1. Trang chủ >
  2. Thạc sĩ - Cao học >
  3. Kinh tế >

PHẦN 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (574.03 KB, 113 trang )


tăng lên 3,4ha. Tuy vậy bên cạnh đó, năm 2012 diện tích giảm so với năm trước là

5ha. Nguyên nhân là do nhiều vườn cam bị nhiễm bệnh vàng lá gân xanh nên cam

bị đốn hạ; điều này đã làm cho diện tích cho quả ở xã giảm đi trông thấy.

4.1.2 Năng suất và sản lượng

Bảng 4.2 Bảng năng suất và sản lượng của xã Sơn Trường qua 3 năm

Chỉ tiêu

ĐVT

Năm 2011

Năm 2012

Năm 2013

DT cho quả

Ha

80,2

75,2

83,6

Năng suất

Tấn/Ha

2,12

1,99

2,58

Sản lượng

Tấn

170

150

216

Trong những năm qua, tình hình dịch sâu bệnh hại và thời tiết đã làm ảnh

hưởng đến diện tích cho quả, và cũng một phần do thời tiết biến đổi, khí hậu lạnh,

sương muối nhiều ngày càng làm mất trắng nhiều diện tích cam Bù cho quả vào vụ

tết 2012. Đến năm 2013, cam Bù tại xã Sơn Trường đã có dấu hiệu phục sinh trở lại

với 83,6ha trong tổng diện tích trồng là 158,68ha. Diện tích cam Bù tăng chậm là do

sâu bệnh hại nhiều, diện tích cũ đã và đang bị thoái hóa, bên cạnh đó giống không

đạt tiêu chuẩn, kỹ thuật trồng chưa đúng, chí phí đầu tư cho sản xuất thấp, thời tiết

khí hậu không thuận lợi...

Sơn Trường là một trong các xã có số hộ trồng cam với quy mô trang trại

nhiều nhất trong huyện. Chính vì thế mà Sơn Trường đã được chọn là một trong 3

xã làm điểm quy hoạch vùng phát triển sản xuất cây cam Bù. Qua điều tra, chúng

tôi nhận thấy việc phát triển diện tích cam Bù trong xã còn mang tính tự phát, nhiều

diện tích trồng trên đất chưa phù hợp với sinh thái của cây dẫn đến phát triển kém,

năng suất, chất lượng quả còn thấp. Do đó, cần phải có quy hoạch chi tiết cho sản

xuất cam theo vùng và khuyến cáo nông dân phát triển đúng quy hoạch.

Năm 2013, do tình hình sâu bệnh giảm, thời tiết khí hậu thuận lợi và người

dân dầu tư thâm canh khiến cam Bù tặng lên. Điều này kéo theo sản lượng cam Bù

cũng tăng lên rất nhiều mặc dù diện tích cho quả tăng lên không đáng kể. Năng suất

bình quân đạt từ 30-70kg/cây, cá biệt còn có những cây cho năng suất 100200kg/cây. So với năm 2011 thì năng suất năm 2013 tặng một cách đột biến từ 2,12

tấn/ha lên 2.58 tấn/ha. Điều này kéo theo sản lượng cam Bù cũng tăng lên rất nhiều

mặc dù diện tích cho quả tăng lên không đáng kể. Năm 2013, năng suất và sản



57



lượng cam Bù của xã đạt mức cao trên 200 tấn với nặng suất 2.58 tấn/ha. Cá biệt có

một số hộ đạt năng suất 3 tấn/ha, mang lại thu nhập hơn 12 tỷ.

