Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 111 trang )
nhập (còn gọi là công ty mục tiêu - target company) sẽ chấm dứt sự tồn tại sau khi
sáp nhập. Khi đó, thông thường thương hiệu của công ty mục tiêu sẽ mất đi, chuyển
tên cùng công ty tiếp nhận.
Hợp nhất (Consolidation): là hình thức hai hay một số công ty (gọi là công
ty bị hợp nhất) có thể hợp nhất thành một công ty mới (gọi là công ty hợp nhất)
bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình
sang công ty hợp nhất, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của các công ty bị hợp nhất.
Hợp nhất doanh nghiệp là một dạng đặc biệt của sáp nhập. Doanh nghiệp A
và doanh nghiệp B hợp nhất để hình thành doanh nghiệp C, nghĩa là sau hợp nhất,
tên doanh nghiệp A hay doanh nghiệp B sẽ không còn nữa, mà chỉ còn tồn tại doanh
nghiệp C.
Bảng 1.1: So sánh giữa sáp nhập và liên doanh
Sáp nhập
Không hình thành doanh Hợp
nghiệp mới
A+B= A”
nhất
hình
doanh nghiệp mới
A+B=C
thành
Liên doanh
A+B= A+B+C
Sau khi sáp nhập, B chấm Sau khi hợp nhất, A và B C được hình thành trên cơ
dứt sự tồn tại. A” bao gồm chấm dứt sự tồn tại và sở liên doanh của A với B.
A ban đầu và bộ phận sáp hình thành nên C.
A và B vẫn tồn tại.
nhập từ B.
Sáp nhập cần được phân biệt với liên doanh. Liên doanh giữa các doanh
nghiệp là việc hai hay nhiều doanh nghiệp cùng góp một phần tài sản, quyền lợi và
nghĩa vụ hợp pháp của mình để hình thành một doanh nghiệp mới. Nghĩa là nếu
doanh nghiệp A và doanh nghiệp B liên doanh với nhau hình thành một doanh nghiệp
C thì sau khi liên doanh có thể vẫn có sự tồn tại của cả ba doanh nghiệp A, B và C.
Tại Việt Nam, khái niệm mua bán và sáp nhập doanh nghiệp được quy định
tại Luật doanh nghiệp 2005 như sau:
7
Hợp nhất doanh nghiệp: Hai hoặc một số công ty cùng loại (sau đây gọi là
công ty bị hợp nhất) có thể hợp nhất thành một công ty mới (sau đây gọi là công ty
hợp nhất) bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp
sang công ty hợp nhất, đồng thời chấm dứt tồn tại của các công ty bị hợp nhất.
(Điều 152)
Sáp nhập doanh nghiệp: Một hoặc một số công ty cùng loại (sau đây gọi là
công ty bị sáp nhập) có thể sáp nhập vào một công ty khác (sau đây gọi là công ty
nhận sáp nhập) bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp
pháp sang công ty nhận sáp nhập, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của công ty bị sáp
nhập. (Điều 153)
Khái niệm hai công ty cùng loại trong hai điều luật trên được hiểu là các công
ty cùng loại hình doanh nghiệp theo quy định của pháp luật. Như vậy điều kiện tiên
quyết để có một vụ sáp nhập hay hợp nhất là hai doanh nghiệp phải cùng loại hình
và có sự chấm dứt hoạt động của cả một hoặc tất cả các bên tham gia.
Trong Luật doanh nghiệp không đề cập đến mua lại doanh nghiệp. Trong khi
đó, điều 17, Luật Cạnh tranh số 27/2004/QH11 được Quốc hội Nước Cộng hòa Xã
hội Chủ nghĩa Việt Nam ban hành ngày 03/12/2004, định nghĩa mua lại là “việc một
doanh nghiệp mua toàn bộ hoặc một phần tài sản của doanh nghiệp khác đủ để
kiểm soát, chi phối toàn bộ hoặc một ngành nghề của doanh nghiệp bị mua lại”.
Cũng tại điều 17 Luật cạnh tranh, sáp nhập doanh nghiệp là “việc một hoặc một số
doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình
sang một doanh nghiệp khác, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp bị
sáp nhập”. Còn hợp nhất doanh nghiệp là "việc hai hoặc nhiều doanh nghiệp
chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình để hình thành
một doanh nghiệp mới, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của các doanh nghiệp bị hợp
nhất”.
