1. Trang chủ >
  2. Nông - Lâm - Ngư >
  3. Ngư nghiệp >

Chương 1: Khái niệm, Vai trò đặc biệt và nội dung công nghiệp nông thôn (CNNT) Khái niệm công nghiệp nông thôn (CNNT)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 174 trang )


đời sống ấm no sung sướng cho nhân dân”. (Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính

trị quốc gia, Hà nội, 2000, t.10, tr.543.)

1.2. Khái niệm Công nghiệp nông thôn

1.2.1. Khái niệm CNNT ở Việt Nam

Ở Việt Nam, mặc dù khái niệm công nghiệp nông thôn mới chỉ chính thức được

nêu ra từ vài ba chục năm gần đây, song về mặt nội dung, nó đã có thực tế hoạt

động từ rất lâu, ở các mức độ khác nhau, gắn liền với sự phát triển của nông

nghiệp, nông thôn. Do đó, hoạt động của công nghiệp nông thôn không còn quá

mới mẻ đối với người Việt Nam.

Khái niệm "công nghiệp nông thôn" có xuất phát từ tình hình thực tế nước ta;

với nền sản xuất nông nghiệp thu hút gần 75% dân số sống ở khu vực nông

thôn. Trong một cơ cấu kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, có năng suất lao động

thấp, có nhu cầu về việc làm rất lớn và bức bách, thì việc phát triển CN ở nông

thôn sẽ góp phần rất lớn vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công

nghiệp hoá hiện đại hoá, nhất là tại địa phương các tỉnh đồng bằng sông Cửu

Long.

Khái niệm “công nghiệp nông thôn" hay "CN địa phương" được nêu ra từ sau

những năm 1970 nhưng trong thực tế thì CN nông thôn đã được hình thành

như một thực thể kinh tế độc lập với các trình độ phát triển khác nhau, gắn liền

với sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn như là một vấn đề tất yếu có ý

nghĩa chiến lược lâu dài ở các nước đang phát triển, cụ thể là nước ta.

Hiện tại còn có nhiều quan niệm khác nhau về công nghiệp nông thôn.

Hiện nay phát triển công nghiệp nông thôn là mối quan tâm chung của các nước

đang phát triển trên thế giới và cả ở nước ta. Nhưng do được tiếp cận ở nhiều

giác độ khác nhau nên có nhiều cách hiểu khác nhau về công nghiệp nông thôn,

theo đó mỗi nước có cách thức phát triển công nghiệp nông thôn riêng cho

mình và vì vậy kết quả thu được giữa các nước cũng khác nhau.

Công nghiệp nông thôn được định nghĩa khác nhau, tuỳ thuộc các cách tiếp

cận, nghiên cứu nó, tuỳ thuộc điều kiện phát triển của nó và tuỳ thuộc những

chiến lược, chính sách phát triển nó. Trên thực tế, ở mỗi nước khác nhau,

không chỉ khái niệm công nghiệp nông thôn được hiểu khác nhau mà bản thân

khái niệm nông thôn cũng được hiểu tương đối khác nhau.

Thường thì người ta chỉ định ra các tiêu chuẩn về một đô thị và coi các vùng

còn lại là nông thôn. Những tiêu thức này tuỳ thuộc rất nhiều vào trình độ phát

triển và các điều kiện lịch sử- xã hội của mỗi nước. Năm 1990, một đề tài

nghiên cứu cấp Bộ thuộc Uỷ ban Khoa học Nhà nước (do GS. Lê Quí An làm

chủ nhiệm) tìm cách định nghĩa đô thị một cách khái quát, coi “một đô thị phải

có đủ các tiêu chuẩn: mật độ dân cư cao hơn gấp 2 lần mật độ dân cư trung

bình, hoạt động kinh tế phi nông nghiệp phải chiếm từ 60% trở lên và cấu trúc

hạ tầng tương đối thuận tiện”. Theo các tác giả đề tài này thì nhiều thị trấn, “nơi

mà sự phát triển và tồn tại của chúng phụ thuộc nhiều vào các vùng nông thôn



(phụ thuộc nhiều vào nông nghiệp và ngược lại, bảo đảm các dịch vụ thiết yếu

cho người nông dân nông thôn)”, cũng được coi là nông thôn.