Cam Bù là một trong những thứ quả có múi ở xã Sơn Trường chiếm sản

lượng cao nhất. Tuy năm 2011 sản lượng cam Bù là 170 tấn đến năm 2012 có xu

hướng giảm nhẹ xuống còn 150 tấn, giảm đi 1,13% so với năm 2011. Nguyên nhân

dẫn đến suy giảm năng suất và sản lượng đó cũng là do một phần nhận thức của

người trồng cam, chưa biết áp dụng các biện pháp kỹ thuật trong chăm sóc, đặc biệt

sâu bệnh gây hại là nguyên nhân chính làm giảm đi năng suất, chất lượng và chu kì

kinh doanh của vườn cam. Nhưng đến năm 2013 thì sản lượng lại tăng lên một cách

đáng kể, từ năm 2011 với sản lượng là 170 tấn thì năm 2013 đã là 216 tấn , tăng lên

78,7%. Từ khi dự án “ tạo lập nhãn hiệu chứng nhận cam Bù Hương Sơn” được

thực hiện, các nông hộ sản xuất cam Bù tại xã sơn Trường cũng đã được tặng cường

đầu tư KHKT, được tham gia các buổi tập huấn các biện pháp chăm sóc, phòng

bệnh tại xã do cán bộ huyện hướng dẫn mà năng suất cũng như sản lượng cam Bù

đã được cải thiện mạnh.

4.1.3Kết quả và hiệu quả sản xuất của các nhóm hộ điều tra



4.1.3.1 Đặc điểm của các hộ điều tra

Bảng 4.3 Tình hình chung của các hộ điều tra năm 2013

Chỉ tiêu

1.Tuổi TB chủ hộ

2. Trình độ văn hóa

-Hết cấp 2

-Hết cấp 3



ĐVT

Tuổi



Hộ QML

50,16



%

%



73,68

15,79



Hộ QMV

54,63



Hộ QMN

47,33



62,5

100

Không có

Không có

Nguồn: Ttổng hợp phiếu điều tra



Là một huyện có diện tích trồng cam Bù lớn, với những bí quyết và kinh

nghiệm chăm sóc của các chủ vườn đã tạo cho cam Bù Hương Sơn có vị thơm ngon

đặc biệt. Ở xã Sơn Trường cũng vậy, độ tuổi bình quân các chủ hộ điều tra khá cao,

điều này cho thấy kinh nghiệm của các chủ hộ trong quá trình sản xuất cam Bù khá

cao.Nhìn chung, kinh nghiệm trồng cam Bù của các hộ là khá cao (bình quân trên

11 năm). Điều này cho thấy các hộ đã có một vốn kinh nghiệm trồng cam từ lâu nên



58



sẽ thuận lợi hơn khi mở rộng quy mô sản xuất nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế và

tạo ra nhiều lợi thế cho lĩnh vực sản xuất này.

Hiện nay, tổng số diện tích trồng cam Bù ở các quy mô khác nhau có sự khác

biệt lớn. Các hộ trồng cam với quy mô nhỏ là do chủ yếu tận dụng diện tích đất thừa

trong sản xuất, không nhiều chỉ khoảng 2 sào, nhằm tăng thêm thu nhập cho gia

đình. Trong khi đó, các hộ có quy mô vừa có diện tích trồng cam cao hơn 2,44 lần

và hộ quy mô lớn 4,58 lần. Hiện nay trên địa bàn xã đã có một số hộ trồng cam theo

hình thức trang trại, đây là tín hiệu đáng mừng cho ngành trồng cam trong xã.

Thực tế cho thấy các hộ trồng cam Bù luôn lo ngại về dịch sâu bệnh hại và

thời tiết ảnh hưởng đến chất lượng trồng và sản lượng cam qua các năm. Trong năm

2013 qua, tình hình dịch bệnh và thời tiết cũng làm ảnh hưởng một phần không nhỏ

đến sản lượng và giá cả từng giai đoạn thu hoạch của cam ( đầu, giữa, cuối)…Sự

khác nhau về cách chăm, trồng cam, áp dụng kỹ thuật trồng cam của các hộ điều tra

mà qua đó mang lại năng suất cam khác nhau cho mỗi hộ.

