Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (363.74 KB, 51 trang )
Báo cáo tốt nghiệp
GVHD: Hồ Sỹ Thái
Lại có câu: “Làm mùa tháng năm coi trăng rằm tháng tám
Làm mùa tháng tám coi con rạm tháng tư.”
“Trăng sáng được su, trăng lu được cạn
Rạm trồi thì lụt, rạm trụt thì cạn”
Đó là kinh nghiệm xem thời tiết trong dân gian vùng 2 huyện Quảng
Ninh và Lệ Thủy để gieo cấy luồn lách thời tiết trong điều kiện thủy triều và
mưa lũ thất thường mà người nông dân phải hứng chịu một nắng hai sương để
làm ra hạt lúa củ khoai khi chưa có hệ thống thủy lợi. Nông dân Vĩ Ninh đã
vận dụng sáng tạo các kinh nghiệm đó để trồng lúa, trồng hoa màu, trồng rau
xanh phục vụ đời sống và giao lưu hàng hóa về vùng thị thành.
1.1.3 Sông ngòi
Xã Võ Ninh có hệ thống sông ngòi dày đặc, dấu tích của sông Kiến
Giang xưa, chảy từ ngã ba Mỹ Trung, thẳng về trước mặt làng Võ Xá đổ qua
cửa Tiền còn gọi là cửa Khâu. Dòng chính chảy theo chân động cát đổ xuống
sông Nhật Lệ trước mặt ấp Hữu Tiệp ở ngã ba Mỏ. Các khe nước từ động cát
chảy ra đã đưa cát về bồi lấp dần đầm lầy. Dấu vết con sông còn lại đã trở
thành ranh giới hành chính hiện nay giữa Võ Ninh với Hàm Ninh và Duy
Ninh. Phía Bắc xã là dòng sông Nhật Lệ, sông chảy từ Trần Xá về Diên
Trường theo hướng Bắc Nam lại uốn cong theo hướng Tây Đông qua Trúc
Ly, đến thôn Hà đến Hữu Thiệp lại quặt thẳng hướng Bắc. Giữa dòng sông
nổi lên hai cồn. Cồn Võ xá là cồn nổi, phía trên. Cồn Văn La là cồn rạn đá
ong, phía dưới.
1.1.4 Dân cư
Xã Võ Ninh đến năm 2000 có 8.273 người, 1800 hộ, cư trú trong cộng
đồng 7 thôn: thôn Hà Thiệp, thôn Tây, thôn Trung, thôn Tiền, thôn Thượng,
thôn Trúc Ly, thôn Hữu Hậu.
Lịch sử hình thành dân cư Võ Ninh trải qua nhiều thời kỳ và quần tụ
ngày càng đông đúc, đa dạng về họ tộc, về quá trình nhập cư trong cộng đồng
SVTH: Trần Thị Hương
17
Lớp: LT CTXH K2012
Báo cáo tốt nghiệp
GVHD: Hồ Sỹ Thái
thống nhất góp phần hun đúc truyền thống yêu nước, cách mạng, truyền
thống kiên cường, dũng cảm, thông minh, sáng tạo, chịu thương, chịu khó.
Năm 1470, cai đội Võ Thắng và ông họ Lê trong đoàn vua Lê Thánh
Tông nam chinh đã định cư ở vùng đất Võ Xá sinh cơ lập nghiệp và mở đầu
cho sự hình thành cư dân để lập làng Võ xá.
Thời kỳ chiến tranh Trinh – Nguyễn, Võ Xá là quân doanh Đạo Lưu
Đồn. Trung tâm chỉ huy đóng quân ở Tráng Tiệp. Các cơ đội quân được bố trí
trên toàn tuyến phòng thủ từ lũy Động Hồi đến lũy Trường Sa.
