Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (363.74 KB, 51 trang )
Báo cáo tốt nghiệp
GVHD: Hồ Sỹ Thái
quyết định chính trị và nhiều khía cạnh khác.
1.1.4 Chuẩn mực nghèo đói
Là các thước đo có thể lượng hóa để xác định người nghèo và đánh giá
mức độ nghèo khổ.
1.1.5 Hộ đói, hộ nghèo, xã nghèo
Theo thời gian thì chuẩn mực về nghèo đói cũng có sự thay đổi. Năm
1996, Bộ lao động Thương binh và xã hội đã đưa ra chuẩn mực về nghèo đói
ở Việt Nam như sau:
Hộ đói là những hộ có thu nhập bình quân đầu người một tháng quy đổi
ra gạo dưới 13kg (tương đương với 45000 đồng )
Hộ nghèo là hộ có thu nhập bình quân đầu người một tháng quy đổi ra
gạo dưới 25kg (tương đương với 90000 đồng ). Ở thành thi dưới 20kg (tương
đương với 70000 đồng ), ở vùng đồng bằng và trung du dưới 15kg (tương
đương với 55000 đồng )
Đến năm 2006, Bộ lao động Thương binh và Xã hội lại điều chỉnh
chuẩn nghèo như sau:
Vùng nông thôn thu nhập 200.000 đồng / người / tháng hay 2400000
đồng / người / năm
Vùng thành thị thu nhập 260.000 đồng / người / tháng hay 3120000
đồng / người / năm
Một xã được coi là nghèo khi có tỷ lệ hộ nghèo từ 40% trở lên, không
có 1 trong 6 công trình cơ sở cơ bản như: điện, đường giao thông, trường học,
trạm y tế, chợ….
1.2 Vấn đề nghèo đói
1.2.1 Các quan điểm tiếp cận vấn đề nghèo đói
Theo cách tiếp cận hẹp:
Nghèo đói là một phạm trù chỉ mức sống của một một cộng đồng hay
một nhóm dân cư là thấp nhất so với mức sống của một cộng đồng hay một
SVTH: Trần Thị Hương
9
Lớp: LT CTXH K2012
Báo cáo tốt nghiệp
GVHD: Hồ Sỹ Thái
nhóm dân cư khác.
Theo cách tiếp cận này về vấn đề nghèo đói chưa bao quát được tính
chất tuyệt đối của nghèo đói nghĩa là mới chỉ đánh giá theo tiêu chuẩn nghèo
đói tương đối mà trên thực tế thì lúc nào trong xã hội hiện đại cũng tồn tại
nghèo đói. Nếu đứng trên phương diện so sánh mức sống, mức thu nhập của
dân cư thì lúc nào cũng có một nhóm dân cư đứng thấp nhất, nhóm đứng cao
nhất và nhóm đứng trung bình. Đó là nghèo tương đối của từng nhóm dân cư.
Theo cách tiếp cận rộng:
Vấn đề nghèo đói được tiếp cận theo phương pháp luận cho rằng căn
nguyên sâu xa của nghèo đói là do trong xã hội có sự phân hóa giàu nghèo,
mà chính sự phân hóa đó là hệ quả của chế độ kinh tế xã hội.
Phân hóa giàu nghèo không những là hệ quả của các xã hội có giai cấp
và phân chia giai cấp mà còn thể hiện bản chất sâu xa của các xung đột xã hội
giữa lớp người giàu và lớp người nghèo; giải quyết căn bản vấn đề này chỉ có
thể trên cơ sở giải quyết căn bản vấn đề bình đẳng xã hội.
Phân hóa giàu nghèo là hiện tượng phát sinh trong quá trình thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế. bởi vậy nên không xử lý kịp thời hoặc không có cơ chế
chung duy trì sự công bằng nhất định hay hạn chế quá trình làm trầm trọng
thêm khoảng cách giữa lớp người giàu và lớp người nghèo thì nguy cơ phân
tầng xã hội, phân hóa giai cấp cũng sẽ diễn ra.
Chủ thể có đầy đủ khả năng điều hòa thu nhập giữa các nhóm dân cư là
nhà nước, tuy nhiên do bản chất Nhà nước ở các chế độ chính trị khác nhau
nên năng lực cũng như tính triệt để của các giải pháp xử lý khoảng cách giàu
nghèo có thể dựa trên cách tiếp cận rộng hay hẹp tùy theo điều kiện cụ thể của
từng quốc gia trong từng thời điểm lịch sử nhất định.
