1. Trang chủ >
  2. Luận Văn - Báo Cáo >
  3. Kinh tế - Thương mại >

Những vấn đề lý luận chung về mối quan hệ giữa nguồn vốn đầu tư trong nước và nước ngoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (458.42 KB, 62 trang )


Nguồn vốn đầu tư trong nước là phần tích lũy của nội bộ kinh tế bao gồm tiết kiệm

của khu vực dân cư, các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp, tiết kiệm của chính phủ đươc

huy động vào quá trình tái sản xuất của xã hội.

2.1.1 Nguồn vốn nhà nước

Nguồn vốn đầu tư nhà nước bao gồm nguồn vốn của ngân sách nhà nước, nguồn

vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước và nguồn vốn đầu tư phát triển của doanh

nghiệp nhà nước.

• Nguồn vốn ngân sách nhà nước : Đây chính là nguồn chi của ngân sách nhà nước

cho đầu tư. Nguồn vốn này thường được sử dụng cho các dự án kết cấu kinh tế - xã hội,

quốc phòng- an ninh, hỗ trợ cho các dự án của doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực cần sự

tham gia của nhà nước. Chi cho các công tác lập và thực hiện các quy hoạch tổng thể phát

triển kinh tế- xã hội vùng, lãnh thổ, quy hoạch xây dựng đô thị và nông thôn.

• Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước : Vốn tín dụng đầu tư phát triển

của nhà nước là một hình thức quá độ chuyền từ phương thức cấp phát vốn ngân sách sang

phương thức tín dụng đối với các dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp. Thông qua

nguồn vốn tín dụng, nhà nước khuyến khích phát triển kinh tế xã hội của ngành, vùng, lĩnh

vực theo định hướng, chiến lược của mình.

• Nguồn vốn đầu tư từ doanh nghiệp nhà nước: Nguồn vốn này chủ yếu bao gồm từ

khấu hao tài sản cố định và thu nhập giữ lại tại doanh nghiệp nhà nước, thông thường

chiếm từ 14-15% tổng vốn đầu tư xã hội.

2.1.2 Nguồn vốn của dân cư và tư nhân

Nguồn vốn của khu vực tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân cư, phần tích lũy

của các doanh nghiệp dân doanh, các hợp tác xã. Đầu tư của các doanh nghiệp và các hộ

gia đình có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn,

mở mang ngành nghề, phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp,…Vốn của dân cư phụ

thuộc vào thu nhập và chi tiêu của các hộ gia đình. Quy mô của các nguồn tiết kiệm này

phụ thuộc vào :

-



Trình độ phát triển của đất nước (các nước có trình độ phát triển thấp thì thu nhập



thấp, quy mô và tỉ lệ tiết kiệm cũng thấp).

-



Tập quán tiêu dùng của dân cư.

5



-



Chính sách động viên của nhà nước thông qua chính sách thuế thu nhập và các



khoản đóng góp với xã hội.

2.1.3Thị trường vốn

Thị trường vốn là một phần của thị trường tài chính, có ý nghĩa rất quan trọng trong

sự nghiệp phát triển kinh tế của các nước có nền kinh tế thị trường. Nó là kênh bổ sung các

nguồn vốn trung và dài hạn cho các chủ đầu tư - bao gồm cả nhà nước và các loại hình

doanh nghiệp. Thị trường vốn mà cốt lõi là thị trường chứng khoán đã huy động nguồn tiết

kiệm của các hộ dân cư, thu hút mọi nguồn vốn nhàn rỗi của các doanh nghiệp, các tổ chức

tài chính, chính phủ tạo thành nguồn lực tài chính cho nền kinh tế.