Kế tiếp những chương trình nghiên cứu phát triển tiểu thủ công nghiệp ở Việt

Nam trong những năm từ khi miền Bắc được giải phóng như Chương trình 60UB nói trên đã nhấn mạnh vai trò của việc phát triển tiểu thủ công nghiệp ở Việt

Nam. Đặt vấn đề này trong bối cảnh công nghiệp hoá và phát triển kinh tế - xã

hội nông thôn, Chương trình lần đầu tiên sử dụng thuật ngữ “công nghiệp nông

thôn” với nhận thức rằng nó bao gồm thủ công nghiệp cùng với công nghiệp

vừa và nhỏ ở nông thôn.

Nhận thức về khái niệm CNNT hiện còn có nhiều khác biệt dù đây là một vấn đề

thường được chú ý nhắc tới trong những Nghị quyết hoặc kế hoạch phát triển

của cả nước cũng như tại các địa phương. Trong Văn kiện Hội nghị lần thứ năm

Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII (tháng 6/1993) thuật ngữ “công

nghiệp nông thôn” đã được chính thức đưa vào Văn kiện của Đảng (trang 1314). Sự xác định CNNT có liên quan đến việc hoạch định các chính sách và các

giải pháp cụ thể của chính quyền địa phương để hỗ trợ cho công nghiệp nông

thôn phát triển một cách đúng đắn. Điều này có ý nghĩa rất lớn khi đa số các

dạng hoạt động công nghiệp ở nông thôn thường có quy mô vừa và nhỏ, quá

trình sản xuất kinh doanh đều có liên quan chặt chẽ với sản xuất nông nghiệp

và gắn với sự phát triển của nông thôn.

Về thực chất, CNNT là một khái niệm thường được dùng để chỉ một bộ phận

của ngành công nghiệp được tiến hành ở nông thôn, là công nghiệp đóng trên

địa bàn nông thôn, sử dụng chủ yếu các nguồn lực tại chỗ (vốn, nguyên liệu, lao

động…) phục vụ trực tiếp cho phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn. Có thể nói

"công nghiệp nông thôn" hay "công nghiệp hoá nông thôn" gần giống nhau ở

cách tiếp cận vấn đề, triển khai vấn đề nhằm thực thi được những mục tiêu

như: xoá đói giảm nghèo, tăng thu nhập thông qua con đường phi thuần nông,

chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở địa phương theo hướng tăng hàm lượng công

nghiệp - dịch vụ, chú trọng đầu tư áp dụng khoa học công nghệ ngày càng tăng

vào sản xuất nông nghiệp và công nghiệp ở nông thôn.

Tóm lại, CNNT là một bộ phận của công nghiệp cả nước, được phân bố ở địa

bàn nông thôn, có quan hệ mật thiết với sự phát triển kinh tế xã hội ở nông thôn,

bao gồm hoạt động sản xuất kinh doanh của các hộ gia đình, những cơ sở công

nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau với những trình độ và hình thức

tổ chức khác nhau, trên cơ sở khai thác các nguồn lực ở địa phương phục vụ

thị trường địa phương, cả nước và xuất khẩu.

1.2.2. Khái niệm CNNT ở các nước

Trên phạm vi thế giới, khái niệm công nghiệp nông thôn cũng đã trải qua một

quá trình hình thành khá lâu, trước khi được sử dụng chính thức như ngày nay.

Cho tới những năm 70 của thế kỷ XX, người ta còn sử dụng nhiều khái niệm

khác nhau như công nghiệp làng xã (village industry), công nghiệp nông thôn

(rural industry), các hoạt động sản xuất phi công nghiệp ở nông thôn (non-farm

activities). Lúc đầu, khái niệm này được dùng để chỉ toàn bộ các hoạt động sản



xuất phi nông nghiệp của các hộ dân cư ở vùng nông thôn của các nước chậm

phát triển và sản xuất tiểu-thủ công nghiệp của các hộ nông dân ở nông thôn.

