Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 111 trang )
thiệp bắt buộc khi cần thiết để bảo vệ tài sản của Nhà nước và nhân dân, bảo đảm an
toàn hệ thống ngân hàng. Nguyên tắc xử lý các tổ chức tín dụng yếu kém về cơ bản
theo trình tự trước hết bảo đảm khả năng chi trả của nhà băng, áp dụng các biện
pháp kiểm soát, giám sát thích hợp, thực hiện sáp nhập, hợp nhất tự nguyện hoặc
bắt buộc (khi cần thiết) và cơ cấu lại tài chính, quản trị, hoạt động.
Ngân hàng Nhà nước cho rằng sáp nhập, hợp nhất ngân hàng là xu hướng tất
yếu khách quan hiện nay để nâng cao khả năng cạnh tranh. Sáp nhập, hợp nhất ngân
hàng đem lại giá trị gia tăng lớn hơn so với khi các ngân hàng đứng riêng rẽ nhờ đạt
được lợi ích kinh tế theo quy mô lớn hơn, tăng uy tín, thương hiệu, giảm chi phí,
khai thác tối đa lợi thế kinh doanh của các bên tham gia, phát triển cơ sở khách
hàng, mạng lưới phân phối… Do đó, xu hướng sáp nhập, hợp nhất ngân hàng có thể
xảy giữa các ngân hàng lớn với nhau, giữa ngân hàng lớn và ngân hàng nhỏ, giữa
các ngân hàng nhỏ với nhau.
Đưa ra quan điểm lành mạnh hóa hệ thống Ngân hàng Việt Nam chứng tỏ
Ngân hàng Nhà nước đã nhìn thấy những bất cập của việc phát triển tràn lan và
nguy cơ của các tổ chức tín dụng quy mô nhỏ hoạt động không hiệu quả có thể làm
ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống ngân hàng. Đánh giá chủ trương tái cơ cấu, lành
mạnh hóa hệ thống ngân hàng, đặc biệt cho phép sáp nhập, hợp nhất, mua lại giữa
các ngân hàng cổ phần, có thể thấy đây là một cách đi đúng hướng phù hợp với xu
thế của ngành ngân hàng ở các nước đang phát triển.
1.5.4 Tổng quan về hoạt động mua bán và sáp nhập ngân hàng ở Việt Nam
2.1.2.1 Tổng quan về hoạt động M&A ở Việt Nam
Mặc dù hoạt động M&A đã diễn ra từ khá lâu trên thế giới nhưng tại Việt
Nam nó chỉ được hình thành sau khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997. Theo số
liệu của Cục đầu tư nước ngoài, số vụ M&A tăng khá đều với tỷ lệ tăng trưởng dao
động từ 0,8%-1,2%/năm từ năm 1998-2007. Từ chỗ chưa đến 50 vụ năm 1998, đến
năm 2011 đã tăng lên gần 500 vụ. Năm 2006, 2007 là hai năm có tốc độ tăng trưởng
cao nhất do ngày 7/11/2006 Việt Nam gia nhập WTO. Số liệu cho thấy thị trường
41
M&A ở Việt Nam đã “hút” mạnh nhà đầu tư nước ngoài so với trước thời điểm trở
thành thành viên WTO.
Hình 2.1: Tình hình hoạt động M&A Việt nam từ năm 2003 đến 2011
(Nguồn: IMAA)
Bảng 2.1: Số lƣợng và giá trị giao dịch của hoạt động M&A tại Việt Nam từ
năm 2005 đến quý I - 2012
Tổng số
%
Tổng giá trị thƣơng vụ
%
thƣơng vụ
Tăng/giảm
(Triệu đồng)
Tăng/giảm
2005
18
-
61
-
2006
38
111%
299
390%
2007
113
197%
1.753
486%
2008
146
29%
1.120
-36%
2009
295
102%
1.140
2%
2010
345
17%
1.750
54%
2011
412
19%
4.700
168%
Năm
Quý 1/2012
1.500
(Nguồn: Tổng hợp từ các website)
42
Theo thống kê ở Bảng 2.1, tính đến cuối năm 2007, có khoảng 113 vụ M&A
với tổng trị giá lên tới 1.753 tỷ USD, trong đó có 1.092 dự án chuyển nhượng vốn với
tổng giá trị 16,8 tỷ USD. Năm 2006, số vụ giao dịch M&A là 38 với tổng giá trị 299
triệu USD. Số liệu năm 2005, cả nước có 18 vụ M&A, tổng giá trị 61 triệu USD.