Lao đông bình quân của các hộ điều tra là 2,067 lao động/1 hộ. Tuy nhiên,

không phải tất cả các lao động trong các hộ điều tra đều tham gia trồng và sản xuất

cam. Với quy mô nhỏ, trồng cam chưa phải phải là nguồn thu nhập chính, đây còn

mang hình thức tận dụng, tranh thủ. Ngược lại với các hộ quy mô vừa và quy mô

lớn thì đã có sự đầu tư rõ rệt, đây coi như là nguồn thu nhập chính và có sự đầu tư

về lao động hơn.

4.1.3.2 Diện tích, năng suất và sản lượng của hộ điều tra

Cây cam Bù là một loại cây ăn quả, cũng là một sản phẩm được buôn bán

trên thị trường, do đó để cây cam Bù có khả năng tồn tại và phát triển thì hộ sản

xuất phải đạt được mục đích cuối cùng là giá trị kinh tế. Qua tìm hiểu từ các hộ thì

sau một đợt thu hoạch hộ trồng cam có một số hộ đạt thu nhập bình quân 1ha là 70

– 138 triệu đồng, lãi ròng khoảng 200 triệu/năm. Vậy thực tế tình hình sản xuất cam

Bù của các nhóm hộ như thế nào? Tôi đã tiến hành thu thập số liệu và tính toán theo

công thức, để tổng hợp số liệu phản ánh diện tích sản xuất cam Bù của các nhóm hộ

trong bảng 4.5 sau:



59



Bảng 4.4 Tình hình sản xuất cam Bù của các nhóm nông hộ năm 2013

Chỉ tiêu

1. Diện tích trồng cam Bù

bq/Hộ

2. Giá trị sản xuất



ĐVT

Sào

Trđ/ha



Hộ quy



Hộ quy



Hộ quy



mô lớn



mô vừa



mô nhỏ



9,16



4,875



2



185,26

76,25

13

Nguồn: Tổng hợp phiếu điều tra.



Nhìn chung, quy mô về diện tích cam của mỗi hộ rất khác nhau (diện tích

cam của hộ quy mô lớn gấp 1,88 lần hộ quy mô vừa và gấp 4,58 lần hộ quy mô

nhỏ). Bởi vì, tuỳ thuộc diện tích đất vườn, điều kiện thổ nhưỡng, đất không bị ngập

úng và tập quán canh tác... Vì vậy, trong một xóm không phải tất cả các hộ đều

trồng cam Bù. Trong các hộ trồng cam Bù ở vườn nhà, hộ trồng ít nhất là 5 - 7 cây,

trồng phổ biến nhất là từ 20 - 50 cây. Đối với các gia trại trồng phổ biến là trên 100

cây, hộ nhiều nhất trồng trên 500 cây, có hộ đạt đến 2.500 gốc. Những năm gần đây,

nhận thấy việc trồng cam Bù mang lại hiệu quả cao hơn các loại cây ăn quả khác,

nên các hộ xin chính quyền huyện và xã thầu khoán, thuê thêm diện tích đất đồi để

mở rộng diện tích trồng.

Năng suất và sản lượng cam Bù của các nhóm hộ là khá cao. Có được kết

quả như vậy là do các hộ dân đã chú trọng sử dụng các biện pháp KHKT vào trong

sản xuất. Nhưng bên cạnh đó, năng suất cam Bù vẫn chưa đạt năng suất tối đa bởi

do cam Bù phát triển và kháng bệnh tương đối yếu, điều này đã làm giảm đi phần

nào năng suất thực đạt được của cây cam Bù.

Việc thống kê không thường xuyên, sâu sát cả về diện tích, năng suất, và một

phần sản lượng cam Bù được dùng vào mục đích ăn, làm quà biếu của chủ hộ nên

khó thống kê một cách chính xác được sản lượng cam, chính vì vậy sản lượng cam

Bù thống kê không được cao đúng như thực tế và tiềm năng của nó.

Giá trị bình quân hộ thu cho 1ha đưa vào kinh doanh được là 55,8 triệu đồng,

điều này thực sự đã khẳng định nghề trồng cam của các hộ hơn hẳn các lĩnh vực sản

xuất nông nghiệp khác ở xã.