Về sau, khái niệm này được mở rộng sang cả các hoạt động của các doanh

nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn các nước này.

Từ giữa thập kỷ 70 của thế kỷ XX trở đi, do thành quả của phong trào đấu tranh

giải phóng dân tộc, hàng loạt nước giành được độc lập và phát triển đất nước

theo hướng xã hội chủ nghĩa. Hầu hết các nước này đều ở trình độ kém phát

triển so với mức phát triển chung của thế giới. Việc lựa chọn chiến lược phát

triển sao cho hợp lý trong điều kiện đại bộ phận dân cư sống ở nông thôn, nền

kinh tế hàng hoá kém phát triển, thị trường nhỏ bé và phân tán… đòi hỏi phải

giải quyết mối quan hệ giữa phát triển các đô thị, các trung tâm công nghiệp với

các khu vực nông thôn. Hơn nữa, trên phạm vi toàn cầu, vấn đề nước giàu nước nghèo ngày càng trở nên gay gắt; một số nhà kinh tế đòi hỏi cần xem vấn

đề đói nghèo trên thế giới như một trở ngại, thách thức đối với sự phát triển của

nền kinh tế quốc tế. Đó là những nguyên nhân quan trọng nhất dẫn tới việc các

tổ chức quốc tế như UNIDO, UNDP tổ chức hàng loạt cuộc hội thảo về công

nghiệp nông thôn và việc phát triển công nghiệp nông thôn ở các nước đang

phát triển.

Khái niệm Công nghiệp nông thôn (rural industry) được chính thức đề cập tới

lần đầu tại một hội thảo do UNIDO tổ chức tại Paris. Hội thảo này không nhằm

đưa ra định nghĩa về công nghiệp nông thôn, nhưng bàn đến vai trò, kinh

nghiệm phát triển công nghiệp nông thôn ở các nước đang phát triển. Trên thực

tế, trong tham luận của mình, các đại biểu dùng những nội hàm khác nhau để

mô tả thực thể này. Đại bộ phận đều coi đó là công nghiệp vừa và nhỏ ở nông

thôn, chủ yếu là thủ công nghiệp và các doanh nghiệp có quy mô nhỏ, sử dụng

lao động tại chỗ, công nghệ thủ công hoặc bán cơ giới, cung cấp sản phẩm trực

tiếp cho nhu cầu địa phương (kể cả nhu cầu về sản phẩm và các dịch vụ có tính

công nghiệp như sửa chữa cơ khí, lắp ráp thiết bị, điện nước,…).

Có quan niệm cho rằng: “CNNT là công nghiệp đóng trên địa bàn nông thôn,

phục vụ nông thôn và do chính quyền địa phương quản lý”.

Lại có quan niệm khác cho rằng: CNNT là công nghiệp phục vụ nông thôn, bao

gồm phần công nghiệp phân bố ở nông thôn và cả phần công nghiệp ở thành thị

phục vụ cho nông thôn.

Cũng có quan niệm cho rằng: "Công nghiệp nông thôn là một bộ phận của công

nghiệp với các trình độ phát triển khác nhau; phân bố ở nông thôn, gắn liền với

sự phát triển kinh tế xã hội của nông thôn, bao gồm nhiều ngành nghề gồm bộ

phận sản xuất công nghiệp và các dịch vụ có tính chất công nghiệp ở nông thôn

của thợ thủ công chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp, các DNTN, công ty

trách nhiệm hữu hạn, các HTX và tổ hợp tác, tổ sản xuất CN và thủ công

nghiệp, các xí nghiệp quốc doanh chế biến lương thực thực phẩm hoặc các xí

nghiệp CN khác với quy mô vừa và nhỏ mà hoạt động của nó trực tiếp gắn với

kinh tế địa phương, đan kết chặt chẽ với kinh tế nông thôn".



