Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (458.42 KB, 62 trang )
chi phí trung gian trong sản xuất của ngành đó giảm đi, tỷ suất lợi nhuận trong ngành tăng
lên làm các nhà đầu tư nước ngoài mong muốn được đầu tư vào ngành đó hơn.
Trong những năm gần đây, chính phủ Việt Nam chủ trương thu hút đầu tư nước
ngoài có định hướng và có chọn lọc vào các lĩnh vực quan trọng như sản xuất vật liệu mới,
năng lượng mới; sản xuất công nghệ cao, công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, cơ khí
chế tạo. Các ngành xây dựng và phát triển giao thông, cảng biển, điện nước, xây dựng kết
cấu hạ tầng khu công nghiệp, khu đô thị, phát triển nguồn nhân lực liên quan đến giáo dục
đào tạo, y tế, thể thao… cũng là những ngành chú trọng thu hút đầu tư nước ngoài. Ngoài
ra, thu hút vốn FDI cũng ưu tiên tập trung phát triển các vùng khó khăn, khu vực nông
nghiệp và nông thôn, ưu tiên các dự án sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên, tiết kiệm
năng lượng…
Chính sách thu hút đầu tư nước ngoài có định hướng, có chọn lọc như trên đã bước
đầu mang lại hiệu quả. Dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong vài năm trở lại
đây không chỉ thay đổi về lượng mà cả về chất với sự có mặt của hàng loạt tập đoàn có tên
tuổi trong lĩnh vực công nghệ cao như Intel, Foxcon, Samsung... Theo Cục Đầu tư nước
ngoài, đến ngày 15-12-2009, đã có 839 dự án mới có vốn đầu tư nước ngoài được cấp giấy
chứng nhận đầu tư (GCNĐT) với tổng vốn đăng ký 16,34 tỷ USD; có 215 dự án đăng ký
tăng vốn với tổng vốn đăng ký tăng thêm là 5,13 tỷ USD, như vậy các nhà đầu tư nước
ngoài đã đăng ký đầu tư vào Việt Nam 21,48 tỷ USD. Đáng chú ý, số vốn thực hiện tính
đến hết tháng 11 đã đạt khoảng 9 tỷ USD, nhìn chung tiến độ triển khai phù hợp với dự
báo. Các chuyên gia cho rằng trong bối cảnh suy giảm đáng kể dòng vốn FDI tại các nước
tiếp nhận trên thế giới, con số này vào nước ta tuy có sụt giảm nhưng mức ít hơn.
Về tổng thể, cả nước hiện có gần 11.000 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký
xấp xỉ 175 tỷ USD. Các nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào 18/21 ngành kinh tế. Điểm
đáng chú ý là đến thời điểm này, công nghiệp chế biến và chế tạo vẫn là lĩnh vực thu hút
vốn FDI lớn nhất, chiếm 62,1% số dự án và 50,6% vốn đăng ký. Sau khi Luật Kinh doanh
bất động sản được ban hành, lĩnh vực bất động sản đã thu hút mạnh mẽ vốn trong hai năm
trở lại đây, trở thành lĩnh vực đứng thứ hai trong thu hút FDI với 312 dự án, tổng vốn đăng
ký 38,4 tỷ USD (chiếm tỷ trọng 22%). Tuy nhiên, tính riêng trong năm 2009, dịch vụ (lưu
trú, ăn uống) mới là lĩnh vực thu hút sự quan tâm nhiều nhất của các nhà đầu tư nước
27
ngoài; kinh doanh bất động sản đứng thứ 2 với 7,6 tỷ USD vốn đăng ký mới và tăng thêm;
lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo có quy mô vốn đăng ký lớn thứ ba với 2,97 tỷ USD.
Sở dĩ, đạt được những thành tựu trên vì Việt Nam đã xác định được chính sách thu
hút đầu tư nước ngoài đúng đắn, phù hợp với giai đoạn phát triển hiện nay của nền kinh tế.
Nguồn vốn trong nước đặc biệt là chi ngân sách nhà nước đã được sử dụng hiệu quả hơn
trong việc định hướng cho các dòng đầu tư nước ngoài đầu tư vào các lĩnh vực quan trọng
và các vùng cần thiết.
Cộng đồng quốc tế đánh giá cao về nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư của Việt Nam
với việc hoàn thiện khung pháp luật về đầu tư ngày càng phù hợp với thông lệ quốc tế, hệ
thống cơ sở hạ tầng, các khu công nghiệp, khu chế xuất cũng được cải thiện và xây dựng
thêm. Các địa phương, tỉnh, thành phố cũng triển khai thu hút, quản lý vốn FDI bằng nhiều
biện pháp tích cực như hỗ trợ, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các dự án đầu tư đã được
cấp phép nhanh chóng đi vào hoạt động. Công tác xúc tiến đầu tư cũng được triển khai
mạnh mẽ. Nhiều hội thảo, hội nghị xúc tiến đầu tư đã được tổ chức nhằm đẩy mạnh thu hút
các nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào các ngành, các vùng cần thiết.