2.1.4 Nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại trong nước.

Các Ngân hàng thương mại với nghiệp vụ kinh doanh mang tính đặc thù của mình

vô hình chung đã thực hiện chức năng tạo tiền cho nền kinh tế. Thông qua chức năng trung

gian tín dụng, ngân hàng trở thành cầu nối giữa những người dân có tiền và những doanh

nghiệp đang thiếu vốn đầu tư. Từ đó, bằng việc huy động vốn và cho vay lại, các Ngân

hàng thương mại đã phần nào giải quyết được một phần nhu cầu về vốn đầu tư của xã hội.

2.2 Nguồn vốn nước ngoài

Nguồn vốn đầu tư nước ngoài bao gồm phần tích lũy của cá nhân, các doanh

nghiệp, các tổ chức kinh tế và chính phủ nước ngoài có thể huy động vào quá trình đầu tư

phát triển của nước sở tại.

Có thể xem xét nguồn vốn đầu tư nước ngoài trên phạm vi rộng hơn đó là dòng lưu

chuyển vốn quốc tế. Về thực chất, các dòng lưu chuyển vốn quốc tế là biểu hiện cụ thể quá

trình chuyển giao nguồn lực chính giữa các nước trên thế giới. Theo tính chất của dòng

luân chuyển vốn, có thể phân loại các nguồn vốn nước ngoài chính thức như sau:

- Tài trợ phát triển chính thức (ODF-official development finance). Nguồn này bao

gồm: Viện trợ phát triển chính thức (ODA- official development asistance) và các hình

thức viện trợ khác, trong đó ODA chiếm tỷ trọng chủ yếu trong nguồn ODF.

- Nguồn tín dụng từ các ngân hàng thương mại.

- Đầu tư trực tiếp nước ngoài.

- Nguồn huy động qua thị trường vốn quốc tế

2.2.1 Nguồn vốn ODA

6



Đây là nguồn vốn phát triển do các tổ chức quốc tế và các chính phủ nước ngoài

cung cấp với mục tiêu trợ giúp các nước đang phát triển. So với các hình thức tài trợ khác,

ODA mang tính ưu đãi cao hơn bất cứ nguồn vốn ODF nào khác. Ngoài các điều kiện ưu

đãi về lãi suất, thời hạn cho vay tương đối lớn, bao giờ trong ODA cũng có yếu tố không

hoàn lại (còn gọi là thành tố hỗ trợ ) đạt ít nhất 25%.

Mặc dù có tính ưu đãi cao, song sự ưu đãi cho loại vốn này thường đi kèm các điều

kiện và ràng buộc tương đối khắt khe (tính hiệu quả của dự án, thủ tục chuyển giao vốn và

thị trường), và là nguồn vốn vay có khả năng gây nợ. Vì vậy, chính phủ các nước cần cân

nhắc và sử dụng nguồn vốn hiệu quả.

2.2.2 Nguồn vốn đầu tư trực tiếp (FDI) :

Đây là nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển không chỉ đối với các nước

nghèo mà đối với cả các nước công nghiệp phát triển. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài có đặc

điểm khác với các nguồn vốn khác là khi tiếp nhận nguồn vốn này không phát sinh nợ cho

nước nhận đầu tư. Thay vì nhận lãi trên vốn đầu tư, nhà đầu tư sẽ nhận được phần lợi

nhuận thích đáng khi dự án hoạt động có hiệu quả. Đầu tư nước ngoài đem theo toàn bộ tài

nguyên kinh doanh vào nước nhận vốn nên có thể thúc đẩy phát triển ngành nghề mới, đặc

biệt là những ngành nghề đòi hỏi cao về kỹ thuật, công nghệ hay nhiều vốn. Vì thế, nguồn

vốn này có tác dụng cực kỳ to lớn đối với quá trình công nghiệp hóa, chuyển dịch cơ cấu

kinh tế và tăng trưởng nhanh của nước tiếp nhận đầu tư.

2.2.3 Nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại quốc tế

Điều kiện ưu đãi dành cho loại vốn này không dễ dàng như đối với nguồn vốn ODA

nhưng có ưu điểm là không gắn với các điều kiện ràng buộc về chính trị, xã hội. Mặc dù

vậy, thủ tục vay đối với các nguồn vốn này thường tương đối khắc khe, thời gian trả nợ

nghiêm ngặt, mức lãi suất cao là những trở ngại không nhỏ đối với các nước nghèo.

