Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 111 trang )
quy mô doanh nghiệp còn manh mún. Trong nhiều ngành như chứng khoán, ngân
hàng… chưa đạt được hiệu quả về quy mô. Đây là cơ sở tốt trên góc độ M&A để
hợp nhất nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam.
Nhiều tập đoàn trong nƣớc trong giai đoạn tới công bố tái cấu trúc doanh
nghiệp, M&A dưới hình thức bán tài sản sẽ sôi động: Mặc dù khủng hoảng từ năm
2008 nhưng đến năm 2011 vừa qua các doanh nghiệp trong nước mới thực sự
“ngấm đòn” do những khó khăn của kinh tế vĩ mô và cạn kiệt nguồn vốn từ ngân
hang. Nhiều công ty đã có chiến lược rõ ràng hoặc công khai danh mục tài sản hoặc
mảng kinh doanh mà họ sẽ thoái vốn. Điều này cũng thể hiện một cái nhìn mới về
M&A, thay đổi tư duy của lãnh đạo các doanh nghiệp Việt Nam vốn rất ngại công
khai việc cắt giảm hoặc chuyển nhượng một phần trong doanh nghiệp của mình.
Các quỹ đầu tƣ nƣớc ngoài thoái danh mục. Số liệu của StoxPlus cho thấy
các quỹ đầu tư nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam với tổng giá trị tài sản quản
lý khoảng 63.000 tỷ đồng sẽ có thời hạn thanh lý quỹ từ năm 2012 đến 2015. Thực
tế này phát sinh do hầu hết các quỹ nước ngoài đều được thành lập vào những năm
2006 và 2007 và với thời hạn hoạt động thông thường của quỹ là 5 năm. Một số quỹ
đầu tư đã bị cổ đông ép chuyển sang hình thức quỹ mở hoặc thoái vốn khỏi Việt
Nam như Vietnam Dragon Fund và Vietnam Enterprise Investments Limited của
Dragon Capital, Indochina Capital Vietnam Holdings Limited. Một số quỹ đã buộc
phải chuyển đổi cổ đông mới (thực chất là M&A trong ngành quản lý quỹ) hoặc
chuyển đơn vị quản lý tài sản mới. Xu hướng này sẽ tiếp tục sôi động trong năm và
các năm tiếp theo khi mà các quỹ đầu tư tài chính đã cho thấy họ không có sự đóng
góp đáng kể nào vào sự cải biến của doanh nghiệp trong khi điều đó là mong muốn
và lợi ích của các tập đoàn nước ngoài muốn tham gia vào thị trường Việt Nam. Khi
đó, các tập đoàn nước ngoài sẵn sàng trả giá cao so với thị trường để các quỹ thoái
vốn.
Một phần FDI sẽ đƣợc chuyển sang M&A: Mặc dù lượng vốn FDI vào Việt
Nam vẫn tăng trưởng rất cao, tuy nhiên do các thủ tục cấp phép phức tạp hơn và
phải gây dựng công ty con 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam có nhiều trở ngại,
nhiều tập đoàn nước ngoài đã tìm thấy M&A như một chiến lược thâm nhập thị
85
trường Việt Nam nhanh gọn và có được nhiều lợi thế của hình thức này như tận
dụng được hệ thống phân phối, cơ sở vật chất, mạng lưới chi nhánh và nguồn nhân
lực hiện có của doanh nghiệp phía Việt Nam trong thương vụ M&A.