Theo báo cáo của Công ty kiểm toán PWC, số lượng và giá trị của các giao
dịch mua bán sát nhập có sự suy giảm, đặc biệt đối với các hoạt động giao dịch mua
bán trong nước và tình trạng này đã kéo dài sang nửa đầu năm 2009. Số lượng giao
dịch mua bán sáp nhập trong nước thấp cùng với việc định giá thấp đã ảnh hưởng
không tốt đến tổng quan hoạt động M&A. Tuy giá trị của các giao dịch M&A thấp
trong suốt nửa đầu năm 2009 nhưng đã tăng tích cực trong nửa cuối năm 2009.
Tuy nhiên, các giao dịch M&A đã tăng dần cả về số lượng và giá trị vào năm
2010 và tăng lên mức kỷ lục vào năm 2011 với 412 vụ giao dịch và tổng giá trị đạt
được là 4.7 tỷ đô la, đạt mức kỷ lục từ trước tới nay và được đánh giá là có tốc độ
tăng trưởng nhanh nhất trong khu vực Châu Á-Thái Bình Dương. Điều này sảy ra là
do khủng hoảng kinh tế và tài chính đã dẫn đến thiếu vốn đầu tư và lãi suất lên cao
tạo ra có nhiều tài sản giá rẻ. Và đây là cơ hội cho các tập đoàn nước ngoài và nhà
đầu tư chiến lược thực hiện thâm nhập thị trường Việt Nam qua hoạt động M&A.
Hình 2.2: So sánh tăng trưởng hoạt động M&A Việt nam và Châu Á Thái Bình Dương
(Nguồn: IMAA)
43
Cũng trong năm 2011, xét về số lượng thương vụ, các thương vụ liên quan đến
doanh nghiệp nội chiếm đa số với 77%. Con số này cho chúng ta thấy, hoạt động
M&A và chuyển nhượng diễn ra sôi động tại Việt Nam, dù giá trị các thương vụ
này không lớn. Các thống kê cho thấy các thương vụ doanh nghiệp Việt nam thực
hiện thường ở quy mô 2 – 5 triệu USD, một số ít ở mức 10 – 30 triệu USD. Tuy
nhiên, số lượng thương vụ nhiều cũng chứng tỏ, các doanh nghiệp đã chủ động hơn
trong hoạt động M&A và đang tiến hành tái cấu trúc các khoản đầu tư của mình, ví
dụ như chuyển nhượng các dự án hoặc công ty mà họ đã tham gia trong giai đoạn
tăng trưởng nóng trước đây.
Xét về giá trị thương vụ, các thương vụ lớn đều có yếu tố nước ngoài. Nhà đầu
tư nước ngoài chiếm tỷ lệ 66% giá trị các giao dịch M&A. Năm 2011, là năm có
nhiều thương vụ lớn được ghi nhận, và có thể cho thấy xu hướng nhà đầu tư nước
ngoài mua lại các doanh nghiệp chất lượng của Việt Nam.
Hình 2.3: Tỷ trọng M&A liên quan đến doanh nghiệp Việt nam và Doanh nghiệp
nước ngoài, xét về số lượng và giá trị thương vụ
(Nguồn: maf)
Nhìn vào đồ thị tỷ lệ M&A có yếu tố nội địa, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn
gia tăng về cả giá trị và thương vụ.
44
Hình 2.4: Tỷ lệ M&A liên quan đến doanh nghiệp nội địa
(Nguồn: maf)
Về các ngành diễn ra hoạt động M&A, ngành hàng tiêu dùng được đánh giá là
thu hút nhấ t , với tổ ng giá tri ̣thương vu ̣ lên đế n 1 tỷ USD, chiế m 25% tổ ng giá tri ̣
M&A ta ̣i Viê ̣t Nam . Bên cạnh đó, lĩnh vực tài chính – ngân hàng đươ ̣c các nhà đầ u
tư nước ngoài tiế p tu ̣c quan tâm . Các thông tin về Mizuho – Vietcombank, IFC –
Vietinbank...cho thấ y các nhà đầ u tư nước ngoài vẫn mong muố n đươ ̣c đầ u tư chiế n
lươ ̣c vào các tổ chức tài chính lớn cổ phần hóa.