Đối với ngành ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước cũng ra thông tư số
04/2010/TT-NHNN ngày 11 tháng 02 năm 2010 quy định việc sáp nhập, hợp nhất,
mua lại tổ chức tín dụng. Cụ thể:
8
Sáp nhập tổ chức tín dụng là hình thức một hoặc một số tổ chức tín dụng
(sau đây gọi là tổ chức tín dụng bị sáp nhập) sáp nhập vào một tổ chức tín dụng
khác (sau đây gọi là tổ chức tín dụng nhận sáp nhập) bằng cách chuyển toàn bộ tài
sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang tổ chức tín dụng nhận sáp nhập, đồng
thời chấm dứt sự tồn tại của tổ chức tín dụng bị sáp nhập;
Hợp nhất tổ chức tín dụng là hình thức hai hoặc một số tổ chức tín dụng (sau
đây gọi là tổ chức tín dụng bị hợp nhất) hợp nhất thành một tổ chức tín dụng mới
(sau đây gọi là tổ chức tín dụng hợp nhất) bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền,
nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang tổ chức tín dụng hợp nhất, đồng thời chấm dứt sự
tồn tại của các tổ chức tín dụng bị hợp nhất;
Mua lại tổ chức tín dụng là hình thức một tổ chức tín dụng (sau đây gọi là tổ
chức tín dụng mua lại) mua toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của
tổ chức tín dụng khác (tổ chức tín dụng bị mua lại). Sau khi mua lại, tổ chức tín
dụng bị mua lại trở thành công ty trực thuộc của tổ chức tín dụng mua lại.
Như vậy, các hành vi tập trung kinh tế này thể hiện những nội dung đã trình
bày trên đây của hoạt động mua bán, sáp nhập doanh nghiệp nói chung và ngành
ngân hàng nói riêng, bao gồm sự chuyển giao quyền sở hữu gắn liền với thay đổi về
cơ chế kiểm soát và tổ chức quản trị doanh nghiệp.
Sự khác nhau giữa mua lại và sáp nhập:
Mặc dù mua lại và sáp nhập thường được đề cập cùng nhau với thuật ngữ quốc
tế phổ biến là “M&A” nhưng hai thuật ngữ mua lại và sáp nhập vẫn có sự khác biệt
về bản chất.
Khi một công ty mua lại (tiếp quản) một công ty khác và đặt mình vào vị trí
chủ sở hữu mới thì thương vụ đó được gọi là mua lại. Dưới khía cạnh pháp lý, công
ty bị mua lại không còn tồn tại, bên mua đã “nuốt chửng” bên bán và cổ phiếu của
bên mua không bị ảnh hưởng.
Theo nghĩa đen thì sáp nhập diễn ra khi hai doanh nghiệp, thường có cùng quy
mô, đồng thuận gộp lại thành một công ty mới thay vì hoạt động và sở hữu riêng lẻ.
9
Loại hình này thường được gọi là “sáp nhập ngang bằng”. Cổ phiếu của cả hai công
ty sẽ ngừng giao dịch và cổ phiếu của công ty mới sẽ được phát hành.
Tuy nhiên trong thực tế hình thức sáp nhập ngang bằng không diễn ra thường
xuyên do nhiều lý do. Một trong những lý do chính là việc truyền tải thông tin ra
công chúng cần có lợi cho cả công ty bị mua và công ty mới sau khi sáp nhập.
Thông thường, một công ty mua một công ty khác và trong thỏa thuận đàm phán sẽ
cho phép công ty bị mua tuyên bố với bên ngoài rằng hoạt động này là sáp nhập
ngang bằng cho dù về bản chất là hoạt động mua lại. Như vậy một thương vụ mua
lại cũng có thể được gọi là sáp nhập khi cả hai bên đồng thuận liên kết cùng nhau vì
lợi ích cho cả hai công ty. Nhưng nếu thương vụ đó diễn ra trong sự chống đối, thù
nghịch và công ty bị mua không muốn thương vụ diễn ra thì nó sẽ được gọi là một
vụ mua lại. Một thương vụ được coi là mua lại hay sáp nhập hoàn toàn phụ thuộc
vào việc nó được diễn ra một cách thân thiện giữa hai bên hay bị ép buộc thâu tóm
nhau. Mặt khác, nó còn là cách truyền tải thông tin ra bên ngoài cũng như sự nhìn
nhận của ban giám đốc, nhân viên và cổ đông công ty.