Năm 1672, cuộc chiến quyết liệt giữa hai tập đoàn Trịnh- Nguyễn đã
kết thúc, sông Gianh đã trở thành ranh giới Đàng Ngoài và Đàng Trong. Đạo
Lưu Đồn vẫn duy trì với vai trò Chưởng Dinh của Nguyễn Hữu Dật, Tám họ
Lê, Nguyễn, Hoàng, Phạm, Trương, Trần, Cao, Phan nối tiếp định canh định
cư, Tám phường hình thành là phường Thượng, phường Ba Dãy, phường
Tiến, Phường Trung, Phường Tây, phường Hạ, phường Hà De, phường Hiệu.
Phường Ba Dãy sau nhập phường Thượng thành thôn Thượng. Phường Hà De
nhập với phường Hạ thành thôn Hà. Năm 1705, dựng đình Võ Xá trên đất
phường Tây giáp phường Trung(nay ở hội trường UBND xã)
1.1.5 Văn hóa
1.1.5.1 Phong tục tập quán tế lễ, hội hè, cưới hỏi, ma chay
Các làng thuộc xã Võ Ninh vốn có truyền thống văn hóa lâu đời. Các
làng xã Võ Ninh có truyền thống ăn ở nề nếp. Thôn xóm dẫu giữa vùng đầm
lầy nhưng nhà cửa ngay ngắn, thẳng dọc, đường thôn ngõ xóm quy cũ, sạch
đẹp tạo đường nét văn minh.
Đời sống văn hóa các thôn của xã Võ Ninh phong phú, đa dạng và
mang đậm bản chất của một vùng quê. Phong tục tập quán thờ cúng tế lễ, hội
hè, tang đám,ma chay, cưới xin, ứng xử, giao tiếp, sinh hoạt, văn hóa dân gian
ở Võ Ninh có nhiều nét đẹp tác động đời sống tinh thần của nhân dân trong xã
cũng như nhân dân các xã lân cận . Xã Võ Ninh có 4 làng, mỗi làng có lịch sử
SVTH: Trần Thị Hương
18
Lớp: LT CTXH K2012
Báo cáo tốt nghiệp
GVHD: Hồ Sỹ Thái
hình thành và điều kiện canh tác khác nhau, nhưng phong tục có nhiều nét gần
nhau, có sự giao thoa thẩm thấu vào đời sống tinh thần của nhân dân trong xã.
Tế lễ là một tín ngưỡng thờ tâm linh mang tính cộng đồng, nhằm bày tỏ lòng
tri ân và cầu mong điều tốt lành cho nhân dân.
1.1.5.2 Phong tục sinh hoạt
Ở vào vùng đất chật người đông, dễ ngập úng, người dân Võ Ninh xưa
vốn có truyền thống cần cù chăm làm ăn. Đồng đất cát vừa cuốc sâu để cắt
đứt rễ cỏ, phải ngâm mình lấy rông về bồi đắp chất dinh dưỡng cho đất. Làm
ra hạt lúa, củ khoai, nuôi được con lợn, con gà thật là vất vả. Vì trọng công
lao nên hầu như ai cũng rất tiết kiệm trong chi tiêu, ăn uống dè xẻn. Mắm cái,
vại dưa môn là thường kỳ. Củ to, quả ngon ra chợ, cá lớn, tôm ngon bưng
bán, chắt chiu đồng tiền bát gạo. Bữa ăn con tép, con đam, mắm cái, dưa môn,
nhưng lúc giỗ chạp rất thích bày biện các thức, các vị lại trổ tài làm bánh trái,
khi khách đến cả nhà cùng vui, và cùng chăm lo cho khách với ý thức “ Nhịn
miệng đãi khách” nên “Khách đến nhà không gà thì vịt”
1.1.5.3 Văn hóa văn nghệ dân gian
Người Võ Ninh rất yêu ca nhạc. Xưa có phường chăn tằm dệt lụa, đêm
trăng thanh hát hò đối đáp. Thịnh hành là hò khoan giã gạo. Những cối giã
thâu đêm, những nhịp chày khắc giã cắt cụp đều đặn. Chày đôi, chày ba, chày
tư, chày vồ, chày tay. Trong môi trường diễn xướng theo động tác lao động
những lời ca đối đáp ra đời. Nhịp chày giã gạo cầm canh cho nhịp hò khoan
đối đáp.Có khi vì say sưa giã gạo người ta đưa trấu về giã thâu đêm.