Bảng 2: Đầu tư trực tiếp của nước ngoài được cấp giấy phép thời kỳ 1988- 2009 phân
theo ngành kinh tế
Số dự án
Vốn đăng ký
Tổng số
12575
Công nghiệp chế biến
7475
Các hoạt động liên quan đến kinh doanh tài 1867
(Triệu đô la Mỹ)
194429.5
88579.5
45505.7
sản và dịch vụ tư vấn
Khách sạn và nhà hàng
Công nghiệp khai thác mỏ
Vận tải; kho bãi và thông tin liên lạc
Xây dựng
Nông nghiệp và lâm nghiệp
HĐ văn hóa và thể thao
Sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước
Tài chính, tín dụng
Thương nghiệp; Sửa chữa xe có động cơ,
379
130
554
521
575
129
72
69
322
19402.8
10980.4
8435.3
7964.4
3837.7
2838.0
2231.4
1103.7
1041.6
mô tô, xe máy, đồ dùng cá nhân và gia đình
Y tế và hoạt động cứu trợ xã hội
73
1033.3
28
HĐ phục vụ cá nhân và cộng đồng
118
658.3
Thủy sản
163
541.4
Giáo dục và đào tạo
128
275.8
Nguồn: Tổng Cục thống kê và tổng hợp của tác giả.
Vốn đầu tư của khu vực kinh tế Nhà nước phân theo ngành kinh tế trong giai đoạn
2000 – 2009 đều tăng dần qua các năm. Trong đó, qua các năm, 5 ngành có vốn đầu tư
nhiều nhất theo thứ tự là: giao thông vận tải và thông tin liên lạc, năng lượng và nước,
công nghiệp chế biến, công nghiệp khai thác mỏ, nông nghiệp và lâm nghiệp. Qua đó,
thấy được chi ngân sách nhà nước nhằm thực hiện đẩy mạnh phát triển các ngành, các lĩnh
vực theo đúng định hướng đã đề ra, không những nhằm tạo động lực phát triển các ngành
quan trọng mà còn tạo điều kiện thu hút các nhà đầu tư đầu tư vào những ngành này thông
qua việc giảm chi phí, tăng tỷ suất lợi nhuận cho họ. Tương ứng với đó, tình hình đầu tư
trực tiếp nước ngoài vào các ngành kinh tế trong giai đoạn 1988 – 2000 cũng có xu hướng
đầu tư nhiều vào các ngành: công nghiệp chế biến, kinh doanh tài sản và dịch vụ tư vấn,
công nghiệp khai thác mỏ, vận tải và thông tin liên lạc. Đặc biệt, khách sạn và nhà hành là
lĩnh vực được khá nhiều các nhà đầu tư nước ngoài chọn để đầu tư vào Việt Nam, là lĩnh
vực đứng thứ hai về số lượng vốn đăng ký . Tuy nhiên, nông nghiệp và lâm nghiệp vẫn
chưa thực sự thu hút được nhiều sự quan tâm của các nhà đầu tư. Đây là lĩnh vực có vốn
đầu tư khá lớn từ Nhà nước nhưng số vốn đăng kí đầu tư vào lĩnh vực này của các nhà đầu
tư nước ngoài trong suốt giai đoạn 1988 – 2009 chỉ là 3837.7 triệu đô la Mỹ. Mỗi dự án có
quy mô vốn đầu tư không lớn.
Định hướng phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam là phát triển cân đối các vùng,
giảm khoảng cách chênh lệch giữa miền núi và miền xuôi, giữa nông thôn và thành thị. Vì
vậy, một phần ngân sách nhà nước đã được dùng để đầu tư hỗ trợ cho các địa phương còn
yếu kém, vùng sâu, vùng xa để thu hút đầu tư nước ngoài vào các địa phương này. Tuy
nhiên, vốn đầu tư nước ngoài vẫn tập trung chủ yếu vào các trung tâm kinh tế, các vùng
kinh tế phát triển, nhiều nhất là Đông Nam Bộ. Tây Nguyên và Trung du miền núi phía
Bắc là hai vùng kinh tế thu hút được ít nhất vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài do điều kiện cơ
sở hạ tầng yếu kém, giao thông và thông tin liên lạc khó khăn điều kiện tự nhiên khắc
nghiệt. Do vậy, nhà nước cần đầu tư hơn nữa và chiến lược phát triển đúng đắn nhằm kéo
kinh tế của các vùng này phát triển.
29
Bảng 3: Đầu tư trực tiếp của nước ngoài được cấp giấy phép thời kỳ 1988 - 2009 phân
theo địa phương
Số dự án
CẢ NƯỚC
Đông Nam Bộ
Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung
Đồng bằng sông Hồng
Đồng bằng sông Cửu Long
Dầu khí
Trung du và miền núi phía Bắc
Tây Nguyên
12575
7344
820
3230
580
66
371
164
Vốn đăng ký
(Triệu đô la Mỹ)
194429.5
89662.9
51735.6
37763.0
8150.0
3597.5
2030.3
1490.2
Nguồn: Tổng Cục thống kê
Trong quá trình thực hiện thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài vẫn còn một số bất
cập như công tác giải phóng mặt bằng đã gây rất nhiều khó khăn cho các nhà đầu tư trong
thời gian qua. Quy định hiện tại về trách nhiệm của địa phương bàn giao "đất sạch" cho
nhà đầu tư nước ngoài dẫn tới áp lực lớn về chi ngân sách khi thúc đẩy giải ngân vốn FDI.