1.2.2 Mức độ nghèo đói
Có thể phân chia ra các nhóm như sau:
Nhóm thứ 1: Một số hộ nghèo muốn chủ động tìm kiếm cơ hội thoát ra
SVTH: Trần Thị Hương
10
Lớp: LT CTXH K2012
Báo cáo tốt nghiệp
GVHD: Hồ Sỹ Thái
khỏi cảnh nghèo đói. Họ tìm đến các nhóm dân tộc có trình độ sản xuất cao
hơn, giỏi làm kinh tế để học tập kinh nghiệm, tìm tòi các địa điểm, địa
phương có điều kiện để làm việc có thu nhập cao hơn. Họ mạnh dạn vay vốn
phát triển sản xuất, tìm kiếm để mở rộng sản xuất ngoài nông nghiệp và chăn
nuôi.
Nhóm thứ 2: Nhóm này ít năng động hơn,có thể khá lên thoát khỏi đói
nghèo nhờ vào các chương trình phát triển giao thông, có đường xá tốt để
giao lưu buôn bán trao đổi hàng hóa và nhờ vào được hướng các dự án kinh
tế, văn hóa, xã hội.Nhưng nhóm này tỏ ra kém năng động hơn nhóm thứ nhất
và cũng dễ bị đẩy xuống diện đói nghèo nếu các chương trình, dự án trên địa
bàn kết thúc. Chúng ta thường gọi đó là nhóm thiếu bền vững.
Nhóm thứ 3: Đây là nhóm chiếm đa số những người không hoặc rất ít
khả năng tham gia vào các hoạt động của nền kinh tế thị trường đang ngày
càng phát triển. Họ chỉ biết trông chờ vào ruộng nương để hy vọng có lương
thực khá lớn, thậm chí ngay cả trong điều kiện thuận lợi về giao thông, chợ,
tín dụng ưu đãi mà họ vẫn không dám nghĩ ra hoặc không dám mạnh dạn tìm
cơ hội thay đổi cuộc sống.
1.3 Chuẩn nghèo trên thế giới
Chuẩn nghèo của thế giới hiện nay là thu nhập bình quân 1,25
USD/người/ngày (tương đương 600000đồng/người/tháng).Chuẩn nghèo của
Châu Á là 1,35 USD/người/ngày (650000đồng/người/tháng). Theo tính toán
của ngân hàng thế giới hiện có trên 1,4 tỷ người (hơn 20% dân số thế giới )
sống ở mức nghèo khổ.
Theo số liệu của ngân hàng thế giới thì trong năm 2001 trên toàn thế
giới có 1,1 tỷ người (tương ứng 21% dân số thế giới) ít hơn 1 đôla Mỹ tính
theo sức mua địa phương và vì thế được xem là rất nghèo.
Điển hình nạn nghèo tại một số nước:
Ở Áo theo số liệu của Bộ xã hội thì trong năm 2003 có hơn 1 triệu
SVTH: Trần Thị Hương
11
Lớp: LT CTXH K2012
Báo cáo tốt nghiệp
GVHD: Hồ Sỹ Thái
người Áo (13,2% dân cư) có nguy cơ nghèo.
Ở Đức theo số liệu từ (báo cáo giàu nghèo) do Chính phủ Liên bang
đưa ra trong tháng 3 năm 2005 thì có 13,5% dân số nghèo.
Ở Mỹ theo số liệu báo cáo từ cục điều tra dân số tháng 8 năm 2005 có
12,7% dân số hoặc 37 triệu người nghèo.
1.4 Chuẩn nghèo tại Việt Nam
Đối với Việt Nam, Chính phủ đã 4 lần nâng mức chuẩn nghèo trong
thời gian từ năm 1993 đến năm 2005 Theo quyết định số 143/2001/QĐ – Tg
của Thủ tướng Chính phủ ngày 27 tháng 9 năm 2001, trong đó phê duyệt “
Chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói giảm nghèo giai đoạn 2001 – 2005”
thì những hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người ở khu vực nông thôn,
miền núi và hải đảo từ 80000đ/người/tháng (960000đ/người/năm) trở xuống
là hộ nghèo, ở khu vực nông thôn, đồng bằng những gia đình có thu nhập từ
100000đ/người/tháng (1200000đ/người/năm) trở xuống là hộ nghèo, ở khu
vực thành thị những hộ có thu nhập bình quân đầu người từ
150000đ/người/tháng (1800000đ/người/năm) trở xuống là hộ nghèo.
