1. Trang chủ >
  2. Luận Văn - Báo Cáo >
  3. Kinh tế - Thương mại >

Tạo cơ sở hạ tầng căn bản cho việc chủ động tiếp nhận nguồn vốn đầu tư nước ngoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (458.42 KB, 62 trang )


trong chiến lược cơ sở hạ tầng hiện tại của Việt Nam. Trong đó, tổng đầu tư cho cơ sở hạ

tầng của Việt Nam trong những năm gần đây giữ ở mức 10% GDP, rất cao so với tiêu

chuẩn quốc tế. Chính vì vậy, mạng lưới đường bộ Việt Nam đã tăng hơn gấp đôi chiều dài

so với năm 1990 và chất lượng đường cải thiện rõ rệt.

Tuy nhiên, sự phát triển của cơ sở hạ tầng không theo kịp với sự tăng trưởng khá

mạnh mẽ và liên tục của kinh tế. Cơ sở hạ tầng bị quá tải, phát triển không đồng bộ gây lo

ngại cho các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài khi quyết định đầu tư vào Việt Nam. Đặc biệt,

hiện nay nổi cộm là tình trạng thiếu điện năng cho sản xuất, chi phí điện năng và viễn

thông đắt đỏ, chất lượng đường xá không đồng đều tại các nơi khác nhau của Việt Nam

hay tình trạng ngập lụt trên nhiều tuyến đường ảnh hưởng lớn tới việc vận chuyển hàng

hóa,…

Theo ông Preben Hjortlund, Phòng Thương mại và Công nghiệp châu Âu, mặc dù

Chính phủ Việt Nam đã có nhiều nỗ lực, ngân sách Nhà nước và vốn ODA vẫn chưa thể

đáp ứng đủ nhu cầu vốn cho phát triển cơ sở hạ tầng. Ông Preben cho rằng, phát triển hạ

tầng tại Việt Nam đang diễn ra chậm hơn so với tăng trưởng kinh tế và điều này đang là

một gánh nặng đối với các nhà đầu tư.

Đồng tình với quan điểm trên, Chủ tịch Phòng Thương mại Mỹ tại Việt Nam Jeff

Puchalski nhấn mạnh, những hạn chế về cơ sở hạ tầng vật chất ở Việt Nam đang bắt đầu đe

dọa đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực sản xuất và cả xuất khẩu trong tương lai. "Việt Nam

đã thành công trong việc phát triển năng lực sản xuất. Nhưng nếu không chú ý đến vấn đề

giao thông vận tải và các cơ sở hạ tầng khác sẽ không thể giải quyết được sự tăng trưởng

xuất khẩu trong tương lai", ông nói thêm.

Năm nay có khá nhiều công ty thuộc nhiều ngành nghề khác nhau của Nhật đầu tư

sang Việt Nam, đặc biệt trong đó có sự tham gia của nhiều nhà cung cấp cho các công ty

sản xuất lớn như ô tô, xe máy, máy móc thiết bị văn phòng... Đại diện của Hiệp hội Doanh

nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam cho biết, thời gian tới, sẽ có thêm nhiều nhà đầu tư từ xứ sở

mặt trời mọc đến với Việt Nam. Trong bình chọn của các công ty Nhật về địa điểm đầu tư

có triển vọng về trung hạn, Việt Nam đứng thứ 4 sau Trung Quốc, Ấn Độ và Thái Lan.

Tuy nhiên, hiện không ít nhà đầu tư Nhật rất lo lắng về sự yếu kém của cơ sở hạ tầng của

Việt Nam, đặc biệt là vấn đề điện năng. "Đối mặt với tình trạng thiếu điện mới xảy ra mùa

31



hè năm nay ở Hà Nội, nhiều công ty e ngại rằng từ năm sau tình trạng này sẽ tiếp tục xảy

ra", đại diện của Hiệp hội doanh nghiệp Nhật Bản cho biết.