Hình 2.5: Tỷ lệ các ngành nghề tham gia hoạt động M&A ở Việt Nam năm 2011
(Nguồn: maf)
45
Bảng 2.2: 10 thƣơng vụ M&A tiêu biểu năm 2011 tại Việt Nam
Thƣơng vụ
Giá trị (triệu USD)
VimpelCom – Beeline
196
C.P POKPHAND – CP Vietnam
609
KKR – Masan Consumer
159
Unicharm – Diana
128
Vincom – Vinpearl
-
Mizuho – Vietcombank
567
IFC – Vietinbank
182
Talanx – PVI
92
Fortis Healthcare – Y khoa Hoàn Mỹ
64
Mount Kellett Capital – Masan resources
94
(Nguồn: Avalue)
Riêng quý I/2012, giá trị các thương vụ M&A tại Việt Nam đạt 1,5 tỷ USD,
trong tổng giá trị 92,4 tỷ USD của cả khu vực châu Á - Thái Bình Dương (không
bao gồm Nhật Bản). Con số này đã góp phần đưa Việt Nam đứng thứ 8 trong số các
quốc gia có hoạt động M&A sôi động nhất khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Và
một trong những nguyên nhân khiến M&A bùng nổ là yêu cầu đổi mới, tái cấu trúc
của Nhà nước đối với hệ thống các doanh nghiệp, ngân hàng thương mại Việt Nam.
2.1.2.2 Tổng quan về hoạt động mua bán và sáp nhập ngân hàng ở Việt Nam
a. Giai đoạn trƣớc năm 2005:
Lịch sử của hệ thống tài chính – ngân hàng Việt Nam cũng đã trải qua nhiều
giai đoạn thăng trầm. M&A lĩnh vực tài chính đã khởi động bắt nguồn từ những yếu
kém nội tại của bản thân các ngân hàng và đề xuất chỉ đạo của Nhà nước và Chính
phủ.
Vào những năm 1989-1993, cả nước có 46 ngân hàng thì 10 ngân hàng buộc
phải sáp nhập. Đây là những ngân hàng yếu, mất khả năng thanh toán, càng hoạt
động càng lún sâu vào thua lỗ. Cụ thể là vốn điều lệ của những ngân hàng này khá
46
thấp, khoảng 5-20 tỷ đồng và nợ xấu của họ có tỷ trọng rất lớn, có đơn vị chiến tới
40-50% tổng dư nợ. Nếu để các ngân hàng này phá sản thì sẽ kéo theo nhiều hệ lụy
cho cả hệ thống ngân hàng. Vì vậy, thống đốc NHNN có chỉ thị yêu cầu các ngân
hàng lớn như Vietcombank, BIDV, Agribank… tiếp nhận hỗ trợ các ngân hàng yếu,
sáp nhập những ngân hàng này vào và tiếp nhận các khoản nợ và tiếp tục cho vay
những đối tượng có khả năng trả nợ. Sở dĩ có tình trạng như vậy là vì trước đây:
quy mô nền kinh tế nước ta còn nhỏ, bản thân ngân hàng cho vay không lành mạnh
và NHNN cũng chưa có cơ chế quản lý chặt chẽ. Trước tình hình đó, đề án “Chấn
chỉnh và sắp xếp lại các Ngân hàng TMCP Việt Nam” đã được Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt tại Quyết định số 212/1999/QĐ-TTg ngày 29/10/1999, với mục đích
nâng cao năng lực cạnh tranh của hệ thống NHTM Việt Nam. Triển khai thực hiện
Đề án này và trên cơ sở Quy chế 241 về sáp nhập, hợp nhất, mua lại tổ chức tín
dụng cổ phần Việt Nam, đã có một số ngân hàng TMCP nông thôn thực hiện việc
sáp nhập, cho ngân hàng khác mua lại, chuyển thành Ngân hàng TMCP đô thị. Mục
đích của đề án này là:
- Chỉnh sửa mô hình các ngân hàng TMCP cho đúng quy định của Luật các tổ
chức tín dụng, tạo điều kiện để các Ngân hàng hoạt động bình đẳng, tránh tình trạng
chia cắt thị trường bằng các quy định hành chính.
- Giảm bớt số lượng các NHTM nhỏ, từng bước hình thành các ngân hàng có
tiềm lực vốn lớn, công nghệ hiện đại có đủ năng lực cạnh tranh trong tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế.
- Thực hiện chiến lược phát triển ngành: nâng cao khả năng cạnh tranh của các
ngân hàng Việt Nam.