Bên cạnh đó cũng có một số tác giả đã sử dụng thuật ngữ CNNT để bao hàm

toàn bộ những hoạt động phi nông nghiệp diễn ra ở nông thôn tức là bao gồm

cả công nghiệp - tiểu thủ CN, xây dựng, thương nghiệp và các loại hoạt động

dịch vụ khác.

1.2.3. Các quan điểm về phát triển CNNT

a. Cho tới nay, vấn đề phát triển công nghiệp nông thôn ở Việt Nam vẫn còn

chịu tác động của ba cách tiếp cận khác nhau khá rõ nét:

- Cách tiếp cận từ giác độ kinh tế lãnh thổ. Theo quan điểm này, công nghiệp

nông thôn được xem như một bộ phận của kinh tế lãnh thổ, công nghiệp nông

thôn là công nghiệp được phân bố ở nông thôn.

- Cách tiếp cận từ giác độ kinh tế ngành. Theo cách tiếp cận này, công nghiệp

nông thôn được xem như một bộ phận của toàn bộ ngành công nghiệp, có đặc

điểm là phân bố ở nông thôn, gắn bó với các đơn vị sản xuất kinh doanh khác

trong ngành bởi những quan hệ kinh tế-kỹ thuật, việc phát triển nó phải được

đặt trong chương trình phát triển công nghiệp nói chung, là một nội dung của

công nghiệp hoá.

- Cách tiếp cận từ khía cạnh kinh tế - xã hội. Theo cách tiếp cận này, công

nghiệp nông thôn được xem là toàn bộ những hoạt động sản xuất có tính công

nghiệp ở nông thôn, là những biện pháp góp phần phát triển kinh tế - xã hội

nông thôn và giải quyết những nhiệm vụ kinh tế - xã hội ở nông thôn nói chung

và mỗi vùng nông thôn cụ thể nói riêng.

b. Cùng tuỳ thuộc vào cách tiếp cận và quan niệm về công nghiệp nông thôn mà

hiện nay có ba quan điểm cơ bản khác nhau về công nghiệp nông thôn. Đó là:

- Công nghiệp nông thôn bao gồm toàn bộ công nghiệp ở nông thôn.

- Công nghiệp nông thôn bao gồm bộ phận công nghiệp phục vụ trực tiếp cho

nông thôn, nhưng không nhất thiết phải nằm ở nông thôn.

- Công nghiệp nông thôn là bộ phận của công nghiệp nằm ở nông thôn, gắn bó

trực tiếp và chặt chẽ với các hoạt động sản xuất-kinh doanh ở địa phương.

Cũng như nền kinh tế quốc dân nói chung, công nghiệp nông thôn có tính chất

động và có tính tương đối, luôn có sự vận động và chuyển hoá; một doanh

nghiệp thuộc công nghiệp nông thôn có thể chuyển hoá, vượt khỏi giới hạn địa

phương, ngược lại, cũng có sự chuyển hoá ngược lại, từ những doanh nghiệp

lớn, vượt khỏi tầm của doanh nghiệp công nghiệp nông thôn bị suy sút do nhiều

nguyên nhân, chỉ còn là những doanh nghiệp kinh doanh trên phạm vi địa

phương như một doanh nghiệp nông thôn.

2.Vị trí, vai trò và sự cần thiết CNNT

2.1. Vị trí của công nghiệp nông thôn trong phát triển kinh tế xã hội nông

thôn



Hiện nay hầu hết các nước đang phát triển trên thế giới đều chú trọng phát triển

công nghiệp nông thôn và coi đó là một giải pháp hữu hiệu để tạo nhiều sản

phẩm cho xã hội, giải quyết vấn đề tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập cho

dân cư nông thôn; là cơ sở để xã hội nông thôn phát triển ổn định, đồng thời

cũng là biện pháp nhằm hạn chế sự tập trung quá mức dân cư ở các đô thị do

các đợt di dân tự phát từ nông thôn tràn về thành phố.

