTGT tăng gấp 5 lần so với số thu từ năm 1995 đến 1998.
Qua đó có thể thấy rằng luật thuế GTGT ở nớc ta đã từng bớc dần
đi vào cuộc sống, đáp ứng đợc các mục tiêu yêu cầu của nền kinh tế, xã
hội, khẳng định tính đúng đắn của việc ban hành và áp dụng loại thuế
này của nớc ta trong thời gian qua.
2. Những hạn chế còn vớng mắc
Trớc sự phát triển về kinh tế, xã hội và yêu cầu hội nhập kinh tế
với khu vực và thế giới, luật thuế GTGT đã phát sinh nhng hạn chế còn vớng mắc về vấn đề nh phơng pháp tính thuế, thuế suất, đối tợng chịu
thuế, vấn đề hoàn thuế, vấn đề chứng từ, hóa đơn... và một trong những
hậu quả lớn nhất phát sinh từ những tồn tại trên là việc làm thất thoát
hàng trăm tỷ đồng cho ngân sách Nhà nớc do việc khấu trừ thuế, hoàn
thuế GTGT gây ra. Công ty Đông Nam có thể coi là một trong những
điển hình trốn thuế GTGT, buôn lậu. Vấn đề nghiêm trọng đến mức có
ý kiến tỏ dấu hiệu hoài nghi về tính khả thi của luật thuế GTGT ở nớc ta,
yêu cầu đặt vấn đề ngừng thực hiện việc hoàn thuế GTGT và câu hỏi đặt
- 15 -
Ngô Thị Thanh Bình QTKDTM 43A
Đề án kinh tế thơng mại
ra Liệu luật thuế GTGT đã đi vào cuộc sống?gây không ít băn khoăn
cho nhiều ngời.
Thực ra theo kinh nghiệm ở nhiều nớc đã áp dụng thuế GTGT cho
thấy việc gặp phải những khó khăn, vớng mắc trong bớc đầu áp dụng luật
thuế GTGT không phải là không xẩy ra, có nhiều nớc khi mới áp dụng
luật thuế này đã gây tác động tiêu cực đến đời sống kinh tế - xã hội, gây
tăng lạm phát, đình trệ sản xuất kinh doanh nh ở Thụy Điển, Philipin,
Thái Lan... có trờng hợp phải hoãn việc áp dụng nhiều lần nh ở Nhật Bản,
có nhiều trờng hợp phải mất một thời gian dài thuế GTGT mới phát huy
đợc tác dụng của nó nh ở Trung Quốc cần đến 10 năm (từ năm 1985 đến
năm 1995) Hungari cần đến 7 năm ... với nớc ta thời gian áp dụng mới
chỉ 4 năm nên cha phải là thời gian quá dài để thuế GTGT phát huy hết
tác dụng vốn có.
Thực tế vận hành thuế GTGT cho thấy công tác kiểm soát sau
thành lập doanh nghiệp còn bị buông lỏng , đã xuất hiện những doanh
nghiệp ma để trốn thuế. Việc doanh nghiệp khấu trừ thuế GTGT đầu
vào, vừa đợc chấp nhận chi phí hợp lý nên đã làm giảm thu NSNN (năm
2002: tốc độ tăng thu ngân sách khu vực là 14.1% cha tơng xứng với
tiềm năng và tốc đọ tăng giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực này là
19.4%), số thu từ thuế GTGT không phản ánh đúng thực chất kết quả
hoạt động kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Tình trạng gian lận
thuế càng nghiêm trọng hơn khi việc quản lý hoá đơn chứng từ bị buông
lỏng. Đã xuất hiện nhiều loại hoá đơn giả, hoá đơn khống bất hợp pháp
đang lu hành và trở thành hàng hóa đợc mua công khai. Tình trạng khai
tăng số lợng, giá và giá trị hàng hoá để lấy tiền hoàn thuế bất hợp pháp
( chủ yếu là hàng hóa nông lâm thuỷ sản xuất khẩu qua biên giới đờng
bộ) cha đợc ngăn chặn và sử lý kiên quyết. Trật tự kỷ cơng tuân thủ pháp
luật thuế bị vi phạm. Môi trờng bình đẳng giữa doanh nghiệp làm ăn
đúng pháp luật với doanh nghiệp gian lận bị xói mòn.