Kết quả, nhiều dự án lớn được cấp phép nhưng chưa thể triển khai vì chưa có mặt bằng.
Theo Bộ Kế hoạch - Đầu tư, công tác xúc tiến đầu tư tại nhiều địa phương hiện chưa
chuyên nghiệp do... thiếu kinh phí (phần lớn địa phương tự chủ ngân sách dành cho hoạt
động này) trong khi từ năm 2008, Chính phủ đã quyết định chi ngân sách cho công tác xúc
tiến đầu tư, tuy nhiên việc giải ngân lại rất chậm chạp do... chưa có hướng dẫn. Một điểm
đáng chú ý khác là trong khi chúng ta cần phải dành dụm từng đồng vốn thì công tác xúc
tiến đầu tư lại thiếu thống nhất, dẫn tới tình trạng tổ chức quá nhiều hội thảo, hội nghị xúc
tiến đầu tư trên cùng một địa bàn.
3. Tạo cơ sở hạ tầng căn bản cho việc chủ động tiếp nhận nguồn vốn đầu tư nước
ngoài
Việt Nam đã thành công trong việc mở rộng tiếp cận đến các dịch vụ cơ sở hạ tầng
trong hơn 20 năm qua. Trong một báo cáo mới của Ngân hàng Thế giới, nhan đề “Việt
Nam: Những thách thức đối với cơ sở hạ tầng” đã ghi lại những thực tế đáng khen ngợi
30
trong chiến lược cơ sở hạ tầng hiện tại của Việt Nam. Trong đó, tổng đầu tư cho cơ sở hạ
tầng của Việt Nam trong những năm gần đây giữ ở mức 10% GDP, rất cao so với tiêu
chuẩn quốc tế. Chính vì vậy, mạng lưới đường bộ Việt Nam đã tăng hơn gấp đôi chiều dài
so với năm 1990 và chất lượng đường cải thiện rõ rệt.
Tuy nhiên, sự phát triển của cơ sở hạ tầng không theo kịp với sự tăng trưởng khá
mạnh mẽ và liên tục của kinh tế. Cơ sở hạ tầng bị quá tải, phát triển không đồng bộ gây lo
ngại cho các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài khi quyết định đầu tư vào Việt Nam. Đặc biệt,
hiện nay nổi cộm là tình trạng thiếu điện năng cho sản xuất, chi phí điện năng và viễn
thông đắt đỏ, chất lượng đường xá không đồng đều tại các nơi khác nhau của Việt Nam
hay tình trạng ngập lụt trên nhiều tuyến đường ảnh hưởng lớn tới việc vận chuyển hàng
hóa,…
Theo ông Preben Hjortlund, Phòng Thương mại và Công nghiệp châu Âu, mặc dù
Chính phủ Việt Nam đã có nhiều nỗ lực, ngân sách Nhà nước và vốn ODA vẫn chưa thể
đáp ứng đủ nhu cầu vốn cho phát triển cơ sở hạ tầng. Ông Preben cho rằng, phát triển hạ
tầng tại Việt Nam đang diễn ra chậm hơn so với tăng trưởng kinh tế và điều này đang là
một gánh nặng đối với các nhà đầu tư.
Đồng tình với quan điểm trên, Chủ tịch Phòng Thương mại Mỹ tại Việt Nam Jeff
Puchalski nhấn mạnh, những hạn chế về cơ sở hạ tầng vật chất ở Việt Nam đang bắt đầu đe
dọa đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực sản xuất và cả xuất khẩu trong tương lai. "Việt Nam
đã thành công trong việc phát triển năng lực sản xuất. Nhưng nếu không chú ý đến vấn đề
giao thông vận tải và các cơ sở hạ tầng khác sẽ không thể giải quyết được sự tăng trưởng
xuất khẩu trong tương lai", ông nói thêm.
Năm nay có khá nhiều công ty thuộc nhiều ngành nghề khác nhau của Nhật đầu tư
sang Việt Nam, đặc biệt trong đó có sự tham gia của nhiều nhà cung cấp cho các công ty
sản xuất lớn như ô tô, xe máy, máy móc thiết bị văn phòng... Đại diện của Hiệp hội Doanh
nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam cho biết, thời gian tới, sẽ có thêm nhiều nhà đầu tư từ xứ sở
mặt trời mọc đến với Việt Nam. Trong bình chọn của các công ty Nhật về địa điểm đầu tư
có triển vọng về trung hạn, Việt Nam đứng thứ 4 sau Trung Quốc, Ấn Độ và Thái Lan.
Tuy nhiên, hiện không ít nhà đầu tư Nhật rất lo lắng về sự yếu kém của cơ sở hạ tầng của
Việt Nam, đặc biệt là vấn đề điện năng. "Đối mặt với tình trạng thiếu điện mới xảy ra mùa
31