Đối với nước ta; phát triển công nghiệp nông thôn không chỉ có tác dụng nâng

cao đời sống dân cư nông thôn mà còn có tác dụng đưa kinh tế - xã hội nông

thôn tiến lên văn minh hiện đại. Phát triển công nghiệp nông thôn đã trở thành

một bộ phận quan trọng trong chương trình phát triển kinh tế - xã hội nông thôn,

đồng thời là một nội dung trọng yếu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá

nông nghiệp, nông thôn nước ta nói chung.

Ngoài ra, phát triển công nghiệp nông thôn còn là giải pháp nhằm thúc đẩy nông

nghiệp phát triển toàn diện, đạt hiệu quả cao, kinh tế - xã hội nông thôn phát

triển ổn định bền vững. Phát triển công nghiệp nông thôn là con đường góp

phần cùng các ngành nghề thương mại dịch vụ khác đưa nông thôn thoát khỏi

đói nghèo, nhân dân ngày càng có cuộc sống ấm no hạnh phúc.

Tương tự, khi một vùng nông thôn có công nghiệp kém phát triển, sản xuất công

nghiệp ở đó chỉ là công nghiệp nông thôn. Nhưng khi bộ phận công nghiệp

nông thôn này phát triển đến trình độ cao hơn, tách hẳn ra khỏi sản xuất nông

nghiệp, làm cho nó mất đi những dấu hiệu đặc trưng của công nghiệp nông thôn

và làm cho địa phương đó được đô thị hoá, trở thành một đô thị (thành phố, thị

xã) thì nó không còn là công nghiệp nông thôn nữa. Điều này thường xảy ra khi

có sự phát triển mạnh mẽ của các làng nghề truyền thống (gắn liền với việc đô

thị hoá mạnh mẽ các làng nghề đó), có sự xuất hiện của một hoặc một số

doanh nghiệp công nghiệp tại một khu vực nông thôn. Chính điều này làm cho

ranh giới giữa công nghiệp nông thôn và công nghiệp ở các đô thị, các trung

tâm công nghiệp rất khó xác định. Hơn nữa, sản xuất của mỗi doanh nghiệp

thường xuyên biến động, làm cho việc luân chuyển thứ hạng, sự phân loại của

chúng cũng có thể diễn ra một cách thường xuyên từ doanh nghiệp công nghiệp

nông thôn thành doanh nghiệp công nghiệp đô thị và ngược lại.

Xuất phát từ nhận thức về khái niệm công nghiệp nông thôn như trên, có thể

khẳng định rằng công nghiệp nông thôn ở nước ta đã hình thành và thực sự trở

thành một thực thể kinh tế. Nó bao gồm những hoạt động sản xuất của:

- Các đơn vị sản xuất kinh doanh ở nông thôn (các hợp tác xã, các công ty trách

nhiệm hữu hạn, các doanh nghiệp tư nhân, các công ty cổ phần,…) chuyên

doanh hoặc kiêm sản xuất tiểu thủ công nghiệp;

- Các doanh nghiệp công nghiệp nhà nước quy mô nhỏ, sản xuất kinh doanh

trên cơ sở khai thác các nguồn lực tại địa phương, phục vụ thị trường địa

phương là chính và hoạt động của chúng gắn liền với kinh tế địa phương;

- Các hộ gia đình, hộ cá thể và các cá nhân người lao động thuộc các ngành

nghề CN-TTCN ở nông thôn.



Bộ Công nghiệp đã trình Chính phủ Chiến lược phát triển ngành tiểu thủ công

nghiệp giai đoạn 2006-2015, trong đó đặt mục tiêu giải quyết việc làm thường

xuyên cho 1,5 triệu lao động và từ 3-5 triệu lao động nông nhàn.

Chiến lược có tổng vốn đầu tư 92,4 tỷ đồng này nhằm thiết lập hệ thống sản

xuất cạnh tranh và bền vững, phát triển các sản phẩm thủ công và tăng cường

năng lực cho các làng nghề.

