1. Trang chủ >
  2. Luận Văn - Báo Cáo >
  3. Kinh tế - Thương mại >

Nguồn vốn trong nước là nguồn chi trả các khoản vay nước ngoài và giảm áp lực nợ nước ngoài cho nền kinh tế.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (458.42 KB, 62 trang )


Trong những năm đầu thập niên 90 Việt Nam là một nước nợ lớn, tổng nợ cao hơn

nhiều lần so với tổng thu nhập quốc dân. Tổng nợ năm 1990 là 23,27 tỷ USD trong khi

tổng thu nhập quốc dân (GNI) là 6,06 tỷ cho thấy sự khủng hoảng về khả năng thanh toán

nợ của Việt Nam. Tuy nhiên nhờ kinh tế tăng trưởng nhanh nên từ nửa sau thập niên 90

tổng thu nhập quốc dân đã tăng lên liên tục cộng với việc giảm nợ và xóa nợ của một số

nhà tài trợ đặc biệt là Nga với những khoản nợ để lại từ thời Liên Xô cũ nên tổng nợ giảm

liên tục, đến năm 2000 tổng nợ chỉ còn 11,586 và chỉ bằng 1/3 so với tổng thu nhập. Khả

quan đối với phát triển kinh tế, Việt Nam đã nhận được nhiều khoản vay phát triển mới đặc

biệt là vốn ODA từ Nhật Bản, WB và ADB. Đến năm 2005 dù tổng nợ đã tăng lên gần 20

tỷ USD nhưng cũng chỉ bằng khoảng 40% tổng thu nhập quốc dân.

5.2 Nợ phải trả hàng năm và giá trị xuất khẩu



35000

30000



million $US



25000

20000

15000

10000

5000

0

1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005

Exports, fob

Total debt outstanding and disbursed

Debt service Mn US dollars; transactions during the year



Nguồn: Asia Development Bank 2007

Biểu 2: Nợ phải trả hàng năm và giá trị xuất khẩu

Giá trị xuất khẩu là nguồn thu ngoại tệ xuất khẩu thể hiện cho khả năng trả nợ của

một quốc gia. Thực hiện chính sách mở cửa, hội nhập với kinh tế của khu vực và thế giới,

Việt Nam là một trong những nước có độ mở cửa thương mại lớn nhất thế giới (tỉ lệ giá trị

xuất nhập khẩu/GDP là 150%). Tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam đã tăng 15 lần từ 2,4

37



tỷ USD năm 1990 lên 32,4 năm 2005 và hơn gấp đôi tổng số nợ hiện hữu. Mặc dù Việt

Nam có mức tổng nợ lớn nhưng nợ phải trả hàng năm bao gồm trả nợ gốc và trả lãi lại khá

thấp. Do phần lớn các khoản nợ là những khoản viện trợ không hoàn lại hoặc vay ưu đãi

với lãi suất thấp. Giá trị xuất khẩu cao hơn gấp nhiều lần so với số nợ phải trả hàng năm

cho thấy tính thanh khoản trong khả năng thanh toán nợ nước ngoài.

5.3 Nợ phải trả hàng năm và thu ngân sách chính phủ

Đối với những quốc gia đang phát triển, các khoản vay nước ngoài chủ yếu là vay

nợ của chính phủ hoặc do chính phủ đảm bảo. Nguyên nhân chủ yếu ở đây là khu vực tư

nhân chưa đủ uy tín để có thể vay mượn trực tiếp các nguồn vốn từ bên ngoài. Do đó khả

năng trả nợ của một quốc gia không chỉ phụ thuộc vào giá trị xuất khẩu mà còn phải căn cứ

vào nguồn thu của chính phủ.

30000



million $US



25000



20000



15000



10000



5000



0

1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005

Total revenue, Mn US dollars

Total debt outstanding and disbursed

Debt service Mn US dollars; transactions during the year



Nguồn: Asia Development Bank 2007

Biểu 3: Tổng nợ - nợ phải trả - thu ngân sách

Cùng với đà tăng trưởng kinh tế, nguồn thu của chính phủ tăng lên rất nhanh từ mức

dưới 1 tỷ USD năm 1990 đã tăng lên gần 5 tỷ năm 1995 và đến năm 2005 đạt hơn 13 tỷ

USD. Trong những năm gần đây nợ nước ngoài phải trả hàng năm dưới 10% tổng thu ngân

sách. Trong khi thu ngân sách của chính phủ ngày càng tăng cao và tỉ trọng nợ phải trả

không lớn là những điều khiện thuận lợi đảm bảo cho khả năng thanh toán nợ của chính

phủ và tạo được lòng tin cho các nhà tài trợ.