Bản chất của hoạt động M&A:
Về bản chất, M&A là quá trình thanh lọc và khẳng định uy tín của các doanh
nghiệp trong cuộc chiến cạnh tranh ngày càng khốc liệt trên thị trường. Hoạt động
mua bán và sáp nhập doanh nghiệp có thể được tiếp cận ở các góc độ khác nhau.
Xét về tính chất và mức độ tác động của M&A đến sở hữu và kiểm soát doanh
nghiệp, theo Frankel (2005), M&A là giao dịch lớn, hay còn gọi là giao dịch chiến
lược, làm thay đổi bản chất, đường lối hay sự kiểm soát một doanh nghiệp.
Xét ở góc độ tổ chức quản trị, hoạt động M&A dẫn tới các quyết định về sự
tồn tại của doanh nghiệp là đối tượng bị mua bán do sự thay đổi về sở hữu và kiểm
soát. Quyết định về sự tồn tại của doanh nghiệp bị bán hoàn toàn phụ thuộc vào tỷ
lệ sở hữu doanh nghiệp bị bán và ý đồ chiến lược của bên mua. Trong trường hợp
các nhà quản lý hoặc các nhà đầu tư bên ngoài mua lại doanh nghiệp thì doanh
nghiệp bị bán sẽ vẫn tồn tại nhưng với một cơ cấu sở hữu và cơ chế kiểm soát hoàn
toàn mới. Tuy nhiên, sáp nhập doanh nghiệp có thể được thực hiện không thông qua
10
mua bán khi các chủ sở hữu của hai doanh nghiệp đồng thuận về việc hợp nhất hai
doanh nghiệp. Đây là trường hợp sáp nhập tự nguyện không thông qua thôn tính
quyền sở hữu doanh nghiệp.
Xét ở góc độ tổ chức sản xuất trong nền kinh tế, M&A thể hiện xu hướng tập
trung các nguồn lực của nền kinh tế. Hiện tượng này đã được Karl Marx đề cập đến
trong khái niệm "tập trung tư bản". Cạnh tranh và tín dụng là những đòn bẩy mạnh
nhất thúc đẩy tập trung tư bản. Do cạnh tranh mà dẫn tới sự liên kết tự nguyện hay
sáp nhập của các tư bản cá biệt. Như vậy, có thể nói sáp nhập là một hình thức thể
hiện của tập trung tư bản.
Tóm lại, M&A có thể được hiểu là xu hướng tập trung tư bản và xuất hiện
một cách tất yếu trong nền kinh tế thị trường do tác động của cạnh tranh, hội nhập
khu vực và quốc tế. Đó là các giao dịch chiến lược làm thay đổi cơ cấu sở hữu
doanh nghiệp và do đó dẫn tới sự thay đổi quyền kiểm soát, điều hành doanh
nghiệp. Tuy nhiên, sáp nhập cũng có thể thực hiện bằng cách hợp nhất các doanh
nghiệp trên cơ sở các chủ sở hữu doanh nghiệp đồng thuận về sự hợp nhất.
1.1.2 Các chủ thể tham gia M&A
Cũng giống như bất kỳ giao dịch thị trường nào khác, các giao dịch M&A
cũng bao gồm hai nhóm chủ thể chính tham gia là bên bán và bên mua. Tuy nhiên,
do đây là các giao dịch về quyền sở hữu doanh nghiệp và có thể tác động đến nhiều
nhóm chủ thể khác nhau trong và ngoài doanh nghiệp nên bên cạnh bên mua và bên
bán còn có những cá nhân, tổ chức khác nhau liên quan đến hoạt động M&A.
Bên mua
Bên mua trong hoạt động M&A thường là tổ chức hoặc một số cá nhân có khả
năng về tài chính. Bên mua kỳ vọng rằng việc mua lại và sự cộng hưởng có thể có
được từ hoạt động kinh doanh hiện tại đối với hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp bị mua lại; sự cộng hưởng này giúp bên mua đạt được lợi ích nhiều hơn so
với khi doanh nghiệp của bên mua và doanh nghiệp bị mua lại hoạt động độc lập.