Do được đánh giá là mức lãi suất tương đối cao cũng như sự thận trọng trong kinh

doanh ngân hàng (tính rủi ro của nước đi vay, của thị trường thế giới và xu hướng lãi suất

quốc tế ), nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại thường được sử dụng chủ yếu

để đáp ứng nhu cầu xuất khẩu và thường là ngắn hạn. Một bộ phận của nguồn vốn này có

thể được dùng để đầu tư phát triển,, tỷ trọng của vốn có thể gia tăng nếu triển vọng tăng

7



trưởng của nền kinh tế là lâu dài dài đặc biệt là tăng trưởng xuất khẩu của nước đi vay là

sáng sủa.

2.2.4 Thị trường vốn quốc tế

Với xu hướng toàn cầu hóa, mối liên kết ngày càng tăng của các thị trường vốn

quốc gia vào hệ thống tài chính quốc tế đã tạo nên vẻ đa dạng về các nguồn vốn cho mỗi

quốc gia và làm tăng lượng vốn lưu chuyển trên phạm vi toàn cầu.

Thị trường vốn quốc tế được biểu hiện bằng sự phát triển của thị trường chứng

khoán, dòng vốn đầu tư qua thị trường chứng khoán của các nước đang phát triển ngày

càng mạnh mẽ. Chính phủ của các nước đang phát triển có thể phát hành trái phiếu trên thị

trường vốn quốc tế để huy động nguồn vốn lớn, tập trung cho phát triển kinh tế.

3. Bản chất nguồn vốn đầu tư

Xét về bản chất, nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tiết kiệm hay tích lũy

mà nền kinh tế có thể huy động được để đưa vào quá trình tái sản xuất xã hội . Điều này

được cả kinh tế học cổ điển, kinh tế chính trị học Mác- Lê Nin và kinh tế học hiện đại

chứng minh.

Trong tác phẩm “của cải của các dân tộc ”(1776), Adam Smith, một đại diện điển

hình của trường phái kinh tế học cổ điển đã khẳng định “tiết kiệm là nguyên nhân trực tiếp

gia tăng vốn. Lao động tạo ra sản phẩm để tích lũy cho quá trình tiết kiệm. Nhưng dù có

tạo ra bao nhiêu chăng nữa, nhưng không có tiết kiệm thì vẫn không bao giờ tăng lên”.

Sang thế kỷ XIX, khi nghiên cứu về cân đối kinh tế, về các mối quan hệ giữa các

khu vực của nền sản xuất xã hội, về các vấn đề liên quan trực tiếp tới tích lũy, Các Mác đã

chứng minh rằng : Trong nền kinh tế với hai khu vực, khu vực I sản xuất tư liệu sản xuất,

khu vực II sản xuất tư liệu tiêu dùng. Cơ cấu tổng giá trị của từng khu vực đều bao gồm

c+v+m , trong đó c là phần tiêu hao vật chất, v+m là phần mới sáng tạo. Khi đó, điều kiện

để đảm bảo tái sản xuất mở rộng không ngừng thì nền sản xuất xã hội phải đảm bảo :

(v+m )I > cII



hay nói cách khác: (c+v+m)I > (cII + cI)



Điều đó có nghĩa là tư liệu sản xuất được tạo ra ở khu vực I không chỉ bồi hoàn tiêu

hao vật chất của nền kinh tế mà còn phải dư thừa để làm tăng quy mô tư liệu sản xuất trong



8



quá trình sản xuất tiếp theo. Đối với khu vực II, yêu cầu phải đảm bảo : c+v+m)II <

(v+m)I +(v+m)II

Có nghĩa là toàn bộ giá trị mới của cả hai khu vực phải lớn hơn giá trị tạo ra của khu

vực II. Chỉ khi điều kiện này được thỏa mãn, nền kinh tế mới có thể dành một phần thu

nhập để tái sản xuất mở rộng. Từ đó, quy mô vốn đầu tư sẽ tăng.