Theo quyết định số 170/2005/QĐ – Tg của Thủ tướng Chính phủ ngày
8/7/2005 về việc ban hành chuẩn nghèo, áp dụng cho giai đoạn 2006 – 2010
thì ở khu vực nông thôn những hộ có mức thu nhập bình quân
200000đ/người/tháng (2400000đ/người/năm)trở xuống là hộ nghèo, ở khu
vực thành thị những hộ có thu nhập bình quân từ 2600000đ/người/tháng
(3120000đ/người/năm) trở xuống là hộ nghèo.
Tiêu chuẩn nghèo tại thành phố Hồ Chí Minh năm 2004 là thu nhập
bình quân đầu người dưới 330000đ/người/tháng hoặc 400000đ/người/năm
(tương ướng 284 USD/năm thấp hơn tiêu chuẩn 360000USSD/năm của quốc
tế.
Nếu tính chuẩn nghèo mới, dự báo tỷ lệ hộ nghèo của Việt Nam đến
cuối năm 2008 từ 13,08% (2007) tăng lên khoảng 16 – 17% tương ứng với
SVTH: Trần Thị Hương
12
Lớp: LT CTXH K2012
Báo cáo tốt nghiệp
GVHD: Hồ Sỹ Thái
3,1 – 3,3 triệu hộ nghèo.
Như vậy, chuẩn nghèo mới của Việt Nam (theo đề nghị của Bộ LĐ-TB
&XH) vẫn còn quá thấp so với thực tế. Với thu nhập 390000đ/người/tháng ở
thành thị (tức 13000đ/người/ngày) chỉ đủ để một người ăn một bữa sáng với
giá bình dân, còn tất cả các khản chi tiêu khác (2 bữa ăn chính, mặc, ở, đi lại,
học hành, khám chữa bệnh, giao tiếp…) đều không thể xoay sở được.
1.5 Các nghị định, chương trình, chính sách của nhà nước về xóa đói
giảm nghèo
Thời kỳ đổi mới 1975 – 1986, do hoàn cảnh chiến tranh và khắc phục
hậu quả sau chiến tranh đồng thời do chủ quan nóng vội trong việc đề ra
đường lối xây dựng và phát triển kinh tế. Mặt khác, ảnh hưởng của chế độ bao
cấp, nền kinh tế đất nước lúc này gặpnhiều khó khăn. Vì vậy,Đảng và Nhà
nước giải quyết đói nghèo cho nhân dân dân chủ yếu là cứu tế, chưa giải
quyết tận gốc những nguyên nhân cơ bản nên tình trạng đói nghèo vẫn tồn tại
triền miên. Mặc dù cố gắng rất nhiều nhưng hộ đói nghèo vẫn còn nhiều.
Từ thực trạng đó thì chính sách đói nghèo là tổng thể các quan điểm, tư
tưởng, các giải pháp và công cụ mà Nhà nước sử dụng để tác động lên các
chủ thể kinh tế nhằm giải quyết vấn đề nghèo đói, thực hiện mục tiêu xóa đói
giảm nghèo để từ đó xây dựng một xã hội vững mạnh.
Nghị định 67/2007/NĐ – CP về chính sách trợ giúp các đối tượng bảo
trợ xã hội (Nghị định 67 quy định 9 đối tượng được hưởng bảo trợ xã hội thì
có tới 7 đối tượng chỉ được hưởng chính sách này với điều kiện thuộc diện hộ
nghèo. Do vậy nhiều người đang được hưởng chế độ bảo trợ xã hội trước đây
không trong diện nghèo bị bắt diện nghèo. Trong khi đó với mức chuẩn quá
thấp 200.000đ/người/tháng ở khu vực nông thôn, nhiều hộ thực sự khó khăn
nhưng nếu thu nhập cả gia đình hơn chuẩn này dù chỉ 20 – 30 nghìn đồng vẫn
không được xếp vào diện nghèo.