II. Gian lận thuế GTGT của các doanh nghiệp sản
xuất kinh doanh trong thời gian qua
1. Nhận thức về gian lận thuế GTGT
Các luật thuế đều quy định xử lý vi phạm gian lận thuế, với xử
phạt hành chính cao nhất là 100 triệu đồng.
Tại mục II thông t số 30/2001/TT-BTC của Bộ tài chính sửa đổi, bổ
sung thông t số 128/1999/TT-BTC hớng dẫn thực hiện nghị định số
22/CP ngày 17/4/1996 của Chính phủ quy định: Khai man, trốn thuế là
- 16 -
Ngô Thị Thanh Bình QTKDTM 43A
Đề án kinh tế thơng mại
hành vi của đối tợng nộp thuế vi phạm của pháp luật dẫn đến làm giảm
một phần hay toàn bộ số thuế theo quy định của pháp luật hoặc để hởng
lợi không đúng từ việc miễn giảm thuế, hoàn thuế Theo khoản 1, điều
62 pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính số 44/2002 PL-UBTVQH 10
ngày 2/7/2002 quy định: Nghiêm cấm giữ lại các vụ vi phạm có dấu
hiệu tội phạm để xử phạt hành chính... Về tội gian lận thuế, khoản 1
điều115 Bộ luật hình sự quy định: Ngời nào trốn thuế với số tiền từ 50
triệu đồng đến dới 150 triệu đồng thì bị phạt tiền từ một đến năm lần số
tiền thuế hoặc phạt cải tạo không giam giữ từ 1 năm đến 2 năm. Theo hệ
thống hóa các văn bản pháp luật về thuế GTGT đã đợc sửa đổi, bổ sung
thì gian lận thuế GTGT có các hình thức sau:
- Thứ nhất, không thực hiện đúng những quy định về thủ tục đăng
ký kinh doanh, đăng ký kê khai, nộp thuế, quyết toán thuế, kê khai, lập
sổ kế toán và giữ chứng từ, hóa đơn liên quan đến việc tính thuế, nộp
thuế thì tùy theo mức độ nặng, nhẹ mà bị cảnh cáo hoặc phạt tiền.
- Thứ hai, nộp chậm tiền thuế hoặc tiền phạt ghi trong thông báo
thuế, lệnh thu thuế hoặc quyết định xử phạt thì ngoài việc phải nộp đủ số
tiền thuế hoặc tiền phạt theo luật định.
- Thứ ba, khai man, trốn thuế. Nếu trốn thuế với số lợng lớn hoặc
đã bị xử phạt vi phạm hành chính về thuế mà còn có hành vi tiếp tục vi
phạm nghiêm trọng khác thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy
định của pháp luật.
Trờng hợp qua kiểm tra, thanh tra phát hiện cơ sở kinh doanh có
hành vi gian lận trogn kê khai nộp thuế, hoàn thuế với số tiền thuế GTGT
gian lận từ 5 triệu đồng trở lên thì cơ sở kinh doanh bị xử lý nh sau:
+ Không đợc khấu trừ, hoàn thuế với số thuế GTGT kê khai gian
lận.
+ Bị xử lý vi phạm về hành vi gian lận thuế theo quy định hiện
hành.
+ Không đợc cơ quan thuế giải quyết hoàn thuế đối với số thuế đề
nghị hoàn ghi trong hồ sơ xin hoàn thuế của cơ sở, trờng hợp đã đợc cơ
quan thuế giải quyết hoàn thuế thì cơ quan thuế phải thu hồi số thuế
GTGT đã hoàn.
+ Số thuế GTGT của hồ sơ đề nghị hoàn thuế sau khi đã loại trừ số
thuế GTGT kê khai gian lận, cơ sở kinh doanh phải kết chuyển sang kỳ
kê khai nộp thuế sau để bù trừ vào số thuế GTGT phải nộp.