Như vậy, theo Mác- Lê Nin thì nguồn lực cho đầu tư tái sản xuất mở rộng chỉ có thể

đáp ứng do sự gia tăng sản xuất và tích lũy cho nền kinh tế.

Quan điểm về bản chất của nguồn vốn đầu tư tiếp tục được các nhà kinh tế học hiện

đại chứng minh. Trong tác phẩm :”lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ” của

mình, John Maynard Keynes đã chứng minh được rằng: đầu tư chính bằng phần thu nhập

không chuyển vào tiêu dùng. Đồng thời, ông cũng chỉ ra rằng tiết kiệm chính là phần dôi ra

của thu nhập so với tiêu dùng. Tức là : Thu nhập = tiêu dùng + đầu tư

Tiết kiệm = thu nhập – tiêu dùng

Từ đó suy ra : Tiết kiệm = đầu tư

Tuy nhiên, điều kiện cân bằng trên chỉ đạt được trong nền kinh tế đóng. Trong đó,

phần tiết kiệm của nền kinh tế bao gồm tiết kiệm của khu vực tư nhân và chính phủ.

Trong nền kinh tế mở, đẳng thức đầu tư bằng tiết kiệm của nền kinh tế không phải

bao giờ cũng được thiết lập. Mức chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư được thể hiện trên tài

khoản vãng lai : CA= S – I.

Như vậy, trong nền kinh tế mở, nếu nhu cầu đầu tư lớn hơn tích lũy nội bộ nền kinh

tế và tài khoản vãng lai bị thâm hut thì có thể huy đông vốn đầu tư từ nước ngoài. Khi đó,

đầu tư nước ngoài hoặc vay nợ có thể trở thành một trong những nguồn vốn đầu tư quan

trọng của nền kinh tế. Nếu tích lũy của nền kinh tế lớn hơn nhu cầu đầu tư trong nước

trong điều kiên thặng dư tài khoản vãng lai thì quốc gia đó có thể đầu tư ra nước ngoài

hoăc cho nước ngoài vay vốn nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của nền kinh tế.



9



II.



Mối quan hệ giữa nguồn vốn trong nước và vốn nước ngoài trong việc thúc

đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế



1. Sự cần thiết phải có cả nguồn vốn đầu tư trong nước và nước ngoài trong các

quốc gia đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng

1.1



Nghiên cứu về “cái vòng luẩn quẩn của các nước đang phát triển” và



những vấn đề đặt ra

Các nước đang phát triển hầu hết là các nước có nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu

hoặc đang từ nền sản xuất nhỏ tiến lên con đường công nghiệp hóa. Các đặc điểm chung có

thể thấy được ở nhóm nước này đó là:

-



Mức sống thấp.



-



Tỷ lệ tích lũy thấp.



-



Trình độ kỹ thuật sản xuất thấp.



-



Năng suất lao động thấp

Những đặc trưng trên đây chính là những trở ngại đối với sự phát triển, chúng có



liên quan chặt chẽ với nhau, tạo ra vòng luẩn quẩn của sự nghèo khổ, làm cho khoảng cách

giữa các nước phát triển và đang phát triển ngày càng gia tăng.

Sơ đồ cái vòng luẩn quẩn của sự nghèo khổ.

Thu nhập bình quân thấp → Tiết kiệm, đầu tư thấp







← Tăng trưởng chậm



Năng suất thấp



Nhà kinh tế học Samuelson đã nghiên cứu tỷ mỷ về cái vòng luẩn quẩn của các

nước đang phát triển và đưa ra học thuyết ”cái vòng luẩn quẩn và cú huých từ bên ngoài”.