Nghị định 13 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị đinh
SVTH: Trần Thị Hương
13
Lớp: LT CTXH K2012
Báo cáo tốt nghiệp
GVHD: Hồ Sỹ Thái
67/2007/NĐ =- CP về chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội. Cụ
thể về sửa đổi một số điều trong Nghị định 67 về mức trợ cấp đối với đối
tượng bảo trợ xã hội tại cộng đồng do phường, xã quản lý.
Chương trình xóa đói giảm nghèo 134,135 của Chính phủ.
Các chính sách đối với người nghèo:
1.Chính sách về y tế: Trợ giúp người nghèo trong việc chăm sóc sức
khỏe ban đầu, miễn giảm phí khám chữa bệnh bằng các hình thức như mua
thẻ BHXH, cấp thẻ/ giấy chứng nhận khám chữa bệnh miễn phí… tăng cường
mạng lưới khám chữa bệnh tại cơ sở.
2. Chính sách hỗ trợ về giáo dục: Nhằm đảm bảo cho con em tất cả các
hộ nghèo, đặc biệt là trẻ em gái có các điều kiện cần thiết cho học tập.
3. Chính sách hỗ trợ đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn, hỗ trợ các hộ
gia đình dân tộc đặc biệt khó khăn có dân số dưới 10 ngàn người nhằm ổn
định cuộc sống, hỗ trợ phát triển sản xuất, tiếp cận các phương thức sản xuất
mới thực hiện xóa đói giảm nghèo bền vững.
4. Chính sách hỗ trợ pháp lý cho người nghèo: Tạo điều kiện cho người
nghèo nắm được những ,kiến thức phổ thông về pháp luật, nhận thức đầy đủ
trách nhiệm của mình trong gia đình và xã hội.
5. Chính sách an sinh xã hội, trợ giúp các đối tượng yếu: Hỗ trợ trực
tiếp cho người bị rủi ro do thiên tai, bão lụt để ổn định cuộc sống, hỗ trợ
nhóm yếu thế (người già cô đơn không nơi nương tựa, trẻ em có hoàn cảnh
đặc biệt khó khăn, người tàn tật..) ổn định cuộc sống từng bước hòa nhập
cộng đồng.
6. Hỗ trợ người nghèo về nhà ở nhằm giảm tiểu và xóa bớt những căn
nhà ổ chuột, nhà dột nát, xiêu vẹo, nhà ở trong khu vực ô nhiễm nặng. Đối
tượng đặc biệt quan tâm là hộ nghèo ở vùng biên giới, hải đảo.
7. Hỗ trợ tư liệu, công cụ và đất sản xuất cho người nghèo: Mục tiêu
tạo điều kiện về đất ở và hỗ trợ một phần công cụ sản xuất phù hợp cho người
SVTH: Trần Thị Hương
14
Lớp: LT CTXH K2012
Báo cáo tốt nghiệp
GVHD: Hồ Sỹ Thái
nghèo ở nông thôn.
Nghèo là vấn đề của xã hội vì vậy mà các chính sách của Nhà nước đề
ra luôn ưu tiên quan tâm đến người nghèo, giải quyết nghèo luôn là trách
nhiệm đặt ra hàng đầu, chính sách là cơ sở tấn công vào nghèo đói nhằm giảm
bớt gánh nặng xã hội, hướng tới xã hội công bằng, mọi người được thể hiện
mình có cơ hội vươn lên nhiều hơn trong cuộc sống.
SVTH: Trần Thị Hương
15
Lớp: LT CTXH K2012
Báo cáo tốt nghiệp
GVHD: Hồ Sỹ Thái
Chương 2 TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CÔNG TÁC
XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO TẠI XÃ VÕ NINH, HUYỆN QUẢNG NINH,
TỈNH QUẢNG BÌNH HIỆN NAY
1.Tổng quan về địa bàn xã Võ Ninh,huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình
hiện nay
1.1 Điều kiện tự nhiên
1.1.1 Vị trí địa lý
Dọc theo đường Quốc Lộ 1A qua Quán Hàu trung tâm huyện lỵ Quảng
Ninh, là xã Võ Ninh.
Xã Võ Ninh có diện tích tự nhiên 21,66km 2 (kể cả vùng Ông Đồng).