1.5.7 Xu hướng hoạt động M&A trong lĩnh vực ngân hàng
Hoạt động M&A tại Việt Nam vẫn đang và sẽ phát triển tương ứng với trình
độ và điều kiện phát triển của nền kinh tế, cũng như sự phát triển của các doanh
nghiệp Việt Nam. Nhìn về dài hạn, hoạt động M&A tại Việt Nam có nhiều tiềm
năng và sẽ phát triển ở mức độ và chất lượng cao hơn nhiều so với những gì đang
diễn ra hiện nay. Đối với lĩnh vực ngân hàng, theo lộ trình gia nhập WTO, Chính
phủ Việt Nam đã cho phép thành lập chi nhánh, ngân hàng con 100% vốn nước
ngoài. Tuy nhiên, để tham gia vào một thị trường vốn khác biệt về văn hóa và
những hiểu biết hạn chế về thị trường trong nước và khách hàng thì thông qua
M&A các định chế nước ngoài từng bước tham gia vào lĩnh vực ngân hàng tại Việt
Nam với tư cách là các cổ đông chiến lược. Với cách thức này, các tổ chức nước
ngoài có thể tận dụng dụng được nguồn nhân lực và cơ sở khách hàng.
Mặt khác, đối với các ngân hàng trong nước, trước áp lực cạnh tranh từ phía
các định chế tài chính nước ngoài cả những đối thủ lớn trong nước, một số các ngân
hàng nhỏ lẻ đã tính đến hướng hợp tác, liên kết với các ngân hàng khác để tăng
cường thị phần, quy mô và vị thế cạnh tranh của mình.
Thêm vào đó, theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, các NHTM phải có
vốn điều lệ tối thiểu đạt 5000 tỷ đồng vào năm 2012 và 10.000 tỷ đồng vào năm
2015, đồng thời với chủ trương tái cấu trúc ngân hàng của Nhà nước hiện nay đã tạo
sức ép lên các tổ chức tín dụng trong nước thúc đẩy mạnh hoạt động bán cổ phần
tăng vốn điều lệ. Mặc dù vậy, con số này vẫn chưa đủ để đảm bảo năng lực cạnh
tranh của các tổ chức này trong bối cảnh nền kinh tế hiện nay. Vì vậy, có thể nhận
định hoạt động M&A trong lĩnh vực tài chính ngân hàng vẫn sẽ rất sôi động, thậm
chí có thể nói là rất nóng trong thời gian tới, đặt ra cơ hội cũng như thách thức đối
với hoạt động M&A trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam.
86
Theo các chuyên gia, trong thời gian tới có những hình thức sáp nhập và mua
lại ngân hàng như sau:
Các ngân hàng nhỏ sẽ bắt tay với các ngân hàng nhỏ
Các ngân hàng nhỏ ở Việt Nam vẫn còn tồn tại và có đất sống bởi lẽ nó có thị
trường riêng, những phân khúc thị trường mà các ngân hàng lớn hơn và các ngân
hàng khác bỏ qua hoặc chưa có điều kiện đáp ứng được. Sự tồn tại của các ngân
hàng nhỏ là cần thiết để đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng cũng như khai thác
triệt để các khe hở của thị trường.
Tuy nhiên, với điều kiện nền kinh tế có nhiều bất ổn như hiện nay, các ngân
hàng nhỏ đã bắt đầu bộc lộ những lúng túng trong cách quản trị điều hành và những
yếu kém trong vấn đề thanh khoản. Để nâng cao năng lực tài chính, khả năng cạnh
tranh buộc các ngân hàng phải nghĩ đến việc liên kết thành một khối. Điều này sẽ
giúp các ngân hàng nhỏ vẫn tiếp tục phát huy được thế mạnh của mình bằng cách
khai thác các khách hàng truyền thống đồng thời nâng cao năng lực cạnh tranh và
đa dạng hóa sản phẩm bằng cách liên kết với các ngân hàng nhỏ khác.
Ngân hàng lớn sáp nhập và mua lại ngân hàng nhỏ
Đây sẽ là xu hướng sẽ có nhiều khả năng xảy ra nhất trong giai đoạn sắp tới, khi các
ngân hàng nhỏ bị đuối trong điều kiện kinh tế khắc nghiệp như hiện nay và nhất là
khi ngân hàng Nhà nước quyết tâm tái cơ cấu lại hệ thống ngân hàng, quyết tâm
trong vòng 5 năm nữa nước ta có hai ngân hàng đủ sức cạnh tranh với các ngân
hàng trong khu vực, có từ 10-15 ngân hàng đủ lớn để làm trụ cột cho cả hệ thống
ngân hàng Việt Nam.