Hiện nay, các nhà tài trợ quốc tế tài trợ gần 40% tổng đầu tư cơ sở hạ tầng. Trong 5

đến 10 năm tới, Việt Nam cần khoảng 70-80 tỷ USD để đầu tư vào cơ sở hạ tầng. Việc

phát triển cơ sở hạ tầng được coi là một trong những nhiệm vụ chính để nước ta đạt được

sức cạnh tranh hiệu quả hơn trong khu vực cũng như hội nhập sâu hơn vào chuỗi giá trị

toàn cầu. Tuy nhiên, khi Việt Nam giàu mạnh hơn, hỗ trợ từ các nhà tài trợ sẽ đóng vai trò

thứ yếu và việc tìm kiếm nguồn tài chính thay thế là rất cần thiết. Các chuyên gia của các

tổ chức quốc tế cho rằng, để giải quyết những bất cập của cơ sở hạ tầng hiện nay, sự tham

gia của khu vực tư nhân - cả trong nước và nước ngoài - đang là sự cần thiết cấp bách, đặc

biệt trong lĩnh vực điện, viễn thông và cảng nước sâu. Đến nay ở Việt Nam có khoảng 60

dự án BOT hoặc các dự án có hình thức tương tự đầu tư vào các dự án cơ sở hạ tầng với

tổng vốn đăng ký là 44.610 tỷ đồng, trong đó có 43 dự án xây dựng công trình giao thông.

Tuy nhiên, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài mới có 18 dự án đầu tư vào lĩnh vực

điện, nước và bưu chính viễn thông. Từ các số liệu này, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu

tư - Cao Viết Sinh cho rằng, mức độ đầu tư của khu vực tư nhân vào đầu tư toàn xã hội nói

chung, vào cơ sở hạ tầng nói riêng chưa tương xứng với nhu cầu và tiềm năng của khu vực

kinh tế năng động và có tiềm năng này.

Ông Joshua Magennis, Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Australia tại

Việt Nam phàn nàn, trong khi Chính phủ Việt Nam vẫn thường xuyên kêu gọi đầu tư hơn

nữa vào cơ sở hạ tầng, hệ thống pháp luật của Việt Nam quy định về các dự án phát triển

cơ sở hạ tầng chỉ được xây dựng một cách chậm chạp và việc thực hiện và mong muốn

thực sự cho phép đầu tư của tư nhân và nước ngoài vào cơ sở hạ tầng vẫn còn vắng bóng.

Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư - Võ Hồng Phúc cũng thừa nhận còn những hạn chế

về cơ sở hạ tầng của Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực điện năng. Ông cho biết, vấn đề lớn

nhất trong ngành điện lực hiện nay là nhu cầu bức xúc về nguồn vốn. Hiện Việt Nam đang

triển khai một loạt nhà máy điện, nguồn vốn trong nước cũng không đủ để đáp ứng nhu

cầu của thị trường điện và Việt Nam đã tính đến phương án cổ phần hóa để có nguồn vốn

đầu tư thêm.

32



"Một bài học nhãn tiền là trong tháng 5-6 vừa qua là thiếu điện trong sản xuất. Nếu

để đảm bảo phát triển ngành điện thì phải có sự hội tụ nguồn vốn của khu vực tư nhân cả

trong nước và nước ngoài, đặc biệt là tư nhân nước ngoài bằng các hình thức là phải bán cổ

phần với tỷ lệ cao hơn cho các nhà đầu tư trong nước đối với các dự án điện. Vấn đề thứ

hai là phải mở rộng hình thức đầu tư theo hình thức BOT, IPP (nhà máy điện độc lập) để

thu hút nhanh nguồn vốn đầu tư", ông Phúc nói.

Bộ trưởng Công nghiệp Hoàng Trung Hải cho biết, theo dự báo tốc độ tăng GDP

bình quân của Việt Nam giai đoạn 2005-2010 khoảng 7,2-8%, giai đoạn 2011-2020 là

7,09-7,5% và nhu cầu tiêu thụ điện vẫn tiếp tục tăng nhanh hơn GDP. Dự kiến, đến năm

2010, nhu cầu điện toàn quốc là 88-93 tỷ Kwh. Ông Hải cho biết, để đạt được mục tiêu đến

năm 2010 xây dựng mới các nguồn điện với tổng công suất khoảng trên 12.000 MW,

ngành điện cũng đã đề ra những biện pháp khuyến khích khu vực kinh tế tư nhân bao gồm

cả đầu tư nước ngoài vào các dự án đầu tư phát triển ngành điện.