Để đạt được các mục tiêu trên, cần phải có thời gian và bước đi thích hợp, đảm
bảo sự an toàn của hệ thống, sự ổn định và phát triển bền vững của mỗi ngân hàng.
Do đó, giải pháp cơ cấu lại ngân hàng TMCP nông thôn được dựa trên cơ sở phân
loại các ngân hàng theo hai hướng:
47
- Cho phép các ngân hàng TMCP nông thôn được thực hiện việc chuyển đổi
thành ngân hàng TMCP đô thị đối với những ngân hàng TMCP nông thôn đủ điều
kiện và có nhu cầu chuyển đổi thành ngân hàng TMCP đô thị.
- Đối với các ngân hàng TMCP nông thôn trước mắt chưa đủ điều kiện và
không có nhu cầu chuyển đổi:
Trường hợp 1: Các ngân hàng tăng đủ vốn theo lộ trình quy định thì các ngân
hàng này có thể thay đổi giấy phép hoạt động như ngân hàng TMCP đô thị hoặc
hoạt động theo giấy phép cũ.
Trường hợp 2: Các ngân hàng không đủ điều kiện tăng vốn theo lộ trình quy
định được khuyến khích sáp nhập, hợp nhất vào các NHTM khác có tiềm lực về vốn
và năng lực tài chính, hoặc sử dụng các biện pháp cưỡng chế của Nhà nước như thu
hồi giấy phép đối với các ngân hàng nhỏ, hoạt động yếu kém nhưng không có biện
pháp khắc phục cũng như tăng quy mô vốn, hoặc cho phép xử lý tài sản đối với
ngân hàng theo quy định của Pháp luật về phá sản.
Xét về hoạt động của các ngân hàng TMCP: quá trình hình thành và phát triển
còn khá mới mẻ, vốn ít, thiếu kinh nghiệm trong vấn đề quản lý, điều hành kinh
doanh trong lĩnh vực ngân hàng, lại hoạt động trong môi trường kinh tế có nhiều
biến đổi và cạnh tranh lớn nên các ngân hàng nhỏ đã tỏ ra hoạt động không hiệu
quả, phát sinh các khoản nợ khó đòi. Mặt khác, một phần cũng từ chính các tổ chức
tín dụng cổ phần này không thực hiện nghiêm túc các quy định về quản lý rủi ro và
không đảm bảo được các hệ số an toàn trong hoạt động. Hệ quả là việc các tổ chức
tín dụng này lâm vào tình trạng mất kiểm soát trong hoạt động và phải chịu sự kiểm
soát đặc biệt của NHNN.
Theo Quyết định số 212/QĐ-TTg ngày 29/10/1999 của Thủ tướng Chính phủ
thì những ngân hàng này phải đứng trước sự lựa chọn là tuyên bố phá sản, thanh lý
giải thể, bị thu hồi giấy phép hoạt động và thực hiện mua bán, sáp nhập với tổ chức
tín dụng khác. Tuy nhiên, sự lựa chọn sáp nhập vào tổ chức tín dụng khác là sự lựa
chọn tối ưu và được NHNN khuyến khích bởi lẽ nếu một ngân hàng TMCP dù nhỏ
nhưng nếu phá sản sẽ ảnh hưởng dây chuyền đến cả hệ thống. Và hơn nữa, nếu điều
48
này sảy ra sẽ làm mất niềm tin của dân chúng đối với hệ thống ngân hàng còn non
trẻ thời điểm đó.