Các ngân hàng cùng quy mô (trung bình, lớn) và cùng chiến lược phát triển
sáp nhập với nhau
Theo mô hình này, các ngân hàng cùng quy mô (trung bình, lớn) sẽ bắt tay
hợp tác với nhau, xu hướng này đã xảy ra ở các nước Châu Mỹ, Châu Âu và hiện
nay bắt đầu ở Châu Á. Khi mà thị trường tài chính ngân hàng đạt được mức phát
triển tương đối ổn định, các nguồn lực được khai thác một cách tương đối toàn diện
87
thì xu hướng sáp nhập các ngân hàng cùng quy mô xảy ra để tạo ra những ngân
hàng đủ lớn tăng khả năng cạnh tranh với các tập đoàn tài chính quốc tế.
Sáp nhập xuyên biên giữa các tổ chức tài chính nước ngoài với các ngân hàng
trong nước
Trong giai đoạn vừa qua, một số ngân hàng nước ngoài đã mua cổ phần của
các ngân hàng thương mại cổ phần trong nước để trở thành cổ đông chiến lược, điều
này hoàn toàn phù hợp với xu hướng quốc tế. Các nước trong khu vực Châu Á như
Indonesia, Nhật Bản, Thái Lan… đều đã bước vào giai đoạn thu hút nguồn vốn đầu
tư trực tiếp thông qua hình thức các ngân hàng nước ngoài mua phần lớn cổ phần
của các ngân hàng trong nước, trong đó có Indonesia, Hàn Quốc, Thái Lan đã cho
phép nhà đầu tư nước ngoài được phép nắm giữ 100% cổ phiếu của các ngân hàng
trong nước. Các quốc gia này đều khẳng định sự ảnh hưởng tích cực đối với sự
đóng góp của các ngân hàng nước ngoài, tuy nhiên ngân hàng trong nước vẫn là hạt
nhân cho sự phát triển một nền tài chính ổn định bởi các ngân hàng trong nước sẽ
thực hiện các chính sách tiền tệ của quốc gia, các ngân hàng nước ngoài chỉ vì một
mục đích là thu được lợi nhuận nhiều nhất.
Trong bối cảnh tự do hóa tài chính theo lộ trình WTO, Việt Nam cũng sẽ
không tránh khỏi sự cạnh tranh khốc liệt đó và xu hướng sáp nhập xuyên biên là kết
quả tất yếu bởi vì các ngân hàng nước ngoài ưa thích mua lại các ngân hàng trong
nước thay vì phải thành lập ngân hàng mới để tiết kiệm chi phí và thời gian gia nhập
thị trường khi pháp luật Việt Nam cho phép.
Sáp nhập ngân hàng để thành lập tập đoàn tài chính ngân hàng
Các ngân hàng thương mại không chỉ cạnh tranh với nhau mà còn cạnh tranh
với các định chế tài chính khác như công ty tài chính, công ty bảo hiểm, công ty
chứng khoán… Việc sáp nhập để hình thành tập đoàn tài chính sẽ đa dạng hóa sản
phẩm, tạo ra chuỗi giá trị mới cho khách hàng, khai thác được lợi thế tổng thể là xu
thế tất yếu của thời đại để tạo ra được những lợi thế cạnh tranh mới.