- 17 -
Ngô Thị Thanh Bình QTKDTM 43A
Đề án kinh tế thơng mại
+ Không đợc xem xét hoàn thuế trong thời gian 12 tháng kể từ khi
cơ quan thuế phát hiện có hành vi gian lận thuế. Hết hạn 12 tháng nếu cơ
sở kinh doanh đã khắc phục hậu quả, có ý thức chấp hành tốt các quy
định của luật thuế thì cơ quan thuế sẽ xem xét giải quyết hoàn thuế cho
số thuế GTGT đầu vào cha đợc bù trừ hết.
Trờng hợp cơ quan thuế kiểm tra, thanh tra định kỳ tại cơ sở kinh
doanh phát hiện cơ sở kinh doanh có hành vi gian lận thuế về thuế nêu
trên cũng bị xử lý theo quy định tại điểm này.
Các hành vi sau đây đợc coi là hành vi gian lận trong kê khai, nộp
thuế, hoàn thuế:
+ Sử dụng hóa đơn, chứng từ không hợp pháp, bao gồm hóa đơn in
giả, hóa đơn khống (không bán hàng hóa, dịch vụ), hóa đơn giao cho ngời mua (liên 2) ghi khác với hóa đơn lu tại cơ sở kinh doanh (liên1), hóa
đơn ghi giá trị cao hơn giá trị thực tế của hàng hóa, dịch vụ bán ra, hóa
đơn đã tẩy xóa, lập khống bảng kê khai hàng hóa mua vào thuộc đối tợng
khấu trừ thuế GTGT theo tỷ lệ %, lập giả chứng từ nộp thuế GTGT khâu
nhập khẩu để gian lận trong kê khai nộp thuế, hoàn thuế GTGT.
+ Bán hàng hóa, dịch vụ không lập hóa đơn mua vào thuộc đối tợng đợc khấu trừ thuế GTGT theo tỷ lệ %, lập giả chứng từ thuế GTGT.
+ Sử dụng hóa đơn của cơ sở kinh doanh khác để bán hàng hóa,
dịch vụ nhng không kê khai thuế GTGT.
+ Kê khai thuế GTGT đầu vào của hàng hóa, dịch vụ không dùng
cho hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc dùng cho hoạt động sản xuất
kinh doanh thuộc đối tợng không chịu thuế GTGT để khấu trừ thuế.
+ Các hành vi gian lận khác nhằm chiếm đoạt tiền thuế của NSNN.
Thứ t, không nộp thuế, nộp phạt sẽ bị xử lý:
+ Trích tiền gửi của đối tợng nộp thuế để nộp thuế tại ngân hàng,
kho bạc, tổ chức tín dụng có trách nhiệm trích tiền từ tài khoản tiền gửi
của đối tợng nộp thuế để nộp thuế, nộp phạt vào NSNN theo quyết định
xử lý về thuế của cơ quan thuế hoặc cơ quan có thẩm quyền trớc khi mua
nợ.
+ Giữ hàng hóa, tang vật để đảm bảo thu đủ số thuế, số tiền nộp
phạt.
+ Kê biên tài sản theo quy định của pháp luật để đảm bảo thu đủ
số thuế, số tiền phạt còn thiếu.
- 18 -
Ngô Thị Thanh Bình QTKDTM 43A
Đề án kinh tế thơng mại
Việc xử lý các vi phạm về thuế GTGT nói trên đợc thực hiện theo
các thủ tục, trình tự quy định tại các văn bản pháp luật về xử lý vi phạm
về thuế.
2. Gian lận thuế GTGT của các doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh qua 5 năm
Sau gần 5 năm thực hiện luật thuế GTGT, các doanh nghiệp sản
xuất kinh doanh với nhiều thủ đoạn tinh vi, móc nối, đã qua mắt nhiều
cán bộ thuế để thực hiện hành vi gian lận thuế GTGT trong việc trốn
thuế, khai man tiền để đợc hoàn thuế ....