Nhưng bên mua sẽ để doanh nghiệp bị mua lại tiếp tục tồn tại độc lập và quan tâm
nhiều hơn đến việc tái cấu trúc doanh nghiệp bị mua lại. Việc tái cấu trúc là để cải
11
thiện, gia tăng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp bị mua lại và sau đó bên mua
tài chính bán doanh nghiệp đã mua lại với mức giá cao hơn đáng kể so với chi phí
bỏ ra để mua lại và tái cấu trúc doanh nghiệp bị mua lại.
Bên bán
Bên bán là bên chuyển giao quyền sở hữu tài sản của doanh nghiệp. Bên bán
có thể bán một phần hoặc bán toàn bộ doanh nghiệp. Trong trường hợp bán một
phần, doanh nghiệp của bên bán vẫn tồn tại là một thực thể và tiếp tục hoạt động.
Việc bán một phần như vậy là cơ chế tài trợ vốn được bên bán áp dụng để tăng tính
thanh khoản hoặc tăng cường quan hệ giữa doanh nghiệp với bên mua. Với bên bán,
người đầu tư sáng lập đồng thời là chủ sở hữu thường điều hành công ty trong thời
gian dài, sở hữu phần vốn đáng kể. Chính vì vậy, họ có tiếng nói đáng kể trong các
giao dịch M&A. Các quyết định của họ có thể thúc đẩy bởi những động cơ khá đa
dạng, bao gồm cả các động cơ về mặt tài chính (tối đa hóa giá trị tài sản) và phi tài
chính (cảm xúc, lòng tự tôn…).
Các nhóm có liên quan
Các nhóm liên quan là các nhóm trực tiếp, hoặc gián tiếp tác động đến hoạt
động M&A, hoặc bị tác động bởi giao dịch M&A xuất phát từ việc thay đổi cơ chế
kiểm soát, điều hành hoạt động và từ đó tác động đến mối quan hệ giữa doanh
nghiệp với các nhóm đó. Các nhóm liên quan bên trong bao gồm những người làm
việc trong doanh nghiệp như hội đồng quản trị, ban quản lý điều hành, những người
quản lý chuyên môn và bộ phận phát triển các giao dịch chiến lược. Các nhóm liên
quan bên ngoài có thể kể đến là các khách hàng, các nhà cung cấp, các cơ quan
quản lý nhà nước, phương tiện truyền thông đại chúng… Đặc biệt phải kể đến đội
ngũ các nhà tư vấn, ngân hàng đầu tư, kiểm toán viên… trực tiếp hỗ trợ bên mua và
bên bán trong giao dịch M&A.
Tóm lại, giao dịch M&A được thực hiện với sự tham gia đồng thời của bên
bán và bên mua và có liên quan tới nhiều nhóm khác nhau, cả bên trong và bên
ngoài doanh nghiệp. Chính vì vậy, giao dịch M&A không chỉ là quá trình chuyển
12
nhượng quyền sở hữu doanh nghiệp đơn thuần giữa bên mua và bên bán mà còn
chịu tác động từ nhiều phía khác nhau.
1.2 Phân loại hoạt động mua bán và sáp nhập doanh nghiệp
Hoạt động M&A có thể được phân loại dựa trên những căn cứ khác nhau tùy
theo cách tiếp cận khác nhau.
Căn cứ vào chủ thể tham gia mua bán chia thành 2 loại là M&A bên trong
và bên ngoài.
Doanh nghiệp cũng có thể bị mua lại bởi chính các nhà lãnh đạo doanh
nghiệp. Các nhà lãnh đạo doanh nghiệp có thể không sở hữu hoặc chỉ sở hữu một
phần vốn của doanh nghiệp. Họ có thể là những người nắm giữ thông tin về tiềm
năng phát triển của doanh nghiệp, các cơ hội thị trường có thể có đối với doanh
nghiệp… và có tham vọng chi phối hoạt động của doanh nghiệp. Việc mua lại như
vậy sẽ giúp các nhà lãnh đạo có thêm quyền sở hữu để kiểm soát và chi phối hoạt
động của doanh nghiệp. Đứng sau việc mua lại của các nhà lãnh đạo doanh nghiệp
thường là các ngân hàng, tổ chức tài chính cùng với những ràng buộc đối với các
nhà lãnh đạo nhận tài trợ của họ. Các nhà đầu tư bên ngoài cũng có thể tìm cách
mua lại doanh nghiệp để nắm quyền kiểm soát và chi phối hoạt động của doanh
nghiệp theo ý đồ của mình. Khi doanh nghiệp được mua lại bởi các nhà lãnh đạo
doanh nghiệp hoặc các nhà đầu tư bên ngoài, doanh nghiệp sẽ vẫn tiếp tục hoạt
động nhưng với một cơ cấu sở hữu mới và tất nhiên, cơ chế kiểm soát và điều hành
hoạt động của doanh nghiệp cũng bị thay đổi.