88
3.2 Một số giải pháp nhằm phát triển hoạt động mua bán và sáp nhập
ngân hàng tại Việt Nam qua bài học kinh nghiệm từ trƣờng hợp sáp
nhập 3 ngân hàng Đệ Nhất – Tín Nghĩa – Sài Gòn
3.2.1 Về phía Nhà nước
Hiện nay, ở Việt Nam có quá nhiều ngân hàng hoạt động tại Việt Nam mà đa
phần là các ngân hàng nhỏ. Trong khi đó, ở các quốc gia phát triển có hệ thống tài
chính mạnh thì chỉ tồn tại một số tập đoàn với quy mô lớn và tiềm lực tài chính
vững chắc. Nhận thức được điều đó ngân hàng Nhà nước Việt Nam có chính sách
sáp nhập các ngân hàng nhỏ lại để tạo thành các ngân hàng quy mô lớn cả về tài sản
và vốn. Tuy nhiên, để ổn định và giúp thị trường tài chính Việt Nam ngày càng
vững mạnh hơn, bên cạnh việc Nhà nước để thị trường tạo động lực thúc đẩy các
ngân hàng nhỏ chủ động tìm đến với nhau, hợp tác, sáp nhập để trở thành ngân hàng
mạnh hơn, tạo lập môi trường thông thoáng, thuận lợi cho thị trường M&A lĩnh vực
tài chính ngân hàng để hoạt động này ngày càng sôi động, Nhà nước cũng cần chú ý
đến các vấn đề như sau:
Phát triển kênh kiểm soát thông tin cũng như tính minh bạch của thông tin
trong hoạt động M&A
Trong hoạt động M&A, các thông tin về giá cả, thương hiệu, thị trường, thị
phần, quản trị… là rất quan trọng và cần thiết cho cả bên mua, bên bán. Nếu thông
tin không được kiểm soát minh bạch thì có thể gây ra nhiều thiệt hại cho các bên.
Bởi vì cũng như nhiều thị trường khác, thị trường M&A hoạt động có tính dây
chuyền, nếu một vụ M&A lớn diễn ra không thành công hoặc có yếu tố lừa đảo thì
sẽ gây hậu quả lớn cho nền kinh tế. Do đó, cần phát triển các kênh kiểm soát thông
tin của doanh nghiệp như: có các chính sách để phát triển thị trường chứng khoán
tại Việt Nam đồng thời Bộ tài chính và Ủy ban chứng khoán Nhà nước cần xây
dựng kênh kiểm soát thông tin, tính minh bạch trong hoạt động kinh doanh nói
chung, hoạt động mua bán, sáp nhập nói riêng; quy định về việc công bố thông tin
của tất cả các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế chứ không chỉ đối với những
công ty đã niêm yết, công ty đại chúng, đồng thời cần quy định rõ các thông tin và
89
hình thức để công bố mà doanh nghiệp phải có nghĩa vụ cung cấp kịp thời và đầy đủ
cho cơ quan quản lý và thị trường. Tuỳ theo mức độ thông tin được xử lý mà người
sử dụng thông tin phải chi trả một khoản phí tương ứng. Như vậy, đối tác giao dịch
trong hoạt động M&A có thể thu nhập thông tin từ hai nguồn chính: từ doanh
nghiệp đối tác và từ các cơ quan quản lý thông tin này. Với phương thức như vậy,
các loại thông tin cần thiết cho thành viên tham gia M&A sẽ được cung cấp đầy đủ,
chính xác, kịp thời… và các cơ quan quản lý cũng có thể kiểm soát được đối tượng
và mục đích thu thập thông tin của doanh nghiệp.
Tạo điều kiện hỗ trợ cho các tổ chức tư vấn M&A
Vai trò của các Công ty tư vấn là rất quan trọng góp phần hỗ trợ, tư vấn cho
doanh nghiệp trong việc xác định chính xác loại giao dịch M&A, tổ chức tư vấn có
thể hỗ trợ doanh nghiệp thẩm định pháp lý và thẩm định tài chính của doanh nghiệp
mục tiêu. Thẩm định tài chính thường do các công ty kiểm toán hay kiểm toán viên
độc lập thực hiện thông qua hỗ trợ của nhóm tư vấn các bên sẽ thỏa thuận các quy
định, các điều khoản cơ bản liên quan đến giao dịch M&A đưa vào hợp đồng đầy
đủ các đặc điểm yêu cầu, lợi ích, sự ràng buộc riêng biệt của ngân hàng.