- Trên địa bàn Hà Nội phát hiện 19 doanh nghiệp bằng nhiều thủ
đoạn đã chiếm đoạt 43 tỷ đồng tiền thuế GTGT, và đã thu hồi đợc hơn 33
tỷ đồng tiền hoàn thuế. Từ năm 2002 đến năm 2004 đã có hơn 100 văn
bản trao đổi giữa 2 cơ quan về doanh nghiệp có vi phạm, các doanh
nghiệp khác theo công văn đề nghị đã cơ bản đợc xem xét, giải quyết
theo thẩm quyền. Đặc biệt thời gian qua có một số doanh nghiệp không
kinh doanh mà dùng hóa đơn GTGT để bán cho các doanh nghiệp khác
sử dụng vào nhiều mục đích gian lận, sau đó bỏ kinh doanh gây ảnh hởng
xấu đến các doanh nghiệp chân chính. Cục thuế thành phố đã phát hiện 6
doanh nghiệp vi phạm chuyển sang công an thành phố khởi tố và thu hồi
hơn 600 triệu đồng. Hai cơ quan chức năng: Cục thuế thành phố và công
an thành phố vẫn đang tiếp tục kiểm tra các đối tợng vi phạm các luật
thuế, phòng ngừa các hành vi trốn lậu thuế và thu hồi tiền hoàn thuế
GTGT. Tại thành phố Hồ Chí Minh, năm 2001 đã hình thành một số tụ
điểm bán hóa đơn công khai đã gây ra những tổn thất khó lờng khi thực
hiện khấu trừ thuế, giảm thuế, hoàn thuế. Theo số liệu thống kê (thời báo
kinh tế số 93 tháng 5/2002) thì hiện nay ở thành phố Hồ Chí Minh có
800 doanh nghiệp, riêng ở quận Hai Bà Trng Hà Nội có 300 doanh
nghiệp đăng ký hoạt động mà không tồn tại.
Ông Nguyễn Văn Ninh, tổng cục trởng Tổng cục thuế cho biết, đã
thu hồi đợc 235 tỷ đồng tiền thuế GTGT bị gian lận. Trong đó, riêng
nghành thuế đã tiến hành thu đợc 140 tỷ đồng. Để chống thất thu và gian
lận thuế, năm 2004 cơ quan thuế sẽ không tiến hành thanh tra tràn lan
nh trớc mà chỉ tập trung vào khu vực có rủi ro cao, dựa trên các kết quả
phân tích. Cũng theo ông Ninh, 2 năm trở lại đây, cơ quan thuế cha phát
hiện có doanh nghiệp ma nào đợc thành lập nhằm lợi dụng hóa đơn để
chiếm đoạt thuế GTGT.
- 19 -
Ngô Thị Thanh Bình QTKDTM 43A
Đề án kinh tế thơng mại
- Sử dụng hóa đơn khống: hàng hóa mua ít nhng hóa đơn ghi nhiều
để hoàn thuế GTGT. Tại Gia Lai ngày 21/07/2003, công an tỉnh đã điều
tra phát hiện hóa đơn số 68359 (do Trạm thu mua nông sản Công ty
Nông sản thành phố phát hành), thực tế không có hóa đơn này với số tiền
đã hoàn 3.522.000VNĐ, theo quyết định số 1118 ngày 28/06/2000 với số
tiên hoàn thuế 1.123.143.957 đồng, trong đó có 3.522.000 đồng khống
trên.
Có trờng hợp liên 1 và 2 ghi lệch nhau, số tiền ghi trên liên 2 ghi
lớn hơn liên 1 gấp nhiều lần. Thí dụ, qua điều tra xác minh tại cục thuế
Bắc Ninh phát hiện 37 hóa đơn của 4 hộ kinh doanh nộp thuế khoán thì
thấy:
Tổng giá trị trên liên 1: 11.138.000 đồng
Tổng giá trị trên liên 2: 48.161.339.675 đồng
Tại Quảng Ninh phát hiện một doanh nghiệp kê khai số tiền trên
liên 1 và liên 2 chênh lệch 43,4 triệu đồng. Thanh Hóa phát hiện 2 hóa
đơn có số tiền chênh lệch giữa 2 liên là 94,5 triệu đồng.