Không chỉ lĩnh vực điện năng, lĩnh vực giao thông vận tải cũng gây ra không ít e

ngại cho các nhà đầu tư nước ngoài. Nhiều nhà đầu tư tiềm năng của Mỹ đã đưa ra các lý

do hạn chế về cơ sở hạ tầng để không đầu tư vào Việt Nam. Đó là những tồn tại thiếu hụt

trong việc phát triển cơ sở hạ tầng then chốt, đặc biệt là những con đường nối các tỉnh,

thành, kể cả các cây cầu, cũng như các con đường tiếp cận các cảng biển có vị trí chiến

lược và các cơ sở hạ tầng trên đất liền. Những hạn chế về cơ sở hạ tầng ở Việt Nam đang

đe doạ tới đầu tư trực tiếp nước ngoài. Khi mà Việt Nam vẫn dậm chân tại chỗ về vấn đề

cơ sở hạ tầng thì Việt Nam đã bị tụt hậu.

Những yếu kém về giao thông vận tải làm tăng chi phí vận chuyển cho các doanh

nghiệp vì theo các doanh nghiệp, hiện nay chi phí vận chuyển của Việt Nam tính theo %

của GDP vẫn cao hơn nhiều nước trong khu vực. Có thể thấy điều này khá rõ khi chi phí

này ở Indonesia và Malaysia là 13% GDP, ở Trung Quốc là 18%, còn ở Việt Nam là 25%

GDP.

Ông Neilsen Peter-Smidt, thành viên nhóm công tác Cảng biển của Diễn đàn Doanh

nghiệp Việt Nam nêu ý kiến: “Có rất nhiều lý do khiến chi phí vận chuyển ở Việt Nam cao

nhưng rõ ràng là cơ sở hạ tầng yếu kém làm tăng đáng kể chi phí cho các doanh nghiệp

như nạn tắc đường, thời gian chờ đợi kéo dài, thiếu minh bạch và tính dự báo trong chuỗi

33



cung ứng, phương tiện vận chuyển trên bộ đã cũ, không hiệu quả, không tuân thủ các quy

định về hạn chế trọng lượng vận tải cũng dẫn đến chi phí hoạt động cao hơn và kém an

toàn”.

Nhằm giải quyết những vướng mắc này, theo gợi ý của ông Brian O’Reilly, Phó

Chủ tịch Phòng Thương mại Australia: “Việt Nam cần chú ý đến hình thức đối tác công tư. Mô hình đối tác công tư bao gồm thành phần doanh nghiệp ngoài quốc doanh sẽ góp

phần quan trọng nâng cấp cơ sở hạ tầng ở Việt Nam. Nhằm giải quyết phần nào những vấn

đề này, cần cải thiện những thủ tục hành chính, đặc biệt là trong các dự án và hợp đồng”.

Việt Nam đã thành công trong việc mở rộng tiếp cận đến các dịch vụ cơ sở hạ tầng

trong hơn 20 năm qua, nhưng còn rất nhiều việc phải làm để có thể nâng cao năng lực cạnh

tranh, tháo gỡ những “nút thắt” của nền kinh tế. “Các chính sách và thể chế trước đây

thành công nhưng so với tình hình bây giờ cần phải được điều chỉnh vì sự phát triển của

Việt Nam ngày càng tiến bộ hơn”, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Đặng Huy Đông

khẳng định.

Theo nhiều khảo sát quốc tế nhận định, mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu phát

triển nhưng những trở ngại về cơ sở hạ tầng của Việt Nam vẫn chưa được giải quyết một

cách hiệu quả. Thực tế, chính những tắc nghẽn về cơ sở hạ tầng hiện được xem là vấn đề

lớn nhất cản trở môi trường kinh doanh của đất nước. Vượt qua những rào cản cơ sở hạ

tầng này, Việt Nam sẽ tiếp tục tăng trưởng với tốc độ khả quan và bền vững, hiện thực hóa

những mục tiêu phát triển đã đề ra cho những thập niên sắp tới.

4. Nguồn vốn trong nước là nguồn vốn đối ứng nhằm tạo cơ sở cho nguồn vốn

nước ngoài vào hoạt động có hiệu quả.