Cú huých ở đây được hiểu là nguồn vốn đầu tư của nước ngoài. Với khả năng tích lũy nội

bộ thấp như vây, các nước đang phát triển không thể tự tạo chho mình nguồn vốn đầu tư

phát triển được mà phải nhờ tới nguồn vốn bên ngoài. Nguồn vốn này sẽ tăng cường nguồn

vốn đầu tư phát triển, tạo ra công ăn việc làm, cải tiến công nghệ, nâng cao năng suất lao

động, tăng thu nhập cho nước tiếp nhận. Từ đó tạo điều kiện cho nền kinh tế “cất cánh”,

thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn.

10



1.2



Sự hợp tác, phụ thuộc lẫn nhau trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi đã trở



thành xu thế tất yếu đối với mọi quốc gia

Thế giới ngày nay là một thể thống nhất trong đó các quốc gia là những đơn vị độc

lập tự chủ và phụ thuộc vào nhau về kinh tế và khoa học công nghệ. Sự phụ thuộc giữa các

quốc gia bắt nguồn từ nhiều nhân tố khách quan. Nguyên nhân là do sự phân bố không

đồng đều tài nguyên thiên nhiên giữa các quốc gia trên thế giới. Sự hợp tác giữa các quốc

gia giúp tăng khả năng đảm bảo các nguồn tài nguyên để sử dụng trong sản xuất. Đồng

thời, sự hợp tác có thể khai thác lợi thế so sánh của quốc gia, tăng cường lợi ích của đôi

bên. Trong nhiều trường hợp, đầu tư quốc tế còn nhằm giải quyết các nhiệm vụ đặc biệt

như xây dựng công trình có quy mô vượt ra ngoài phạm vi biên giới quốc gia, đòi hỏi sự

hợp tác của nhiều quốc gia.

1.3 Vai trò của vốn đầu tư trong việc thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế

1.3.1 Khái niệm tăng trưởng và phát triển

-



Tăng trưởng kinh tế thường được quan niệm là sự tăng thêm (hay gia tăng) về quy



mô, sản lượng của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định.

-



Phát triển kinh tế có thể hiểu là một quá trình lớn lên hay tăng tiến về mọi mặt của



nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Trong đó bao gồm cả sự tăng thêm về quy mô sản

lượng (tăng trưởng) và sự tiến bộ về cơ cấu kinh tế - xã hội.

1.3.2 Vai trò của vốn đầu tư trong thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế

Vốn là điều kiện hàng đầu của tăng trưởng và phát triển ở mọi quốc gia. Riêng đối

với các nước kém phát triển, để đạt được tốc độ tăng trưởng cao và ổn định cần có khối

lượng vốn rất lớn. Điều này càng được khẳng định chắc chắn khi nghiên cứu vai trò của

vốn đầu tư với phát triển kinh tế.

1.3.2.1Vai trò của nguồn vốn trong nước

-



Vốn đầu tư trong nước là nguồn vốn cơ bản, có vai trò quyết định đối với tăng



trưởng và phát triển của từng đơn vị kinh tế cũng như của cả đất nước. Do tính chất ổn

định và ít chịu biến động từ bên ngoài nên nguồn vốn trong nước là nguồn cơ bản tạo sự

tăng trưởng bền vững cho đất nước. Đồng thời vốn đầu tư trong nước là đối trọng với

nguồn vốn đầu tư nước ngoài, hạn chế được những mặt tiêu cực của nguồn vốn đầu tư

11



nước ngoài, tạo bộ khung kinh tế để có thể chống lại được những tác động của thị trường

thế giới.

-



Nguồn vốn trong nước là công cụ thúc đẩy tăng trưởng, ổn định và điều tiết kinh tế



vĩ mô. Nguồn vốn trong nước thường được ưu tiên để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh

tế - xã hội, tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nước phát triển, đồng thời

tạo điều kiện để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Thúc đẩy cơ hội đầu tư tăng trưởng kinh tế.