- Nhiều đơn vị doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hành vi in và
sử dụng hóa đơn giả vẫn có xu hớng tăng. Thói quen, gian dối trong toán,
quyết toán tài chính hầu nh đang là chất xúc tác khuyến khích sự vụ lợi
để rồi một số ngời hoặc vô tình hoặc cố ý trong việc mua bán, sử dụng
hóa đơn giả, hóa đơn không hợp pháp. Chỉ tính tại thành phố Hồ Chí
Minh trong năm 2000, các cơ quan chức năng đã phát hiện 196 vụ vi
phạm hóa đơn giả bất hợp pháp trong các doanh nghiệp với tổng số hơn
500 tờ hóa đơn truy thu và phạt 443 triệu đồng, trong đó có nhiều đơn vị
kinh doanh vi phạm với số lợng lớn.
Năm 2003 vừa qua, nghành thuế Tuyên Quang đã thực hiện thanh
tra, kiểm tra 196 đơn vị kinh doanh. Năm 1999, hoàn thuế cho một số
doanh nghiệp với số tiền là 49 triệu đồng, kiểm tra không có hồ sơ nào vi
phạm. Năm 2000, hoàn thuế cho 5 hồ sơ, tiền hoàn thuế 430 triệu đồng,
5 hồ sơ không vi phạm. Năm 2001, hoàn thuế cho 17 hồ sơ , tiền hoàn
gần 28 tỷ đồng, không có hồ sơ nào vi phạm. Nhng năm 2002, hoàn thuế
cho 18 hồ sơ là 1,8 tỷ đồng, có 4 hồ sơ vi phạm, thu 3,2 triệu đồng, phạt
vi phạm là 2,5 triệu đồng.
- Gian lận về việc chuyển đổi mục đích của tài sản cố định. Quy
định thuế GTGT đối với tài sản cố định có số thuế GTGT đợc khấu trừ
hơn 200 triệu đồng có u điểm đã khuyến khích đợc các doanh nghiệp đẩy
- 20 -
Ngô Thị Thanh Bình QTKDTM 43A
Đề án kinh tế thơng mại
mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh, sử dụng vốn có hiệu quả hơn trong
thời gian đầu mới thành lập. Nhng vấn đề đặt ra, nếu trong một vài năm
đầu thuế GTGT đối với TSCĐ đầu t đó dùng vào sản xuất mặt hàng chịu
thuế GTGT thì hoàn thuế là đúng và chính xác. Nhng thời gian sau,
doanh nghiệp lại dùng tài sản đó để sản xuất ra hàng hóa không chịu thuế
GTGT thì theo nguyên tắc không đợc hoàn thuế trong khi đó toàn bộ số
thuế đầu vào đã hoàn rồi. Nh vậy, rõ ràng doanh nghiệp đã gian lận tiền
hoàn thuế GTGT thông qua việc kê khai sai mục đích sử dụng của TSCĐ.
- Kê khai hóa đơn, chứng từ thiếu trung thực: Đây là vấn đề thực tế
mà cơ quan thuế khó có thể bắt bẻ đợc. Thờng thì các doanh nghiệp
không vào sổ sách kế toán khi phát sinh các nghiệp vụ kinh tế, bán hết
hàng không viết hóa đơn nhng vẫn kê khai, lợng tồn kho lớn để đợc hoàn
thuế. Nếu sau khi hoàn thuế không tổ chức kiểm tra ngay, cơ quan thuế
khó có số liệu đối chứng,phát hiện ra 1318 trờng hợp vi phạm, phải xử lý
hành chính thu về cho NSNN 113 tỷ đồng.