Theo chiến lược, vùng Đồng bằng sông Hồng - nơi tập trung nhiều làng nghề

trong khu vực - sẽ thực hiện việc tổ chức hợp tác giữa các làng nghề để phát

triển ngành nghề thủ công có nhiều lao động tham gia, hỗ trợ phát triển sản

phẩm mới sử dụng tay nghề thủ công truyền thống và nguyên vật liệu tại địa

phương.

Đối với khu vực ven biển Bắc Trung bộ và Nam Trung bộ do có nguồn tài

nguyên thiên nhiên phong phú sẽ phát triển thành vùng cung cấp nguyên liệu,

đồng thời thúc đẩy hợp tác nghiên cứu các sản phẩm thủ công truyền thống và

trao đổi văn hoá, giáo dục với các nước khác.

Ở khu vực Đông Nam bộ sẽ phát triển các sản phẩm mới, nhất là các sản phẩm

thủ công có tính cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Riêng khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, Bộ Công nghiệp chủ trương khuyến

khích các làng nghề kinh doanh chế biến sản phẩm thủ công và nông nghiệp

bằng việc sử dụng nguyên liệu tại chỗ và kết hợp chặt chẽ với phát triển du lịch

ở các vùng nông thôn.

Theo Bộ Công nghiệp, hiện cả nước có khoảng 100 nghề thủ công với hơn

2.000 làng nghề, tạo việc làm cho 30% lao động tại nông thôn với thu nhập bình

quân cao gấp 3-4 lần so với việc làm từ sản xuất nông nghiệp.

2.2. Vai trò quan trọng của CNNT

Trong cơ cấu kinh tế nông thôn, nếu có định hướng đúng và giải pháp phát triển

phù hợp thì công nghiệp nông thôn sẽ có vai trò to lớn. Thể hiện ở các mặt sau

đây:

2.2.1. Phát triển công nghiệp nông thôn cho phép phát huy năng lực nội sinh,

khai thác kịp thời những lợi thế vốn có ở nông thôn trong quá trình công nghiệp

hoá

Xét về bản chất, công nghiệp hoá nông thôn là khái niệm dùng để chỉ quá trình

biến đổi của công nghiệp nông thôn từ chỗ chỉ là các hoạt động kinh tế phụ

trong cơ cấu kinh tế thuần nông truyền thống trở thành ngành sản xuất chính

trong cơ cấu kinh tế mới ở nông thôn. Nói một cách đầy đủ hơn đó là quá trình

chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng giảm dần tỷ trọng của nông

nghiệp và gia tăng dần tỷ trọng của các ngành phi nông nghiệp (công nghiệp,

xây dựng, thương mại, dịch vụ) trên địa bàn nông thôn.

Trên thực tế công nghiệp nông thôn là quá trình biến đổi kinh tế nông thôn dưới

sự biến đổi tự nó (hay còn gọi là năng lực nội sinh), các tác động tiêu cực và



tích cực của nền kinh tế thị trường và quá trình tác động của Nhà nước (các cấp

trung ương, địa phương và cơ sở) theo định hướng chung. Ở những trình độ

phát triển nhất định, bản thân công nghiệp nông thôn cũng hàm chứa những xu

hướng và những điều kiện biến đổi của chính nó như là những nhu cầu biến đổi

khách quan.

Mặt khác, các ngành công nghiệp nông thôn cũng không thể tồn tại và phát triển

được nếu thiếu các tác động đúng lúc, đúng chỗ của các cơ quan Nhà nước

các cấp. Lịch sử đã cho thấy nếu để cho kinh tế nông thôn tự phát vận động

phát triển thì phải mất hàng trăm năm cho quá trình công nghiệp hoá nông thôn,

với những hậu quả tiêu cực về tàn phá môi sinh, gây căng thẳng và xung đột xã

hội.

Các hoạt động công nghiệp nông thôn chỉ có thể phát triển vững chắc khi nó

được tiến hành như một đòi hỏi khách quan và là một khâu tiếp theo của sản

xuất nông nghiệp ở nông thôn, xuất phát từ chính nhu cầu của nông thôn, cụ

thể là nhu cầu của người dân, của thị trường cung và cầu các dạng sản phẩm

gắn với quá trình phát triển kinh tế xã hội nông thôn.