Sinh hoạt văn hóa dân gian còn có các trò chơi đu, bơi lội, ném cù,
đánh đáo, đánh khăng, đánh chuyền, đánh bi, thổi cút cút, chọi rế rế, thả diều,
đi cầu về quán, đánh giặc chỉ, u mọi, bịt mắt bắt dê, cướp cờ, đi khà kheo...
Từ trong sinh hoạt dân gian đó, đạo lý sống đẹp, sống cao thượng dần
dần vun đắp nên phẩm chất con người Võ Ninh.
Dân trí nâng cao, nhân lực được đào tạo ngày càng cao, nhân tài đang
SVTH: Trần Thị Hương
19
Lớp: LT CTXH K2012
Báo cáo tốt nghiệp
GVHD: Hồ Sỹ Thái
được bồi đắp, đó là nguồn lực mới để Võ Ninh bước vào thời kỳ mới, thời kỳ
cùng cả nước bước vào công nghiệp hóa hiện đại hóa.
1.1.6 Kinh tế
- Từ khi bước vào công cuộc đổi mới kinh tế đến nay, nền kinh tế - xã
hội của huyện đã có bước tăng trưởng kinh tế đáng kể, xã đã tập trung huy
động nhiều nguồn lực để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, đặc biệt là hệ thống
giao thông, thủy lợi và mạng lưới phục vụ sản xuất sinh hoạt.
Xã Võ Ninh nằm phía Nam của huyện Quảng Ninh có diện tích đất tự
nhiên là 2.172,86ha. Thu nhập kinh tế hàng năm chủ yếu dựa vào diện tích đất
nông nghiệp cây lúa và hoa màu ngắn ngày, sản xuất còn phụ thuộc vào thời
tiết, điều kiện đất đai.
Có nhiều ngành nghề truyền thống. Chẳng hạn như Võ Xá có ngề thợ
nề, Trúc Ly có nghề chạm trỗ nổi tiếng tinh xảo. Trước cách mạng tháng
Tám, các nơi trong phủ, trong tỉnh xây dựng đền thờ, miếu vũ, đình chùa đều
thường tìm rước thợ nề Võ Xá, thợ chạm Trúc Ly.
Rượu Võ Xá, một đặc sản nổi tiếng với kỹ thuật ủ men, kỹ thuật chưng
cất và nước Võ Xá trong mát nên rượu Võ Xá trong vắt, thơm nồng, có vị ngọt,
cay.
Võ Xá từ lâu đời đã nổi tiếng là làng nghề trồng dâu nuôi tằm, ươm tơ
dệt lụa. Sách Đại Nam nhất thống chí chép về các làng xã chăn tằm dệt lụa có
ghi: “Các huyện đều có, duy lụa Võ Xá huyện Phong Lộc là tốt hơn cả.
1.1.7 Hệ thống chính trị và tổ chức bộ máy xã Võ Ninh, huyện Quảng
Ninh, tỉnh Quảng Bình hiện nay
1.1.7.1 Hệ thống chính trị xã Võ Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng
Bình hiện nay
Hệ thống chính trị cấp xã gọi là cấp cơ sở. Tổ chức trong hệ thống
chính trị bao gồm: Đảng bộ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam xã, các đoàn thể chính trị xã hội, các tổ chức chính trị xã
SVTH: Trần Thị Hương
20
Lớp: LT CTXH K2012
Báo cáo tốt nghiệp
GVHD: Hồ Sỹ Thái
hội nghề nghiệp, gồm Đoàn thanh niên và Hội Liên Hiệp thanh niên, Hội Liên
Hiệp Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh, Hội chữ thập đỏ, Hội
khuyến học…
Tính đến tháng 10 năm 2006 toàn Đảng bộ xã Võ Ninh có 468 Đảng
Viên, có 03 Đảng bộ bộ phận thôn,trong đó: Đảng bộ phận thôn Thượng có 3
chi bộ, thôn Tây 4 chi bộ, thôn Hà Tiệp 6 chi bộ; 4 chi bộ thôn, 4 chi bộ nhà
trường trực thuộc Đảng bộ. Tổng số là 21 chi bộ.