Từ năm 1999 đến 2002 thực hiện thuế GTGT nói chung và công
tác quản lý hoàn thuế nói riêng, cơ quan thuế đã loại trừ đợc 3150 trờng
hợp không đủ điều kiện hoàn thuế với số tiền là 3148 tỷ đồng, bằng
15,815% tổng số thuế đề nghị hoàn. Về công tác hậu kiểm, cơ quan thuế
đã kiểm tra 3600 lợt doanh nghiệp , với số tiền 3685,15 tỷ đồng. Đối tợng mang tính chất hình sự có 378 đối tợng , cơ quan thuế đã lập biên
bản , chuyển sang cơ quan pháp luật điều tra , khởi tố. Hiện nay, hàng
năm chúng ta có 16 000 đơn vị có nghiệp vụ suất khẩu và đợc hoàn thuế.
Trong đó đã xác định đợc khoảng 300 doanh nghiệp có vi phạm mang
tính chất chiếm đoạt tiền thuế, chiếm khoảng 23 % số đơn vị đợc hoàn
thuế. Xét về số tiền, các đơn vị này gian lận tổng cộng 493 tỷ đồng,
chiếm khoảng 2,8366 % trên số thuế thực hoàn. Số tiền này so với số tiền
thuế GTGT thu đợc trong những năm qua chiếm khoảng 0,6287 %. Tuy
nhiên theo tổng cục trởng Nguyễn Văn Ninh, số tiền bị chiếm đoạt cha
phải là lớn, thậm chí chiếm tỷ lệ % nhỏ nhng tính chất lại rất nghiêm
trọng. Thể hiện điều này ở quy mô của mỗi vụ lên tới hàng tỷ đồng nh vụ
gian lận ở Nha Trang là 26 tỷ đồng, vụ tinh dầu ở Hà Nội là 7,2 tỷ đồng,
vụ trốn thuế GTGT của công ty điện thoại di động Đông Nam ở thành
phố HCM là hơn 112 tỷ đồng Các vụ việc đã hình thành một hệ thống
tổ chức móc nối giữa nhiều doanh nghiệp khác nhau: Công ty TNHH
Tam Nguyên, công ty Trần Hng Đạo, công ty Thiên Anh Là hệ thống
- 21 -
Ngô Thị Thanh Bình QTKDTM 43A
Đề án kinh tế thơng mại
chân dết cho Đông Nam, cùng với một số cán bộ công chức nhà nớc và
Hải quan tiếp tay
Nếu nh ở Hà Nội và thành phố HCM, Hải Phòng và Đà Nẵng số
doanh nghiệp lừa đảo chiếm đoạt tiền hoàn thuế với số tiền hơn 200 tỷ
đồng theo số liệu thống kê của Tổng cục thuế tháng 11/2002 riêng 23
doanh nghiệp Đồng Nai đã chiếm đoạt của nhà nớc 93 tỷ đồng tiền hoàn
thuế GTGT.
Vấn đề quan trọng đặt ra là chúng ta phải biết đợc bằng cách nào
doanh nghiệp có thể thực hiện đợc các hành vi gian lận một cách trót lọt
với số tiền nhiều đến thế. Để từ đó rút ra những nguyên nhân cơ bản và
tìm cách khắc phục để ngăn chặn kịp thời các hành vi gian lận thuế
GTGT này.
III. Nguyên nhân của gian lận thuế GTGT
1. Công tác quản lý đối với nộp thuế GTGT
Thứ nhất, tính mới của thuế GTGT :
Tính mới của thuế GTGT thể hiện ở điểm: Cơ sở tính thuế là
GTGT chứ không phải doanh thu hay lợi nhuận, hai phơng pháp áp dụng
riêng cho hai đối tợng nộp, quy trình thu và quản lý thuế mang tính công
nghệ, diện chịu thuế 0% khác cơ bản với diện không chịu thuế, giá tính
thuế khác nhau giữa các mặt hàng chịu thuế GTGT và mặt hàng không
chịu thuế GTGT, hóa đơn GTGT và hóa đơn thờng. Khái niệm thuế
GTGT tăng đầu vào, thuế GTGT đầu ra và đặc biệt là thuế GTGT đầu ra
bằng 0 đồng còn quá mới mẻ đối với ngời kinh doanh và cả với cơ quan
thu thuế. Tất nhiên, điều gì mới thoạt đầu sẽ đợc hiểu một cách lệch lạc,
thậm chí bị một số cá nhân xấu lợi dụng.