Các giải pháp cụ thể nhằm khuyến khích sự phát triển công ty tư vấn chuyên
nghiệp cho hoạt động M&A là:
- Nhà nước cần ban hành các tiêu chuẩn và các quy định cụ thể mà một tổ
chức tư vấn M&A chuyên nghiệp cần phải có: năng lực tài chính của tổ chức, kinh
nghiệm của nhà quản trị, trình độ chuyên môn của cán bộ nhân viên,… Nếu đủ điều
kiện thì mới cấp phép thành lập. Đồng thời, rà soát lại các công ty tư vấn không đủ
tiêu chuẩn, khuyến khích họ đầu tư phát triển tổ chức của mình nhằm đạt được
chuẩn yêu cầu, nếu không thì buộc phải ngưng hoạt động.
- Tạo điều kiện và nhanh chóng cấp phép thành lập các công ty này (kể cả các
tổ chức nước ngoài) nếu đã đủ điều kiện.
- Thực hiện chính sách ưu đãi đối với công ty tư vấn này trong những năm đầu
hoạt động như giảm thuế...
Hoàn thiện khung pháp lý về phát triển hoạt động M&A
90
Xu hướng M&A của Việt Nam trong thời gian tới được dự đoán sẽ rất sôi
động. Vì vậy, chính phủ cần hoàn thiện hơn nữa khung pháp lý dành cho M&A
nhằm hỗ trợ cho sự phát triển cũng như kiểm soát, hạn chế những tác động tiêu cực
từ hoạt động này. Đồng thời, hoạt động M&A của Việt Nam có tốc độ tăng trưởng
cao và luôn đổi mới. Do đó, các quy định pháp lý được ban hành cần phải bám sát
với yêu cầu thực tiễn. Hơn nữa, việc quy định đơn giản thủ tục sáp nhập và mua lại
doanh nghiệp sẽ góp phần nâng cao tính cạnh tranh doanh nghiệp Việt Nam. Cần
hoàn thiện khung pháp lý trên cả hai khía cạnh: (i) hỗ trợ cho sự phát triển của hoạt
động M&A và (ii) kiểm soát, hạn chế tác động tiêu cực của hoạt động này tại Việt
Nam.
Hoàn thiện khung pháp lý hỗ trợ cho sự phát triển của hoạt động M&A
Rất nhiều giao dịch M&A tại Việt Nam, đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, đều có sự tham gia của các tổ chức và doanh nghiệp nước ngoài. Do đó,
việc ban hành văn bản quy định hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp ngoài
những nội dung khác thì cần phải có các quy định đối với những giao dịch có yếu tố
nước ngoài. Trong đó, Nhà nước nên quy định cụ thể các tiêu chí để xác định thế
nào là nhà đầu tư nước ngoài một cách thống nhất, ví dụ như doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài phải là nhà đầu tư nước ngoài không, tỷ lệ vốn đầu tư nước ngoài
là bao nhiêu phần trăm để được xem là doanh nghiệp nước ngoài, ... đồng thời cũng
nên mở rộng các tỷ lệ đầu tư, các quy định về khả năng tài chính, tình hình kinh
doanh, pháp lý…. của các nhà đầu tư này.
Cần có những quy định, hướng dẫn cụ thể tiến trình thực hiện M&A như: thủ
tục thực hiện, các bước thực hiện, thời gian xem xét hồ sơ, quy định về chế độ thuế,
cách hạch toán sổ sách…đồng thời xây dựng một bộ luật chuyên biệt cho hoạt động
M&A trên nền tảng của thông tư 04/2010/NHNN, thu về một mối các quy định thủ
tục M&A để tránh chồng chéo trong khâu quản lý và giúp doanh nghiệp nhanh
chóng tiếp cận, thực hiện các thương vụ theo đúng quy định của pháp luật.