Theo kinh ngiệm của một số nước nhóm NICs thì giai đoạn đầu của quá trình phát

triển, tỷ lệ vốn đối ứng so với vốn nước ngoài thu hút được thường thấp, ở mức 1/1.5 nghĩa

là một đồng vốn nước ngoài cần 1.5 đồng vốn trong nước. Ở giai đoạn sau, khi các chương

trình đầu tư nghiêng về ngành công nghiệp chế biến có hàm lượng vốn và kỹ thuật cao thì

tỷ lệ này thường tăng lên 1/2.5.

Ở Việt Nam, nhu cầu về vốn đối ứng cho các dự án ODA cũng rất lớn nhưng tình

hình bố trí vốn đối ứng từ phía Việt Nam để chuẩn bị cho việc tiếp nhận vốn ODA, đáp

34



ứng yêu cầu của nhà tài trợ còn chậm trễ và thiếu kịp thời dẫn đến tình hình giải ngân vốn

ODA quá chậm. Thậm chí, nhiều dự án ODA, nhà tài trợ đã ngừng giải ngân vốn ODA do

vốn đối ứng không đáp ứng được. Điều này gây tác động xấu đến việc thúc đẩy tăng

trưởng và phát triển kinh tế, xã hội vì giai đoạn hiện nay, nhu cầu về vốn đầu tư của đất

nước là rất lớn. Không những bổ sung lượng vốn đầu tư đáng kể cho nền kinh tế, việc giải

ngân nguồn vốn ODA nhanh chóng sẽ đóng góp tích cực cho chương trình kích cầu đầu tư,

tăng trưởng GDP.

Bộ Kế hoạch – Đầu tư công bố: trong 6 tháng đầu năm 2010, số vốn ODA được

giải ngân là 720 triệu USD. Kết quả này chỉ bằng 38% kế hoạch năm 2010. Đáng chú ý là

việc giải ngân chậm diễn ra ở nhiều dự án quan trọng thuộc lĩnh vực đầu tư cơ sở hạ tầng.

Theo Bộ KH-ĐT, một số đơn vị có mức giải ngân ODA thấp dưới 40% là Bộ GTVT

(38%), Bộ Y tế (27,9%), Thành phố Đà Nẵng (6,66%), Thành phố Cần Thơ (11,6%),

Thành phố Hà Nội (36%). Bộ GTVT chủ trì 38 dự án ODA thì có tới 27 dự án mới giải

ngân bằng 20% kế hoạch năm, 6 dự án đạt mức giải ngân từ 20-40% kế hoạch năm. Các dự

án giải ngân ODA thấp là dự án hành lang ven biển phía Nam (0,03%), cầu Nhật Tân

(0,96%), cảng Cái Mép- Thị Vải (2,57%), quốc lộ 3 mới Hà Nội - Thái Nguyên (7,15%).

Thành phố Hà Nội đang quản lý 19 dự án ODA quan trọng. Năm 2010, Hà Nội sẽ

phải thực hiện 631 tỷ đồng nhưng 4 tháng đầu năm, mới giải ngân đuợc 36% kế hoạch

năm. Trong đó, điển hình chậm giải ngân vốn ODA là dự án phát triển cơ sở hạ tầng đô thị

Bắc Thăng Long- Vân Trì mới đạt 5%, dự án phát triển công nghệ thông tin và truyền

thông, tiểu phần thành phố Hà Nội mới đạt có 1%, dự án trường cao đẳng dạy nghề Hàn

Quốc- Thành phố Hà Nội đạt 10%, dự án phát triển giao thông đô thị Hà Nội mới đạt 12%.

Bộ KH-ĐT cho biết, những dự án đầu tư lớn phát triển cơ sở hạ tầng đều thuộc lĩnh

vực ưu tiên bố trí vốn đối ứng. Bộ GTVT thường đề nghị bố trí khối lượng vốn đối ứng

lớn, song thực tế không giải ngân hết. Trong khi đó, vốn đầu tư cho các dự án khác trong

nước lại thiếu. Việc chậm giải ngân như vậy đã ảnh hưởng tới cả cân đối ngân sách chung

và kế hoạch phát triển của các ngành.

Theo báo cáo của 8 bộ ngành và 48 tỉnh, thành phố, số dự án ODA đạt mức giải

ngân khá từ 60% trở lên so với kế hoạch năm, chỉ chiếm có 1/5 tổng số dự án (121/556 dự

án). Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, 50% khối lượng giải ngân ODA là từ các dự

35



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (62 trang)

×