Thứ hai, cơ sở kế toán quốc dân cha hình thành hoặc cha đợc
chuẩn bị.
Đại bộ phận kinh doanh quy mô dới doanh nghiệp t nhân không
quan tâm đến chế độ kế toán quốc dân mà phản ánh hoạt động sản xuất
kinh doanh theo lôgic thô sơ. Nguy hiểm hơn là họ cho rằng sổ sách kế
toán là công cụ của cơ quan Nhà nớc kiểm tra, kiểm soát họ mà không
nghĩ rằng sổ sách, tài khoản, chứng từ... là những phơng tiện căn bản
giúp họ tiếp cận hoạt động kinh doanh 1 cách có hệ thống để đánh giá,
đo lờng, phân tích kết quả kinh doanh cũng nh dự báo tơng lai. Thêm
nữa, nền kinh tế Việt Nam vẫn còn là nền kinh tế tiền mặt. Mọi thanh
toán và giao dịch đều có thể dùng tiền mặt: tiền Việt Nam, vàng và ngoại
- 22 -
Ngô Thị Thanh Bình QTKDTM 43A
Đề án kinh tế thơng mại
tệ (chủ yếu là USD). Điều này đợc các doanh nghiệp khai thác lập bộ hồ
sơ thanh toán khống, đồng thời cơ quan thuế cũng khó phát hiện để ngăn
chặn kịp thời.
Thức ba, sự lúng túng của cơ quan chức năng:
Thể hiện rõ nét là quá nhiều văn bản đợc ban hành. Chỉ trong một
thời gian ngắn năm 1999, Chính phủ và Bộ tài chính cho ra hàng trăm
văn bản liên quan đến thuế GTGT. Hay là quý VI năm 2002, Chính phủ
và Bộ tài chính liên tiếp ban hành nhiều Nghị định, thông t liên quan đến
khấu trừ thuế. Điều này gây ra những mâu thuẫn trong điều hành và thực
hiện.
Bên cạnh đó là cơ chế mà công luận gọi là xin-cho: xin đợc hởng thuế xuất thấp hơn, xin đợc nộp thuế 0%, xin đợc mở rộng khấu trừ
thuế theo tỷ lệ tính trên giá mua không có hóa đơn GTGT...
Ngoài ra, việc áp dụng đồng thời hai phơng pháp tính cho hai loại
đối tợng nộp thuế gây nhiều tốn kém và cản trở sự vận hành của thuế
GTGT trên phạm vi toàn nền kinh tế xã hội.
Sự lúng túng lên đến đỉnh điểm khi hiện tợng gian lận thuế xuất
hiện nhng cơ quan thuế, hải quan, công an (bộ phận điều tra) và Viện
kiểm sát cha chọn đợc cách thức phối hợp để chống hoặc xử phạt một
cách hữu hiệu.
Thứ t, sự yếu kém trong dự báo và thiếu trách nhiệm đánh giá tác
động của chính sách.
Điển hình là quy định cho phép các doanh nghiệp nộp thuế GTGT
theo phơng pháp khấu trừ đợc khấu trừ thuế đầu vào không căn cứ vào
hóa đơn GTGT cho một số trờng hợp. Tỷ lệ khấu trừ tính trên giá mua
ban đầu là 5% và 3%, tiếp theo là 5%, 4% và 3% rồi giảm còn 3% và
2%, đến tháng 10 năm 2002 là 1%. Diện đợc hởng khấu trừ thoạt tiên
không áp dụng cho xuất khẩu, sau đó mở rộng cho xuất khẩu... Quy định
trên nhằm khuyết khích doanh nghiệp tiêu thụ hàng của nông dân, góp
phần thúc đẩy khu vực nông nghiệp phát triển. Đó là một chủ trơng đúng.