Bảng 2.3: Một số thƣơng vụ M&A giữa ngân hàng nông thôn và ngân hàng lớn
ở đô thị tại Việt Nam giai đoạn 1999-2004
Ngân hàng lớn ở đô thị
(Ngân hàng bán)
Năm
Ngân hàng nông thôn
(Ngân hàng mua)
1999
NH Đại Nam
NH TMCP Phương Nam
2001
NH Tứ Giác Long Xuyên (An NH TMCP Đông Á
Giang)
2001
NH Châu Phú (An Giang)
NH TMCP Phương Nam
2002
Quỹ tín dụng Định Công (Hà Nội)
NG TMCP Phương Nam
2002
NH Thạnh Thắng (Cần Thơ)
NH TMCP Sài Gòn Thương Tín
2003
NH Cái Sắn (Cần Thơ)
NH TMCP Phương Nam
2003
NH TMCP Tây Đô
NH TMCP Phương Đông
2003
NH Nam Đô
NH Đầu tư & phát triển Việt Nam
2003
NH Quế Đô
NH TMCP Quốc Tế
2004
NH TMCP nông thôn Tân Hiệp
NH TMCP Đông Á
(Nguồn: Tổng hợp từ các website)
b. Giai đoạn từ 2005 đến nay
Từ năm 2005 trở lại đây, khi Luật đầu tư nước ngoài năm 2005, Luật doanh
nghiệp 2005, Luật chứng khoán 2006 có hiệu lực, hoạt động M&A mới diễn ra sôi
nổi hơn. Đa số các ngân hàng đều mong muốn hình thành các tập đoàn tài chính
ngân hàng đa ngành, đa nghề (đầu tư theo chiều rộng) hay đầu tư chéo dưới hình
49
thức cổ đông chiến lược nhằm mục đích các bên cùng có lợi, từ đó tăng cường năng
lực cạnh tranh của ngân hàng. Việc sáp nhập ngân hàng trong nước đã ít đi, thay
vào đó là hoạt động đầu tư góp vốn, mua cổ phần của các nhà đầu tư trong và ngoài
nước đối với các NHTM Việt Nam thông qua việc trở thành đối tác chiến lược của
các ngân hàng đó. Nói cách khác, việc bán cổ phần cho các đối tác chiến lược, đặc
biệt là các đối tác nước ngoài ngày càng phổ biến trong hoạt động của các ngân
hàng Việt Nam, nhất là sau khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO với rất
nhiều cam kết về việc mở rộng thị trường tài chính – ngân hàng.
Bảng 2.4: Các thƣơng vụ M&A giữa công ty tài chính Việt Nam
và nhà đầu tƣ nƣớc ngoài
Tỷ lệ %
Đối tác nƣớc ngoài
Công ty mục tiêu
cổ phần
mua lại
Ngân hàng Hồng Kông – Thượng
NHTMCP Kỹ thương
Hải (HSBC)
(Techcombank)
Deutsche Bank
NH TMCP Nhà Hà Nội
20%
10%
(Habubank)
-Sumitomo Mitsui Banking
15%
Corporation
-VOF Investment Limited-British
5%
Virgin Islands
-Mirae Asset Exim Investment
NH TMCP Eximbank
4,5%
Limited thuộc tập đoàn Mirae
Asset Hàn Quốc
-Mirae Asset Maps Opportunity
0,5%
Vietnam Equity Balanced Fund 1
50
Ngân hàng OCBC Singapore
Ngân hàng BPN Paribas (Pháp)
Ngân hàng United Overseas Bank
(UOB)
Commonwealth of Australia
(CBA)
NH TMCP Các doanh nghiệp
15%
Ngoài Quốc Doanh (VPBank)
NH TMCP Phương Đông (OCB)
NH TMCP Phương Nam (PNB)
NH TMCP Quốc tế Việt Nam
15%
10%
15%
Standard Chartered
ACB
15%
Maybank
ABBank
20%
IFC
Vietinbank
10%
Tamesek
NH Phát triển Mekong
15%
Mizuho Corporate Bank
Vietcombank
15%
(Nguồn: Tổng hợp từ các website)
Hiện tại, việc các ngân hàng, tập đoàn tài chính nước ngoài mở rộng hoạt
động tại thị trường Việt Nam thông qua việc sở hữu vốn cổ phần của các NHTM
trong nước đã mang lại nhiều lợi ích cho cả hai bên trong quá trình hợp tác cũng
như cạnh tranh. Các NHTM Việt Nam đã nâng cao được năng lực tài chính, hiện
đại hoá được công nghệ, nâng cao chất lượng quản trị, nguồn nhân lực, mở rộng
phạm vi kinh doanh. Ðối với các ngân hàng và tập đoàn tài chính nước ngoài đã
không tốn kém chi phí mở chi nhánh mới, có sẵn mạng lưới hoạt động, cơ sở vật chất,
nguồn nhân lực và hơn cả là số lượng khách hàng sẵn có tại các NHTM Việt Nam.
Những vụ M&A dưới các hình thức mua bán cổ phần để trở thành đối tác
chiến lược như trên thực sự không đơn giản chỉ là hợp tác vì các tập đoàn tài chính
ngân hàng nước ngoài trước mắt là hợp tác chiến lược mua cổ phần của các ngân
hàng nội địa (do bị hạn chế về tỷ lệ sở hữu) nhưng thực chất về lâu dài khi Việt
51