Bên cạnh đó, hoạt động M&A cần có sự tham vấn của nhiều chủ thể khác
nhau như công ty môi giới, các chuyên gia tài chính, kế toán, kiểm toán, nhà tư vấn
91
luật… Do tính phức tạp và quan trọng của hoạt động M&A đối với doanh nghiệp
nên đòi hỏi các chủ thể này phải có đủ trình độ chuyên môn, kinh nghiệm và quan
trọng hơn nữa là tinh thần trách nhiệm với doanh nghiệp. Sự thiếu trách nhiệm và
chuyên môn của người tư vấn cho doanh nghiệp có thể dẫn đến những hậu quả
nghiêm trọng và doanh nghiệp phải gánh chịu. Chính vì vậy, những quy định về
trách nhiệm, quyền và nghĩa vụ ràng buộc họ đối với hoạt động M&A là cần thiết
để giúp tăng thêm mức độ an toàn cho doanh nghiệp khi tham gia vào loại hình giao
dịch này. Đồng thời, đưa ra những quy định cụ thể về trình độ chuyên môn của các
tư vấn viên để đảm bảo chất lượng của các tổ chức tư vấn.
Đồng thời, khung pháp lý cần có những quy định ràng buộc trách nhiệm của
doanh nghiệp đối với quyền lợi của người lao động và cổ đông của công ty tài chính
khi doanh nghiệp này thực hiện hoạt động M&A để đảm bảo thương vụ sẽ thành
công và mang lại nhiều kết quả tốt cho doanh nghiệp cũng như nền kinh tế.
Hoàn thiện khung pháp lý nhằm kiểm soát, hạn chế các tác động tiêu cực của
hoạt động M&A
Trọng tâm lớn nhất của quản lý nhà nước đối với M&A là bảo vệ tính cạnh
tranh của thị trường nhằm chống lại các nguy cơ dẫn tới độc quyền mà một vụ
M&A có thể mang lại. Vì vậy, sự kiểm soát của nhà nước đối với thị trường M&A
là rất cần thiết nhằm hạn chế những tiêu cực do độc quyền mang lại cho nền kinh tế
và người tiêu dùng. Như ta đã biết, Luật cạnh tranh cấm các hoạt động M&A có thể
dẫn tới việc một doanh nghiệp có mức tập trung kinh tế lớn hơn 50% thị trường liên
quan nhưng lại không quy định thị trường liên quan được tính như thế nào. Do đó,
khung pháp lý cần đưa ra cách xác định rõ ràng và cụ thể về trường hợp này.
Nhà nước cũng nên quy định cụ thể các giao dịch M&A bị cấm trong văn bản
pháp luật (có thị phần sau khi kết hợp lại chiếm trên 50% trên thị phần trường có
liên quan, thực hiện việc mua lại với ý định thâu tóm doanh nghiệp khác…) góp
phần ngăn chặn các động tiêu cực của hoạt động này đến nền kinh tế và xử lý các
giao dịch cố ý vi phạm pháp luật. Trong đó, việc phòng ngừa sự thâu tóm của các
92
tập đoàn tài chính lớn đối với các công ty tài chính Việt Nam cũng là một vấn đề
đặc biệt cần quan tâm.