Nhng khi thi hành thì không dự báo đợc tác động ngoại ý của nó. Vì vậy
làm nảy sinh hiện tợng lập chứng từ không trung thực để chiếm đoạt tiền
hoàn thuế GTGT. Đến khi tình hình chiếm đoạt tiền thuế bùng phát thành
phong trào và gây ra những hậu quả nặng nề thì Chính phủ và Bộ tài
chính cắt ngay điều khoản này mà không để ý rằng có không ít doanh
nghiệp chân chính bị vạ lây cách hành xử đó khiến dân chúng mất
- 23 -
Ngô Thị Thanh Bình QTKDTM 43A
Đề án kinh tế thơng mại
niềm tin vào chính sách thuế mới và doanh nghiệp lơng thiện nghi ngờ
cách thức và năng lực điều hành nền kinh tế của Chính phủ.
Thứ năm, thiếu quyết liệt trong xử phạt.
Theo Bộ trởng tài chính Nguyễn Sinh Hùng, ở Trung Quốc đã xử
60 phạm nhân liên quan đến hoàn thuế. Thế nhng, ở nớc ta cha tử hình
tội phạm nào cả, thậm chí xử 20 năm tù cũng cha có. Theo thời báo tài
chính Việt Nam, dẫn nguồn tin từ tổng cục thuế, mức phạt cao nhất là
100 triệu đồng, đối với các hành vi vi phạm chế độ sử dụng hóa đơn. Trên
thực tế, thiệt hại do sử dụng hóa đơn không trung thực khiến Nhà nớc
thất thoát hàng trăm tỷ đồng. Có vụ, một cá nhân chiếm đoạt nhiều tỷ
đồng tiền thuế. Nừu không trị quyết liệt thì luật pháp không khiến ngời ta
sợ, vẫn tiến triển nhan, đa dạng, tinh vi và ngày càng lớn về số tiền thuế
chiếm đoạt.
Thứ sáu, sự thoái hóa của một số cán bộ thuế và hải quan.
Không hiếm trờng hợp chính công chức thu ngân sách gợi ý và
tiếp tay cho một số cá nhân ăn tiền thuế. Điển hình là vụ Công ty TNHH
Thơng mại Việt Hùng trốn hơn 40 tỷ đồng tiền thuế có sự tiếp tay của hải
quan Thành phố Hồ Chí Minh, vụ án công ty Đông Nam có sự tiếp tay
của phi công, tiếp viên hàng không. Ngoài ra chủ trơng xuất khẩu tiểu
nghạch qua biên giới bị lợi dụng với sự tiếp sức của 1 vài nhân viên thuế
biến chất. Để thu 1 tỷ đồng thuế, nhiều cán bộ, nhân viên phải nỗ lực
phấn đấu trong thời gian có khi cả năm. Thế nhng chỉ cần hai ba phần tử
thoái hóa cũng gây thất thoát nhiều lần hơn trong thời gian ngắn. Điều
này khiến cho hình ảnh về cơ quan thuế dới con mắt doanh nghiệp và dân
chúng bị hoen ố.
Thứ bảy, thiếu phơng tiện kỹ thuật hỗ trợ.
Do không gian của hoạt động kinh tế thờng rộng lớn, một doanh
nghiệp ở Cà Mau có thể mua bán với các doanh nghiệp ở Lạng Sơn, Gia
Lai hoặc Bình Phớc và cũng có thể xuất khẩu ra nhiều cửa khẩu. Vì vậy,
thông tin về lô hàng của từng đợt xuất nhập khẩu phải đợc phối hợp kiểm
tra trên toàn phạm vi cả nớc chứ không chỉ gói gọn tại một địa phơng.
Trong khi đó, thời gian xét hoàn thuế ngắn, nên cơ quan thuế không đủ
sức thẩm tra toàn bộ chứng từ cũng nh lai lịch của các bên có liên quan.
Theo thông tin từ Tổng cục Thuế, tính đến năm 1999 cơ quan thuế nắm
đợc 1.082.565 đối tợng nộp thuế, năm 2000 là 1.212.139 đối tợng, năm
2001 là 1.337.291 đối tợng và đến năm 2002 đã có 1.781.827 đối tợng.
- 24 -