5.4 Cơ cấu về nợ ngắn hạn và dài hạn

38



Cơ cấu về tỉ lệ nợ ngắn hạn và dài hạn cho thấy khả năng ổn định của dòng vốn vay

nợ nước ngoài. Tỉ lệ vay ngắn hạn càng cao thì dòng vốn càng dễ đổi chiều và gây bất ổn

cho nền kinh tế.

Tuy có mức vay nợ nhiều nhưng cơ cấu nợ nước ngoài của Việt Nam chủ yếu là nợ

dài hạn. Tỉ lệ nợ dài hạn trên tổng nợ luôn ở mức trên dưới 90% trong khi nợ ngắn hạn trên

tổng nợ thường ở mức dưới 10%, thời điểm cao nhất cũng ở mức 14% năm 1996. Cuộc

khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997 khiến nhiều nước rơi vào khủng hoảng do các

dòng vốn chảy ra nhất là những nước vay nợ ngắn hạn cao như Thái Lan, nhưng Việt Nam

lại không bị ảnh hưởng trực tiếp một phần cũng vì tỉ lệ vay ngắn hạn thấp.

5.6 Chỉ số an toàn về nợ của Việt Nam

Căn cứ theo hệ thống chỉ số đánh giá nợ của WB đối với một quốc gia, các chỉ số

nợ của Việt Nam được thể hiện trong bảng sau:

Bảng 4: Chỉ số nợ của Việt Nam qua các năm

Chỉ số (%)

2000

42

89



2001

39

84



2002

39

80



2003

41

79



2004

41

68



2005

38

59



Mức độ

Trung bình

Yếu



năm/ xuất khẩu

Tổng nợ/thu ngân



9



8



7



4



3



3



Yếu



sách

Nợ phải trả hàng



210



186



172



161



145



143



Yếu



năm/thu ngân sách



21



17



15

7

6

7

Yếu

Nguồn: Asia Development Bank, 2007



Tổng nợ/GNI

Tổng nợ/xuất khẩu

Nợ phải trả hàng



Các chỉ số về nợ cho thấy một hệ số an toàn cao đối với tình trạng nợ của Việt Nam.

Chỉ số về tổng nợ trên tổng thu nhập quốc dân (38%) ở vào mức trung bình và đang có xu

hướng giảm từ năm 2000 tới 2005. Ngoài ra, hầu hết các chỉ số khác đều ở dưới mức có

thể gây ra khủng hoảng về nợ hoặc tính thiếu thanh khoản để trả nợ.

Kết luận: Vốn ODA có vai trò rất lớn đối với đầu tư phát triển góp phần nâng cao mức

sống cho người dân thông qua các chương trình hỗ trợ phát triển hạ tầng, xóa đói giảm

39



nghèo, y tế, giáo dục, v.v…. Nợ nước ngoài đối với Việt Nam cho tới thời điểm này chủ

yếu là vốn ODA với lãi suất thấp và thời gian cho vay dài, tỷ lệ vay thương mại là không

đáng kể. Các chỉ số an toàn về nợ nước ngoài cho thấy Việt Nam vẫn nằm trong giới hạn

an toàn và khó có khả năng xảy ra khủng hoảng về nợ giống như các nước từng vướng phải

như Mexico, Argentina hay Thái Lan.

II. Tác động của nguồn vốn nước ngoài đối với nguồn vốn trong nước

1. Thành tựu

Trong thời kỳ hiện nay, nguồn vốn nước ngoài đầu tư vào Việt Nam phải kể đến hai

nguồn chính là nguồn vốn đầu tư trực tiếp FDI và nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức

ODA. Hai nguồn vốn này hiện đang có những tác động mạnh mẽ tới nguồn vốn trong nước

trong việc thúc đẩy tăng trưởng phát triển kinh tế nước ta.