Bất kỳ một cây trồng nào, đặc biệt là cây ăn quả muốn có khả năng tồn tại và

phát triển thì chúng phải đạt được mục đích cuối cùng là giá trị kinh tế. cam Bù chủ



60



yếu được thu hái 1 lần vào cuối vụ (giáp Tết). Tuy nhiên cũng có một số hộ thu hái

thành nhiều lần. Do đó giá trị sản xuất hàng hoá của các nhóm hộ có sự chênh lệch

lớn, không những do năng suất của hộ mà còn do giá bán và thời điểm bán của sản

phẩm. Mặc dù vậy, hầu hết các hộ điều tra đều cho rằng cây cam Bù là loại cây

trồng có hiệu quả kinh tế cao. Qua tìm hiểu thì sau một đợt thu hoạch 1 tấn cam Bù,

người trồng cam lãi khoảng 43triệu đồng trong thời gian khoảng 20 - 35 ngày trước

và sau Tết Nguyên Đán. Trong một mùa, thu nhập bình quân hộ/năm khoảng từ 70 139 triệu đồng/ha (thu nhập bình quân tháng khoảng 6 - 12 triệu đồng).

4.1.3.3 Quy mô vốn

Vốn là yếu tố đầu vào quan trọng trong sản xuất kinh doanh, nó sẽ quyết

định đến cách thức và mức đầu tư của các hộ. Qua đó cũng với các yếu tố khác, sẽ

cho năng suất hiệu quả khác nhau. Là loại cây lâu năm nên vốn trồng cam Bù là

tương đối lớn, hộ không chỉ tập trung đầu tư vón trong 3 năm kiến thiết cơ bản mà

còn luôn luôn phải đầu tư vốn hàng năm. Nguồn vốn này giúp hộ chi các khoản chi

phí như: đào hố, bón các loại phân vô cơ, phân hữu cơ, chăm sóc theo giỏi hàng

tháng và thuê lao công, lao động...

Trong năm 2013, lượng vay vốn nhiều hay ít phụ thuộc vào diện tích trồng

cam Bù của từng hộ đua vào kinh doanh ( do đó để phục vụ đề tài tôi chỉ tập trung

vào các diện tích cam đã dua vào kinh doanh và thời gian sống của cây cam).

Bảng 4.5 tình hình vốn tiền mặt của các hộ điều tra

Chỉ tiêu

Tỷ lệ hộ vay

Số tiền vay bq/hộ

Min

Max

TB thời hạn vay



61



ĐVT

%

Tr đồng

Tr đồng

Tr đồng

Năm



Hộ QML Hộ QMV Hộ QMN

Bình quân

10

20

6,67

12,23

43,33

40

41,67

41,67

30

30

30

80

80

50

3

3,167

3,33

3,166

Nguồn : tổng hợp phiếu điều tra 2013



Bảng 4.6tình hình nguồn vay của các hộ điều tra

Nguồn vay

Ngân hàng Nông nghiệp

Ngân hàng người nghèo vay



Số tiền vay bq/1 hộ

Lãi suất(%)

41,665

0,08

41,67

0,06

Nguồn: Tổng hợp phiếu điều tra 2013



Ngoài nguồn vốn chính là từ Ngân hàng Nông nghiệp thì ngân hàng còn mở

thêm cho người nghèo vay với lãi suất là …để phục vụ cho việc sản xuất và trồng

cam, đáp ứng nhu cầu về giống, phân bón, thuê mướn lao động phục vụ nâng cao kỹ

thuật trồng và canh tác tốt. Các nguồn vay vốn khác ở các thời điểm khác nhau. Tuy

vậy, Ngân hàng vẫn là nguồn vay chính của cac hộ trồng và sản xuất cam Bù. Theo

ý kiến đánh giá của người vay tiền, việc vay vốn của ngân hàng không còn nhiều

khó khắn như trước, do thủ tục vạy đã dơn giản hóa hơn nhiều, tuy nhiên công tác

phê duyệt vốn cho người dân cũng còn tường đối phức tạp, do ngân hàng phải xem

xét kỹ khả năng hoàn trả của hộ dân và tài sản hộ đem ra thế chấp( do cam Bù ngày

càng rủi ro lớn, bởi nguy cơ về sâu bệnh và dịch bệnh).