Tóm lại, luật pháp và các chính sách cho hoạt động M&A nên được thiết kế
theo hướng hỗ trợ cho sự phát triển thị trường M&A, phát huy lợi ích cũng như hạn
chế những tác động xấu do nó mang lại. Đồng thời, khung pháp lý cho M&A phải
có tầm nhìn dài hạn, tránh sự chồng chéo và phải đạt được độ thông thoáng, phù
hợp với thông lệ quốc tế. Riêng đối với ngành tài chính ngân hàng, trước mắt là
hoàn thiện các thông tư hướng dẫn, sau này dần nghiên cứu, bổ sung và phát triển
lên thành Luật riêng dành cho hoạt động M&A của các tổ chức tín dụng. Bởi vì đây
là một hoạt động mới lại rất phức tạp, nhất là đối với ngành tài chính ngân hàng,
một ngành dịch vụ với những đặc tính riêng có rất đặc biệt và là trái tim của nền
kinh tế quốc gia.
Xây dựng và phát triển nguồn nhân lực cho thị trường M&A
Thương vụ M&A thành công là kết quả của sự hợp tác, hỗ trợ của các chủ thể
tham gia vào quá trình này, đó là: hai bên mua bán, nhà môi giới, chuyên gia tư vấn
(có kinh nghiệm chuyên sâu về các lĩnh vực khác nhau như pháp luật, tài chính,
thương hiệu…, đặc biệt là phải am hiểu về M&A) kết hợp với sự hỗ trợ của khung
pháp lý, các chính sách và quy định liên quan đến M&A của nước sở tại. Vì vậy,
nguồn nhân lực có kiến thức về M&A và các vấn đề liên quan là không thể thiếu đối
với các bên mua bán, các ngân hàng tư vấn, môi giới, cơ quan lập pháp… Do đó,
Nhà nước cần phải có những chương trình, kế hoạch đào tạo để có được nguồn nhân
lực chuyên nghiệp cho thị trường M&A Việt Nam.
Nhà nước có thể cho phép một số trường đại học mở chuyên ngành đào tạo về
M&A. Hiện tại một số trường đại học ở Việt Nam cũng đã đưa vào giảng dạy kiến
thức về M&A, tuy nhiên chưa có trường nào mở chuyên ngành riêng về M&A mà
chỉ đưa vào giảng dạy như một học phần nhỏ, do đó môn học cũng mới chỉ giới
thiệu được những kiến thức chung nhất về mua bán và sáp nhập, sinh viên không có
cơ hội nghiên cứu sâu về lĩnh vực này. Bên cạnh đó, đối với các chuyên gia, các nhà
làm luật Nhà nước có thể tạo điều kiện cho họ đi tập kinh nghiệm ở nước ngoài, nơi
93
thị trường M&A phát triển và có được sự hợp tác thực hiện của cả phía doanh
nghiệp, các ngân hàng tư vấn và cả đối với cơ quan quản lý trực tiếp thị trường này.
Tuy nhiên, chất lượng nguồn nhân lực rất cần phải đảm bảo nhằm tránh trường hợp
"cung thừa - cầu thiếu" như tình trạng chung của nguồn nhân lực Việt Nam.
Bên cạnh đó cũng phải lưu ý rằng nền tảng cho một chương trình đào tạo bao
giờ cũng gắn liền với việc Nhà nước cần xây dựng quy định rõ ràng cho những
bước đi trong quy trình giao dịch M&A. Khi có được một nền tảng như vậy thì việc
đào tạo đội ngũ chuyên gia phục vụ cho công tác định giá sẽ dễ dàng hơn khi tác
nghiệp.
Làm được những điều trên thì thị trường M&A Việt Nam mới hoạt động tốt và
đi vào chuyên nghiệp, qua đó bảo vệ được quyền lợi hợp pháp của các bên trong
giao dịch M&A.