Vốn từ ngân sách nhà nước còn góp phần kiềm chế lạm phát, đẩy nhanh tiến trình cổ phần

hoá trong nhiều doanh nghiệp nhà nước, tạo đà cho tăng trưởng và phát triển kinh tế.

Nguồn vốn đầu tư trong nước đặc biệt là nguồn vốn dồi dào của khu vực dân cư và tư nhân

là tác động lớn nhất thúc đẩy quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước diễn ra

nhanh chóng và đồng bộ. Từ đó giải quyết những tồn tại và tình trạng sản xuất, kinh doanh

kém hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước, đang gây trở ngại cho tiến trình phát triển

kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế.

-



Nguồn vốn đầu tư trong nước đóng vai trò định hướng cho việc thay đổi cơ cấu kinh



tế, cân bằng thị trường hàng hóa, giúp cho nền kinh tế quốc gia tăng trưởng, phát triển toàn

diện, đồng đều và bền vững giữa các vùng miền. Vốn của nhà nước thường được đầu tư

vào cách lĩnh vực đòi hỏi quy mô vốn rất lớn như điện lực, dầu khí,… hay vào những

ngành có tỉ suất lợi nhuận thấp, thời gian thu hồi vốn lâu dài như các ngành xây dựng

đường, các công trình công cộng... Việc phân bổ nguồn vốn của nhà nước theo kế hoạch

cũng nhanh chóng tạo xu thế thay đổi cơ cấu kinh tế theo định hướng của nhà nước.

1.3.2.2 Vai trò của nguồn vốn đầu tư nước ngoài

-



Nguồn vốn đầu tư nước ngoài bổ sung vốn đầu tư thiếu hụt cho nền kinh tế khi mà



tích lũy nội bộ nền kinh tế còn thấp.

-



Nguồn vốn đầu tư nước ngoài tạo điều kiện nâng cao trình độ khoa học công nghệ,



góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nguồn vốn nước ngoài khi vào trong nước sẽ đem

theo các công nghệ tiên tiến, hiện đại đồng thời thực hiện chuyển giao công nghệ. Trình độ

lao động và quản lý được nâng cao, cơ cấu kinh tế của đất nước cũng thay đổi theo hướng

công nghiệp hóa- hiện đại hóa, giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp, tăng tỷ trọng ngành công

nghiệp và dịch vụ.

12



-



Nguồn vốn nước ngoài làm hình thành các loại hình doanh nghiệp mới, các phương



thức kinh doanh hiện đại tạo ra môi trường cạnh tranh, nâng cao tính cạnh tranh giữa các

thành phần kinh tế trong xã hội tạo động lực cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế.

-



Nguồn vốn đầu tư nước ngoài là nguồn cung ngoại tệ đáng kể cho cán cân thương



mại quốc tế của đất nước. Tạo điều kiện nâng cao năng lực xuất nhập khẩu, đầu tư ra nước

ngoài và trả nợ từ đó tạo đà cho tăng trưởng và phát triển.

-



Nguồn vốn đầu tư nước ngoài tạo điều kiên giúp nước nhận đầu tư tiếp cận với thị



trường quốc tế, mở rộng giao lưu quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập với thế giới và khu

vực.

2. Mối quan hệ giữa nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài

2.1 Nguồn vốn trong nước đóng vai trò quyết định trong việc thúc đẩy tăng trưởng

và phát triển kinh tế

2.1.1



Nguồn vốn trong nước mang tính ổn định và bền vững, có thể chủ động



trong việc huy động và sử dụng.