Căn cứ vào mối liên kết giữa các bên liên quan, hoạt động M&A có thể
phân loại thành 3 nhóm.
M&A theo chiều ngang: là sự kết hợp giữa hai doanh nghiệp kinh doanh và
cùng cạnh tranh trực tiếp về một dòng sản phẩm, dịch vụ trong cùng một thị trường.
Kết quả của giao dịch theo hình thức này sẽ mang lại cho bên sáp nhập nhiều lợi ích
như cơ hội mở rộng thị trường, tăng cường hiệu quả hệ thống phân phối, giảm bớt
đối thủ cạnh tranh, tận dụng nguồn lực con người, công nghệ... Hình thức M&A
13
theo chiều ngang tập trung năng lực sản xuất của các doanh nghiệp khác nhau vào
một doanh nghiệp và do đó mở rộng quy mô sản xuất của doanh nghiệp đi sáp nhập.
M&A theo chiều dọc là giao dịch M&A giữa các doanh nghiệp hoạt động tại
các khâu khác nhau trong cùng một lĩnh vực dẫn tới sự mở rộng về phía trước hoặc
phía sau của doanh nghiệp sáp nhập trên một chuỗi giá trị đó. Đó là khi doanh
nghiệp tìm cách kiểm soát các nguồn cung cấp đầu vào hoặc các kênh phân phối
đầu ra thông qua việc mua lại, sáp nhập để nhận được phần giá trị gia tăng nhiều
hơn từ các hoạt động sản xuất kinh doanh nằm dưới sự kiểm soát, chi phối của
mình. Hình thức sáp nhập này được chia thành hai nhóm nhỏ: (i) Sáp nhập tiến
(forward): trường hợp này xảy ra khi một doanh nghiệp mua lại doanh nghiệp khách
hàng của mình; (ii) Sáp nhập lùi (backward): trường hợp này xảy ra khi một doanh
nghiệp mua lại nhà cung cấp của mình. Sáp nhập theo chiều dọc đem lại cho doanh
nghiệp tiến hành hợp nhất lợi thế về đảm bảo và kiểm soát chất lượng nguồn hàng
hoặc đầu ra sản phẩm, giảm chi phí trung gian, khống chế nguồn hàng hoặc đầu ra
của đối thủ cạnh tranh.
M&A kết hợp: là giao dịch M&A diễn ra giữa các doanh nghiệp hoạt động ở
các lĩnh vực kinh doanh, ngành nghề không liên quan với nhau. Các công ty này
không phải là đối thủ của nhau, và họ cũng không có mối liên hệ mua bán nào. Lợi
ích của hoạt động M&A loại này là giảm thiểu rủi ro nhờ đa dạng hóa, tiết kiệm chi
phí gia nhập thị trường và lợi nhuận gia tăng nhờ có nhiều sản phẩm, dịch vụ.
Căn cứ vào quy mô của doanh nghiệp bán hay bị sáp nhập chia thành
M&A từng phần và toàn phần.
M&A từng phần xảy ra khi đối tượng của hoạt động M&A là một phần
doanh nghiệp của bên bán. Hình thức này không làm thay đổi sự tồn tại về mặt pháp
lý của bên bán và bên mua.
M&A toàn phần xảy ra khi đối tượng của hoạt động M&A là toàn bộ doanh
nghiệp của bên bán. Trong trường hợp này, bên mua sẽ nhận chuyển giao toàn bộ
quyền sở hữu đối với doanh nghiệp được mua lại và định đoạt sự tồn tại về mặt
pháp lý đối với doanh nghiệp này.
14