Từ năm 1986 Đảng ủy Võ Ninh có 15 ủy viên, có ban thường vụ Đảng
ủy 05 đồng chí, trong đó có 1 bí thư kiêm chủ tịch Hội đồng nhân dân xã, Phó
bí thư, Chủ tịch ủy ban nhân dân xã và 01 Ủy viên Thường vụ phụ trách trực
Đảng, 01 Ủy viên thường vụ - Phó chủ tịch phụ trách công an, 01 Ủy viên
thường vụ là Chủ tịch Ủy ban mặt trận tổ quốc Việt Nam xã; 5 năm 2 nhiệm
kỳ; đến 1996 theo Điều lệ Đại hội VIII của Đảng nhiệm kỳ 5 năm.
Chính quyền cơ sở là chính quyền xã, bao gồm Hội đồng nhân dân là
cơ quan đại diện quyền lực của nhân dân ở cơ sở và Ủy ban nhân dân là cơ
quan thực hiện nhiệm vụ cụ thể hóa nghị quyết đại hội Đảng bộ, nghị quyết
của hội đồng nhân dân qua các kỳ họp và nghị quyết Đảng ủy thường kỳ để
điều hành thực hiện trong thực tiễn.
SVTH: Trần Thị Hương
21
Lớp: LT CTXH K2012
Báo cáo tốt nghiệp
GVHD: Hồ Sỹ Thái
1.1.7.2 Tổ chức bộ máy UBND xã Võ Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh
Quảng Bình hiện nay
Bí thư Đảng ủy
Chủ tịch Hội đồng nhân dân
Phó Chủ tịch Hội đồng
nhân dân
Chủ tịch
Phó chủ tịch UBND
phụ trách kinh tế
Công
an
Xã đội
Văn
hóa
xã
hội
Phó chủ tịch UBND
phụ trách văn hóa xã hội
Văn
phòng
Tư
pháp
hộ
tịch
Kế
toán
tài
chính
Địa
chính
xây
dựng
Mặt trận các
đoàn thể chính
trị
SVTH: Trần Thị Hương
22
Lớp: LT CTXH K2012
Báo cáo tốt nghiệp
GVHD: Hồ Sỹ Thái
2. Tình hình thực hiện công tác xóa đói giảm nghèo ở xã Võ Ninh, huyện
Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình trong thời gian vừa qua
Mục tiêu đã đạt được là đến nay tất cả các thôn trong xã đều không còn
hộ đói tỷ lệ hộ nghèo giảm đáng kể . Tuy nhiên khoảng cách giàu nghèo trong
xã vẫn còn cao người giàu giàu thêm mà người nghèo thì nghèo đi.
Kết quả đạt được như trên là một kết quả tổng hợp của chương trình
xóa đói giảm nghèo nhất là cuối năm 2010 so với năm 2006 đã có 280 hộ
thoát khỏi danh sách nghèo, nhìn chung tỷ lệ hộ nghèo của xã năm sau sẽ
giảm hơn năm trước. Các vấn đề an sinh cho người nghèo cũng được giải
quyết tốt.
2.1 Giáo dục
Thực hiện nghị quyết HĐND xã đã ban hành chủ trương hỗ trợ miễn
giảm các khoản đóng góp xây dựng cho học sinh thuộc diện hộ nghèo đang
học các trường thuộc khối giáo dục nhằm tạo điều kiện cho các hộ có con em
đang theo học an tâm học tập tốt. Số tiền hỗ trợ qua hàng năm miễn giảm xây
dựng lên đến 32 triệu đồng, ngoài ra Hội khuyến học từ thôn đến xã , các
đoàn thể khác hỗ trợ sách vở cho học sinh hộ nghèo.