3.2.2 Về phía ngân hàng TMCP Sài Gòn sau sáp nhập
Xây dựng văn hoá doanh nghiệp sau hoạt động M&A
Một giao dịch M&A được gọi là thành công khi các vấn đề phát sinh sau
M&A được giải quyết thành công. Các yếu tố chính là sự hoà hợp về văn hoá doanh
nghiệp, kế hoạch điều hành và quản lý, nhân sự, quan hệ với các đối tác mới, quan
hệ và giao tiếp giữa các bộ phận và công ty thành viên…Trong đó, sự hoà hợp về
văn hoá là một trong các thách thức lớn nhất của hoạt động M&A, đặc biệt là yếu tố
quyết định đến sự thành công và thất bại của một giao dịch M&A. Khi hai doanh
nghiệp ở hai môi trường, vùng lãnh thổ hay quốc gia có những nét văn hoá, thói
quen hành xử, sự giao tiếp khác nhau về cùng một giá trị là điều rất phức tạp và cần
thời gian cho sự hoà hợp này. Do đó, trước khi tiến hành các thương vụ M&A, các
doanh nghiệp cần nghiên cứu kỹ lưỡng về văn hoá của doanh nghiệp mà mình định
mua lại hay sáp nhập.
Trong thương vụ M&A giữa ba ngân hàng TMCP Sài Gòn – Đệ Nhất – Tín
Nghĩa, có một yếu tố thuận lợi là cả ba ngân hàng này hình thành, phát triển và hoạt
động chủ yếu ở khu vực phía Nam và tập trung chủ yếu ở Thành phố Hồ Chí Minh;
đồng thời nắm quyền kiểm soát ba ngân hàng này thời gian gần đây là nhóm các
94
nhà đầu tư và công ty liên kết, do đó giữa ba ngân hàng này có sự tương đồng nhất
định về văn hóa, tạo điều kiện thuận lợi để ngân hàng sau sáp nhập có thể nhanh
chóng đạt được sự hòa hợp về văn hóa, góp phần tạo nên thành công của thương vụ
này.
Phát triển các nguồn lực cho ngân hàng (nhân lực, công nghệ - thông
tin…) hậu M&A
Thứ nhất, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực: Vấn đề giữ nhân sự cũng
quan trọng không kém, vì nếu không có sự điều hành nhân sự tốt dẫn đến sự bất
mãn và xung đột giữa người mới và người cũ, người có kinh nghiệm, am hiểu về thị
trường, gắn bó với khách hàng lâu năm dẫn đến việc họ bỏ công ty mới ra đi sẽ gây
ra những tổn thất không lường trước được. Chính vì thế, việc xây dựng chính sách
đãi ngộ để xây dựng lòng trung thành của họ cũng là giữ được lòng trung thành của
khách hàng đối với những người đã từng phục vụ họ. Thêm vào đó, trong quá trình
cơ cấu lại doanh nghiệp sau sáp nhập, nếu cần sa thải nhân viên phải có sự giải
thích rõ ràng.
Sau hợp nhất, toàn bộ nhân viên của ba ngân hàng sáp nhập sẽ trở thành nhân
viên của ngân hàng hợp nhất. Tuy nhiên, để giảm thiểu rủi ro thì một trong những
yêu cầu bắt buộc là nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho tất cả các cán bộ,
nhân viên trong ngân hàng, không chỉ là trình độ chuyên môn nghiệp vụ tài chính –
ngân hàng, mà còn đòi hỏi nâng cao trình độ kinh tế tổng hợp, bởi vì, có như vậy thì
ngân hàng mới tư vấn cho khách hàng của mình các định hướng đầu tư vốn hiệu
quả, đồng thời qua đó mới thẩm định chính xác các dự án đầu tư tín dụng. Cần chú
trọng chiến lược phát triển nguồn nhân lực theo hướng nâng cao chất lượng.
Một là, ngân hàng phải có chiến lược đúng đắn cho nguồn nhân lực trong
tương lai bằng cách đẩy mạnh hơn nữa chương trình liên kết, tài trợ tại các trường
đại học và trung tâm đào tạo.
Hai là, phải có chế độ đãi ngộ hợp lý đối với người lao động, tạo môi trường
thuận lợi để người lao động phát huy hết năng lực của mình, phải biết tôn trọng tài
năng của người lao động.
95