1.1 Nguồn vốn nước ngoài bổ sung cho nguồn vốn đang thiếu hụt trong nước

Trước hết phải kể đến việc tăng thu Ngân sách Nhà nước do sự đóng góp của bộ

phận các doanh nghiệp FDI và một phần viện trợ không hoàn lại nằm trong ODA. Ngân

sách Nhà nước là một bộ phận quan trọng trong tổng nguồn vốn đầu tư trong nước. Vì vậy,

việc tăng thu cho Ngân sách chính là làm tăng nguồn vốn trong nước.

Bảng 5: Tỷ lệ thu NSNN của khu vực FDI và ODA qua các năm

Đơn vị: Tỷ đồng

Năm Tổng thu



Thu từ FDI

Thu



Tỷ lệ %



Thu từ ODA

Thu

Tỷ lệ %



7276



5,87



2249



1,82



200



NSNN

123860



2

200



152274



9942



6,53



2969



1,95



3

200



190928



15109



7,91



2877



1,51



4

200



228287



19081



8,36



3789



1,66



5

200



279472



25838



9,25



7897



2,83



6

40



200



315915



31388



9,94



4256



1,35



7

200



416783



43848



10,52



7275



1,74



8

Nguồn: Tổng cuc thống kê

Đóng góp của các doanh nghiệp FDI vào thu Ngân sách Nhà nước có xu hướng tăng

dần qua các năm trở lại đây. Nguyên nhân là do, các dự án FDI đầu tư vào nước ta đang

dần bước vào giai đoạn phát triển và thu lợi nhuận. Những năm đầu, thu Ngân sách từ khu

vực này chưa cao một phần là do các dự án FDI mới được đầu tư còn đang trong giai đoạn

thực hiện đầu tư nên chưa thu được kết quả. Sau khi hoàn thành giai đoạn thực hiện đầu tư

và đưa vào giai đoạn vận hành kết quả đầu tư nên doanh thu cũng như lợi nhuận tăng, khả

năng đóng góp vào Ngân sách ngày càng tăng. Khu vực FDI đóng một vai trò quan trọng

trong thu Ngân sách. Tuy nhiên, hiện nay, do sự quản lý thiếu chặt chẽ của các cơ quan có

thẩm quyền nên, tỷ lệ thu Ngân sách từ khu vực FDI còn chưa tương xứng với số vốn FDI

đã triển khai tại Việt Nam. Cụ thể, trong 10 năm qua, tổng số vốn triển khai là 48 tỷ USD

trong khi mức bình quân trích nộp Ngân sách hàng năm là 1 tỷ USD/năm. Điều này đưa ra

hoài nghi về tình trạng chuyển giao giá xảy ra ở các doanh nghiệp FDI hiện nay làm thất

thoát nguồn thu của Ngân sách Nhà nước. Vì vậy, cần phải có các biện pháp nâng cao công

tác quản lý, tăng cường các biện pháp kiểm tra để tránh tình trạng các doanh nghiệp lợi

dụng khe hở pháp luật làm lợi không chính đáng nhằm quản lý được nguồn thu tương xứng

từ khu vực FDI cho Ngân sách.

Khó khăn lớn nhất của các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng là

sự thiếu thốn về cơ sở hạ tầng hiện đại . Tuy nhiên do nguồn vốn trong nước không đủ để

đáp ứng nhu cầu xây mới, cải thiện hệ thống cơ sở hạ tầng nên nguồn vốn nước ngoài lúc

này trở nên rất quan trọng, đặc biệt là nguồn vốn ODA. Lượng vốn ODA đầu tư vào Việt

Nam ngày càng tăng đặc biệt là từ năm 2007 trở lại đây, đã giúp nước ta cải thiện đáng kể

kết cấu hạ tầng của nền kinh tế. Năm 2007, tổng mức cam kết của các nhà tài trợ cho Việt

Nam là 4,445 tỷ USD, vượt 700 triệu USD so với năm 2006, trong đó, các nhà tài trợ song

phương cam kết viện trợ cho Việt Nam 2,164 tỷ USD, đa phương 2,101 tỷ USD và từ các

tổ chức phi chính phủ 180 triệu USD. Năm 2008, các nhà tài trợ đã cam kết khoản ODA

41



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (62 trang)

×