Như vậy, đầu tư trong nước là nguồn cơ bản đảm bảo cho sự tăng trưởng kinh tế

một cách liên tục, đưa đất nước đi đến sự phồn vinh chắc chắn, lâu bền. Theo kinh nghiệm

phát triển thì đây là nguồn vốn cơ bản có vai trò quyết định, chi phối mọi hoạt động đầu tư

phát triển trong nước. Trong lịch sử phát triển của các nước trên phương diện lý luận

chung, bất kỳ nước nào cũng phải sử dụng lực lượng nội bộ là chính. Sự chi việc, bổ sung

bên ngoài chỉ là tạm thời. Chỉ bằng cách sử dụng nguồn vốn đầu tư trong nước có hiệu quả

mới nâng cao được vai trò của nó và thực hiện được các mục tiêu quan trọng của quốc gia

đề ra.

Hiện nay, trong xu thế hội nhập toàn cầu, mỗi quốc gia không chỉ phát triển đơn lẻ

mà còn có sự tác động qua lại đối với các quốc gia khác. Chính vì thế, nền kinh tế của mội

quốc gia sẽ ít nhiều chịu ảnh hưởng của nền kinh tế thế giới. Trong bối cảnh đó, nếu chúng

ta phát huy được nội lực nguồn vốn trong nước thì sẽ có thể chủ động trong việc điều hành

nền kinh tế và ổn định các chính sách kinh tế.

Ngoài ra, việc tận dụng nguồn vốn trong nước cũng giúp chúng ta có được sự phát

triển bền vững. Để phát triển kinh tế có nhiều con đường khác nhau. Nhiều nước đã chọn

13



con đường đi vay và xin viện trợ nước ngoài nhằm phát triển kinh tế. Thực tế đã cho thấy

các nước này có thể đạt được mức tăng trưởng cao nhưng là tăng trưởng nóng, không bền

vững và có sự lệ thuộc vào nước cho vay bởi họ không thấy được cũng như không phát

huy được tính quyết định của nguồn vốn trong nước.

Nguồn vốn trong nước chiếm một tỉ trọng ưu thế (>50%) trong tổng vốn đầu tư toàn

xã hội. Nếu tỷ trọng này quá thấp so với vốn nước ngoài thì sẽ dẫn đến giảm khả năng

thanh toán và có thể không kiểm soát được sự thâm nhập của các tập đoàn xuyên quốc gia

gây lũng đoạn thị trường, thu hẹp thị trường của các doanh nghiệp trong nước và sản xuất

trong nước không phát triển. Các doanh nghiệp ở nước ta hiện nay vẫn chủ yếu là các

doanh nghiệp vừa và nhỏ, khả năng cạnh tranh còn hạn chế ở rất nhiều mặt, sự hỗ trợ từ

nhà nước bằng chính sách pháp luật là rất cần thiết. Chính vì vậy chúng ta phải giữ cho tỷ

trọng nguồn vốn trong nước ở mức có thể kiểm soát được hoạt động của nền kinh tế. Như

vậy, chúng ta có thể chủ động ứng phó kịp thời với các biến động của nền kinh tế, cũng

như trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam cạnh tranh trên thị trường nhất là trong

bối cảnh nước ta mới gia nhập tổ chức WTO.

2.1.2 Đóng vai trò định hướng cho dòng đầu tư nước ngoài chảy vào các

ngành, các lĩnh vực cần thiết

Nguồn vốn trong nước đóng vai trò then chốt trong việc định hướng các hoạt động

đầu tư. Mỗi nền kinh tế phát triển đều phải trải qua những giai đoạn khác nhau và không

thể áp dụng dập khuôn một chính sách cho cả quá trình phát triển. Với mỗi giai đoạnh phát

triển sẽ đặt ra những mục tiêu trọng tâm, ưu tiên cho việc phát triển những ngành kinh tế

phù hợp. Muốn xây dựng một đất nước phát triển về mọi mặt thì các ngành, các vùng của

chúng ta đều phải có một sự phát triển nhất định với một cơ cấu hợp lý. Việc đầu tư vốn

trong nước để xây dựng cơ sở hạ tầng, mạng lưới giao thông, thông tin liên lạc… vào

ngành, địa phương nào sẽ tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi, từ đó có thể thu hút các nhà