Như vậy, phần lớn nguồn vốn phục vụ trồng cam Bù là từ ngân hàng, đặc

biệt tập trung chính là ngân hàng Nông nghiệp và PTNT. Vì vậy, trong thời gian tới

các ngân hàng cần tạo điều kiện nhiều hơn để khuyến khích việc vay vốn của các

hộ, nhằm đảm bảo nguồn vốn luôn sẵn có để phục vụ phát triển sản xuất. Bên cạnh

đó, các tổ chức tian dụng khác cũng cần quan tâm đến công tác cho người dân vay

vốn từ nguồn vốn của đoàn thể để qua công tác này không những phát huy được vai

trò của các đoàn thể mà còn tạo ra sự liên kết giữa các hộ, các vùng với nhau.

4.1.3.4 Tình hình tiêu thụ cam Bù của các nhóm nông hộ

Tiêu thụ sản phẩm là một khâu của quá trình sản xuất, không những thế lại là

một khâu rất quan trọng. Sản phẩm có tiêu thụ được thì sản xuất mới phát triển được và

ngược lại, sản phẩm không tiêu thụ được thì sẽ làm ngừng trệ quá trình sản xuất. Thị

trường quả nói chung phụ thuộc vào mức sống và tập quán sử dụng của nhân dân. Cầu

về sản phẩm quả phụ thuộc vào thu nhập của người tiêu dùng rất nhiều. Ngoài ra, tiêu

thụ quả còn phụ thuộc vào giới tính, tuổi tác, phụ thuộc theo mùa: mùa lạnh nhu cầu

quả khác, mùa nóng nhu cầu khác, dịp lễ Tết thì nhu cầu quả cũng cao hơn... Do đó,

sản xuất cam Bù rất cần chú ý đến những điểm này để sản xuất sản phẩm đáp ứng được



62



thị hiếu người tiêu dùng, chú trọng hơn tới chất lượng, thời vụ chín sớm, chín muộn...

để dễ dàng cho tiêu thụ và bán sản phẩm được giá.

Bảng 4.7 Tình hình tiêu thụ cam Bù của các nông hộ năm 2013 (Tính bình

quân cho 1 hộ)

Chỉ tiêu



Sản lượng BQ (tạ)



Cơ cấu (%)



75



100



45,27

20,56

7,32

1,85



60,36

27,41

9,76

2,47



12,5

42,72

19,78



16,67

56,96

26,37



Tổng sản lượng tiêu thụ bq/vụ

1.Theo đối tượng người thu mua

- Người thu gom

- Người bán buôn

- Người bán lẻ

- Người tiêu dung

2. Theo thời điểm bán

- Đầu vụ

- Giữa vụ

- Cuối vụ

3. Theo địa điểm

- Tại vườn

- Tại chợ địa phương



63,51

84,68

11,49

15,32

Nguồn: tài liệu huyện Hương Sơn.



Cam Bù là sản phẩm không còn lạ với người dân huyện Hương Sơn, các địa

bàn xung quanh và thị trường Nghệ An, nhưng còn mới lạ với các tỉnh thành phố

trong cả nước. Hiện tại, cam Bù đang được bán tự do trên thị trường, không có nhãn

mác, thương hiệu. Trọng điểm tiêu thụ cam Bù chủ yếu là tại các chợ địa phương

trong tỉnh và chợ Vinh. Trong các địa điểm tiêu thụ của hộ thì hộ tiêu thụ tại vườn là

thuận lợi nhất với số lượng bán buôn lớn và chi phí thấp nhất. Qua số liệu ở bảng