2.2 Y tế
Quan niệm y tế và giáo dục thuộc phạm trù dịch vụ xã hội là quan niệm
của chuẩn mực và giá trị hiện đại. Khuôn mẫu truyền thống, đặc biệt là cổ
truyền được bắt đầu từ giáo dục. Mỗi nhà tự lo giáo dục con cái và cũng tự
lo chăm sóc sức khỏe. Nhiều bài thuốc gia truyền không lan tỏa thàh dịch vụ
cộng đồng,chưa nói đến mức độ rộng lớn như vùng miền, quốc gia…dịch vụ
y tế cộng đồng, sự chăm sóc sức khỏe cộng đồng là khuôn mẫu mỡ rộng y tế.
Ngày nay ở các vùng nông thôn trong cả nước nói chung cũng như xã
Võ Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình nói riêng vẫn tồn tại những
ông thầy lang,bà đỡ vườn…đó là các nhân vật chuyên môn hóa chức năng y
tế, chăm sóc sức khỏe cộng đồng làng xã.
SVTH: Trần Thị Hương
23
Lớp: LT CTXH K2012
Báo cáo tốt nghiệp
GVHD: Hồ Sỹ Thái
Dịch vụ xã hội thưc sự bắt đầu khi hình thành các trung tâm y tế: các
trạm xá xã và các bệnh viện huyện, phòng y tế huyện. Đó là hệ thống y tế Nhà
nước tại các địa phương. Trong cơ chế thị trường xuất hiện thêm y tế tư nhân
sự liên kết giữa Nhà nước và tư nhân tạo thành nhưng trung tâm tư nhân hóa
hoặc quốc doanh hóa. Có nhiều chỉ báo so sánh các khuôn mẫu truyền thống
và hiện đại. Trước hết là về cơ cấu tổ chức, y tế truyền thống thông thường là
phi chính thức, hoạt động không có kế hoạch, không có chế độ lương
bổng….trái lại, y tế hiện đại có thể chính thức , cán bộ chuyên trách ăn lương
, hoạt động có kế hoạch rõ ràng. Cơ sở vật chất kỷ thuật khác nhau cũng rất rõ
nét, y tế hiện đại có nhà xây kiên cố, giường bệnh, trang thiết bị phòng, chửa
bệnh được cơ khí hóa, tinh vi, chính xác: Y tế truyền thống không có các cơ
sở vật chất- kỷ thuật chuyên dụng cao cấp. Trình độ chuyên môn khác hẳn
thầy lang, bà đỡ vườn…hoạt động dựa vào kinh nghiệm gia truyền và kinh
nghiệm tự có, bác sĩ, y sĩ, y tá ngày nay được đào tạo chuyên nghiệp theo tiêu
chuẩn quốc gia và quốc tế.
Thành tích tăng tuổi thọ, giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh khắc phục các
bệnh phổ biến như lao, sốt rét…chứng tỏ y tế hiện đaị có hiệu quả hơn hẳn so
với y tế truyền thống. Khuôn mẫu Đông-Tây y kết hợp là khuôn mẫu thích
hợp đối với dịch vụ y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân: bởi vì nói vừa cho
phép khắc phục nhược điểm của Đông y và Tây y nếu sử dụng riêng biệt, lại
vừa tăng cường chất lượng và hiệu quả dịch vụ y tế và chăm sóc sức khỏe.
Ngay trong các bài thuốc truyền thống ở nông thôn nước ta việc kết hợp
thuốc nam với thuốc bắc đua lại chất lượng hiệu quả cao hơn là sử dụng riêng
rẽ. Vấn đề chỉ còn là ở chỗ kết hợp đúng các vị thuốc và liều lượng hợp lý .
Ngày nay chuẩn hợp lý không chỉ dựa vào kinh nghiệm mà căn bản hơn là
dựa trên cơ sở nghiên cứu khoa học có khả năng đưa lại hiệu quả chính xác ,
tin cậy hơn.
SVTH: Trần Thị Hương
24
Lớp: LT CTXH K2012