đầu tư nước ngoài. Vì vậy, việc sử dụng vốn trong nước cho những ngành nào, vùng nào

cần phải được cân nhắc kỹ lưỡng theo sự định hướng của nhà nước. Vốn nhà nước có vai

trò quan trọng trong việc tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi, nhằm đẩy mạnh hoạt động đầu

tư của mọi thành phần kinh tế theo định hướng chung của kế hoạch, chính sách và pháp

luật. Đồng thời trực tiếp tạo ra năng lực sản xuất của một số lĩnh vực quan trọng nhất của

14



nền kinh tế đảm bảo phát triển theo đúng định hướng chiến lược và quy hoạch phát triển

kinh tế xã hội.

2.1.3 Tạo cơ sở hạ tầng căn bản cho việc chủ động tiếp nhận nguồn vốn đầu tư

nước ngoài

Bất cứ một nhà đầu tư nước ngoài nào khi quyết định đầu tư ra nước ngoài đều quan

tâm đến khả năng sinh lợi của số vốn mình bỏ ra. Môi trường đầu tư bao gồm cả hệ thống

cơ sở hạ tầng và hệ thống luật pháp. Nhà đầu tư sẽ thường lựa chọn nơi có môi trường kinh

doanh tốt hơn vì họ có thể giảm bớt chi phí kinh doanh. Vì vậy, một hệ thống cơ sở hạ tầng

không tốt luôn là trở ngại đối với nhà đầu tư nước ngoài. Khi vốn nước ngoài còn đang e

ngại đầu tư vào thị trường trong nước thì vốn trong nước ( hầu hết là vốn từ ngân sách nhà

nước) phải đứng ra đầu tư vào lĩnh vực này. Trước là để tạo cơ hội cho sự phát triển kinh tế

địa phương, tạo môi trường đầu tư kinh doanh tốt cho nhà đầu tư trong nước, sau là để tạo

điều kiện thu hút vốn đầu tư của nước ngoài.

Mặt khác, nguồn vốn trong nước chính là cơ sở để thu hút vốn đầu tư nước ngoài.

Trước tiên, xét về nguồn vốn FDI: Thực tế những năm qua, dòng vốn FDI trên thế giới chủ

yếu di chuyển trong nội bộ các nước phát triển, chỉ có khoảng 25%- 30% di chuyển đến

các nước đang và chậm phát triển. Điều đó chứng tỏ tài nguyên thiên nhiên dồi dào, lao

động rẻ không phải là nhân tố hàng đầu trong thu hút FDI. Khoảng 90% dòng vốn chảy

vào một số ít quốc gia có môi trường đầu tư hấp dẫn. Vì vậy, cần quan tâm tới vấn đề sử

dụng nguồn vốn trong nước để tạo một môi trường đầu tư hấp dẫn. Muốn vậy, chúng ta

cần xây dựng được một nền tảng kinh tế - chính trị - xã hội vững chắc và ổn định, có cơ sở

hạ tầng, giao thông liên lạc tốt, đội ngũ công nhân có tay nghề, cán bộ quản lý có chuyên

môn... Đó mới là yếu tố quyết định tới việc thu hút vốn nước ngoài để phát triển kinh tế.

Và đảm nhiệm vai trò này chính là nguồn vốn trong nước.

2.1.4 Nguồn vốn trong nước là nguồn vốn đối ứng nhằm tạo cơ sở cho nguồn

vốn nước ngoài vào hoạt động có hiệu quả

Thông thường để vốn đầu tư nước ngoài phát huy được tác dụng thì cần phải có một

tỷ lệ vốn đối ứng trong nước thích hợp. Nghĩa là muốn tiếp nhận được vốn đầu tư nước

ngoài thì trong nước cũng cần có một số cơ sở hạ tầng nhất định tạo điều kiện cho vốn

nước ngoài hoạt động có hiệu quả. Trong dự án sử dụng vốn ODA những tổ chức cho vay

15



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (62 trang)

×