4.7, có đến 60,36% sản lượng cam Bù được hộ tiêu thụ bằng cách bán cho tư

thương tại vườn. Thông thường những người thu gom sẽ mua luôn cả vườn cam Bù

và thu hoạch theo kế hoạch của người mua. Khách hàng chính của hộ là người bán

buôn và người thu gom (chiếm 87,77% tổng sản lượng). Chỉ có gần 9,76% hộ đem

đi tiêu thụ tại các chợ địa phương gồm chợ Rạp và chợ Phố Châu, chợ Choi. Bởi vì,

dù đem đi bán ở các chợ thì giá cũng không cao hơn nhiều do các tư thương và

người thu gom (là những người thường xuyên cung cấp cam cho cho họ) đã thoả

thuận trước với nhau không được mua cam của các hộ với giá cao hơn để người

trồng cam bán cho họ và hưởng chênh lệch giá.



63



Hiện tại, huyện có một đội ngũ đông đảo trên 150 người chuyên thu mua

Cam Bù cho các hộ sau đó chở đến các chợ địa phương hoặc đưa đi tiêu thụ ở thành

phố Vinh, Hà Tĩnh dưới nhiều hình thức bán buôn và bán lẻ.

Qua tìm hiểu, thị trường xuất khẩu, hiện nay cam Bù Hương sơn nói chung và

xã sơn Trường nói riêng thì cam Bù chủ yếu được xuất sang Lào, Campuchia và Thái

Lan qua con đường tiểu ngạch, số lượng tiêu thụ qua các nước này không cao.

* Kênh tiêu thụ cam Bù của các hộ

Phỏng vấn các hộ dân cũng cho thấy, sản phẩm cam Bù chủ yếu được tiêu

thụ qua kênh gián tiếp (chiếm khoảng 80%): các thương lái đến tận vườn thu

mua sản phẩm và đưa đi tiêu thụ ở các thị trường, các nhà buôn nhỏ thì họ mua

ngay từ khi cam còn ở trên cây, tính giá theo gốc… Ưu điểm của hình thức tiêu

thụ này là sản phẩm được tiêu thụ với khối lượng lớn. Việc bán được cam kịp

thời nên không làm ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm và làm giảm năng suất

vụ sau. Hơn nữa, người sản xuất không phải mất công, mất chi phí trong việc

bảo quản và vận chuyển sản phẩm. Các hộ trồng cam chủ yếu bán sản phẩm cho

thương lái là mặc cả giá rồi bán cả vườn cam. Đặc biệt trong những năm gần đây,

việc hợp đồng thu mua ngày càng trở nên phổ biến hơn nên ngay từ khi cây cam

cho quả vẫn còn xanh, các thương lái đã tới vườn và hợp đồng đặt thu mua.

Cũng có nhiều hộ bán cam thành nhiều đợt, đợt bán đầu tiên người mua cam

được chọn thu hái sản phẩm chất lượng cao, mẫu mã đẹp và chịu giá thành cao hơn

hẳn. Còn các đợt bán sau cam được bán theo cả vườn với giá theo thỏa thuận giữa

hộ và thương lái thị trường. Hiện nay, hình thức tiêu thụ này không được nhiều hộ

áp dụng vì khả năng hộ bị thương lái ép giá với số cam còn lại là rất cao. Kênh tiêu

thụ chính của các hộ là mua bán tự do thông qua mạng lưới tư thương nhỏ, không hề có

hợp đồng mua bán (hầu hết là đôi bên hợp đồng miệng). Qua điều tra, 55% lượng cam

Bù được các tư thương đem đi thành phố Vinh bán dưới nhãn hiệu cam Vinh. Mặc dù

hiện nay cam Bù đang trong quá trình tạo lập nhãn hiệu, thương hiệu nhưng khách

hàng ở các tỉnh lân cận vẫn chưa biết đến tên hiệu “Cam Bù Hương Sơn”. Do đó,vì

cam Vinh hiện đã được đăng ký chỉ dẫn địa lý và đang được thị trường ưa chuộng nên

chất lượng của cam Bù Hương Sơn nhưng lại mang nhãn hiệu cam Vinh. Số còn lại



64



gần 45% lượng Cam Bù được bán tại các chợ địa phương như chợ Phố Châu, chợ Rạp,

chợ Choi, ngã ba Bãi Vọt (Đức Thọ), chợ Hà Tĩnh, phục vụ nhu cầu của nhân dân

trong tỉnh.