Trong đó đất nông nghiệp 502ha (có 400ha lúa 2 vụ), 37ha đất thổ cư,10 ha
đất xây dựng, 220ha đất ao, hồ, đầm mặt nước và 1.366ha đất nông nghiệp
trên cát.
Bắc giáp Bảo Ninh, Lương Ninh, thị trấn Quán Hàu và Vĩnh Ninh.
Nam giáp Gia Ninh
Đông giáp Hải Ninh
Tây giáp Hàm Ninh, Duy Ninh
1.1.2 Khí hậu
Võ Ninh nằm vào vùng khí hậu nhiệt đới, gió mùa. Thời tiết có hai mùa
rõ rệt. Mùa khô từ tháng 4 dương lịch đến tháng 9. Mùa mưa từ tháng 10 đến
tháng 3. Nhiệt độ trung bình tháng cao nhất 29-300C, tháng thấp nhất 18190C. Có lúc nhiệt độ lên đến 390C, cá biệt đến 400C, lượng mưa bình quân
hàng năm 2.060-2070mm. Thời tiết khắc nghiệt, đang nắng hạn, bất chợt mưa
lũ đến dễ gây ngập lụt thiệt hại mùa màng và đe dọa đời sống các gia đình.
Theo kinh nghiệm dân gian: “Ông tha mà bà chẳng tha, mồng 5 tháng
9(âm lịch) mồng 3 tháng 10 (âm lịch), đó là những ngày thường có lũ lụt
trong năm.
SVTH: Trần Thị Hương
16
Lớp: LT CTXH K2012
Báo cáo tốt nghiệp
GVHD: Hồ Sỹ Thái
Lại có câu: “Làm mùa tháng năm coi trăng rằm tháng tám
Làm mùa tháng tám coi con rạm tháng tư.”
“Trăng sáng được su, trăng lu được cạn
Rạm trồi thì lụt, rạm trụt thì cạn”
Đó là kinh nghiệm xem thời tiết trong dân gian vùng 2 huyện Quảng
Ninh và Lệ Thủy để gieo cấy luồn lách thời tiết trong điều kiện thủy triều và
mưa lũ thất thường mà người nông dân phải hứng chịu một nắng hai sương để
làm ra hạt lúa củ khoai khi chưa có hệ thống thủy lợi. Nông dân Vĩ Ninh đã
vận dụng sáng tạo các kinh nghiệm đó để trồng lúa, trồng hoa màu, trồng rau
xanh phục vụ đời sống và giao lưu hàng hóa về vùng thị thành.
1.1.3 Sông ngòi
Xã Võ Ninh có hệ thống sông ngòi dày đặc, dấu tích của sông Kiến
Giang xưa, chảy từ ngã ba Mỹ Trung, thẳng về trước mặt làng Võ Xá đổ qua
cửa Tiền còn gọi là cửa Khâu. Dòng chính chảy theo chân động cát đổ xuống
sông Nhật Lệ trước mặt ấp Hữu Tiệp ở ngã ba Mỏ. Các khe nước từ động cát
chảy ra đã đưa cát về bồi lấp dần đầm lầy. Dấu vết con sông còn lại đã trở
thành ranh giới hành chính hiện nay giữa Võ Ninh với Hàm Ninh và Duy
Ninh. Phía Bắc xã là dòng sông Nhật Lệ, sông chảy từ Trần Xá về Diên
Trường theo hướng Bắc Nam lại uốn cong theo hướng Tây Đông qua Trúc
Ly, đến thôn Hà đến Hữu Thiệp lại quặt thẳng hướng Bắc. Giữa dòng sông
nổi lên hai cồn. Cồn Võ xá là cồn nổi, phía trên. Cồn Văn La là cồn rạn đá
ong, phía dưới.
1.1.4 Dân cư
Xã Võ Ninh đến năm 2000 có 8.273 người, 1800 hộ, cư trú trong cộng
đồng 7 thôn: thôn Hà Thiệp, thôn Tây, thôn Trung, thôn Tiền, thôn Thượng,
thôn Trúc Ly, thôn Hữu Hậu.
Lịch sử hình thành dân cư Võ Ninh trải qua nhiều thời kỳ và quần tụ
ngày càng đông đúc, đa dạng về họ tộc, về quá trình nhập cư trong cộng đồng
SVTH: Trần Thị Hương
17
Lớp: LT CTXH K2012