Người sản xuất

Người bán buôn

Người bán lẻ

Người thu gom

Người tiêu dùng

2,47%

27,41%

60,36%

10%

90%



9,76



Sơ đồ 4.1 Kênh tiêu thụ cam Bù của các hộ điều tra

* Giá bán Cam Bù của các hộ



65



Theo ý kiến của các hộ thì cam Bù năm nay được giá nên giá cao hơn so với

những năm trước. Giá cao nhất ở đầu vụ là 45.000 – 60.000 đồng/kg.



66



Bảng 4.8 bảng giá bán cam Bù bình quân trên 1 hộ trong vòng 3 năm

ĐVT: 1000đ/kg

Giá bán/1kg

Đầu vụ

Chính vụ

Cuối vụ



Năm 2011

55

45

62



Năm 2012

Năm 2013

50

60

35

45

40

70

Nguồn: số liệu từ huyện Hương Sơn



Đồ thị 4.1 Biến động giá qua các năm 2011 – 2013

Trong khi những năm trước chỉ có khoảng từ 35.000 - 65.000 đồng/kg. Năm

2013 giá bình quân chung là 59.000 đồng/kg. Có một số hộ quy mô lớn bán được

với giá lên tận 80.000 – 120.000 nghìn đồng/kg, vì họ đã có uy tín về chất lượng,

mẫu mã đẹp, quả to cam đảm bảo nhờ đầu tư đúng cách và hợp lý. Riêng năm 2012,

do ảnh hưởng của sâu bệnh hại, Nguyên nhân dẫn đến suy giảm năng suất và sản

lượng đó cũng là do một phần nhận thức của người trồng cam, chưa biết áp dụng

các biện pháp kỹ thuật trong chăm sóc, đặc biệt sâu bệnh gây hại là nguyên nhân

chính làm giảm đi năng suất, chất lượng và chu kì kinh doanh giá cả khi bán ra của

vườn cam. Tuy nhiên, đến năm 2013. Thì sản lượng, năng suất cam Bù lại tăng lên

trông thấy, chất lượng mẫu mã của cam cũng tốt hơn, do người dân trao dồi ý thức

trồng cây đúng hướng dẫn, thường xuyên tham gia các buổi tập huấn do huyện tổ

chức, vì vậy mà giá bán cao hơn các năm trước. Trong năm qua, giá các yếu tố đầu

vào như phân đạm, thuốc BVTV đều tăng do đó chi phí đầu tư vào sản xuất cam Bù

tăng lên, kéo theo giá bán phải tăng thêm. Tuy giá bán tăng cao nhưng thu nhập của

các hộ tăng lên không cao so với thực tế.

Sau 3 năm triển khai dự án: Tạo lập, quản lý và phát triển nhãn hiệu chứng

nhận “Cam Bù Hương Sơn” cho sản phẩm cam quả huyện Hương Sơn, tỉnh Hà

Tĩnh. Nhãn hiệu chứng nhận “Cam Bù Hương Sơn” được triển khai thực hiện đang

dần khẳng định danh tiếng, tính chất, chất lượng và đặc thù của sản phẩm. Là cơ sở

để quản lý và phát triển uy tín, danh tiếng, hiệu quả của đặc sản cam Bù, góp phần

khôi phục và phát triển vùng sản xuất, giúp người dân làm giàu trên chính mảnh đất

của mình. Tóm lại, người trồng cam Bù vẫn còn gặp nhiều khó khăn trong tiêu thụ



67



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.docx) (113 trang)

×