Trong quá khứ, đã có lúc chiến lược công nghiệp hoá ưu tiên phát triển công

nghiệp nặng, công nghiệp lớn trên thực tế đã coi nhẹ vai trò của các ngành

nghề tiểu thủ công nghiệp vốn có quan hệ trực tiếp và hữu cơ với sản xuất nông

nghiệp ở nông thôn về mặt cung cấp nguyên liệu chế biến, sử dụng lao động lúc

nông nhàn… Về mặt tổ chức sản xuất, các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp khi

đó chỉ được coi là một ngành nghề phụ trong hợp tác xã nông nghiệp kiểu cũ.

Việc tiến hành công nghiệp hoá hiện nay đòi hỏi phải huy động các nguồn lực

nội sinh. Trong đó đại bộ phận tài nguyên thiên nhiên, nhân lực và các tinh hoa

truyền thống chủ yếu phân bổ ở các vùng nông thôn. Do vậy, cũng có thể nói

đây là những lợi thế của nông thôn. Trong bối cảnh đó, việc đưa các nguồn tài

nguyên (tài nguyên thiên nhiên, nhân lực và các tinh hoa truyền thống ) này vào

quá trình công nghiệp hoá đất nước tất yếu phải thông qua các ngành công

nghiệp nông thôn, ít nhất là trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá.

2.2.2. Phát triển CNNT góp phần tạo ra sự phát triển cân đối các ngành, các

vùng của kinh tế nông thôn trong quá trình công nghiệp hoá

Công nghiệp hoá được hiểu như một quá trình chuyển dịch toàn diện cơ cấu

kinh tế, nâng cao trình độ kỹ thuật - công nghệ và tổ chức sản xuất của nền kinh

tế, làm cho các ngành kinh tế có sự phối hợp chặt chẽ với nhau.

Ở các nước đang phát triển, công nghiệp hoá bao gồm bốn nội dung cơ bản là:

- Xây dựng một nền công nghiệp phát triển bền vững;

- Xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng cho nền công nghiệp đó;

- Đào tạo một đội ngũ lao động có đủ khả năng vận hành, khai thác nền công

nghiệp đã được tạo ra;



- Xây dựng và hoàn thiện việc tổ chức hệ thống công nghiệp, đồng thời với việc

hoàn thiện công tác quản lý, điều tiết hệ thống đó.

Trong quá trình công nghiệp hoá, phát triển các ngành công nghiệp nông thôn

phù hợp với điều kiện cụ thể của từng nơi sẽ tạo ra mối liên hệ phía sau của

sản xuất nông nghiệp. Nghĩa là một lực hút của các nhu cầu sẽ được tạo ra từ

phía các ngành công nghiệp chế biến để kích thích nông nghiệp phát triển vững

chắc theo chiều sâu. Mặt khác, phát triển công nghiệp nông thôn cũng góp phần

hình thành các mối liên kết phía trước sản xuất nông nghiệp, thúc đẩy sự hình

thành và phát triển các ngành dịch vụ phục vụ cho nông nghiệp và phát triển

nông thôn.

Kinh nghiệm các nước đã cho thấy các ngành công nghiệp nông thôn, đặc biệt

là công nghiệp chế biến, tạo ra các sản phẩm trung gian cho nên thường có hệ

số liên kết phía trước và phía sau lớn. Chính vì vậy, phát triển các ngành công

nghiệp nông thôn trong giai đoạn đầu thời kỳ công nghiệp hoá là cách đi vững

chắc tạo nên các liên kết ngành và liên kết vùng, cho phép khai thác các nguồn

năng lực nội sinh của nền kinh tế.

Ví dụ: Một cụm nhà máy xay xát, chế biến lau bóng gạo tại nông thôn có thể tiêu

thụ một khối lượng lớn lúa hàng hoá của nông dân vùng lân cận nhà máy; thông

qua những người đi thu mua (bạn hàng xáo), phục vụ nhu cầu xay gạo để ăn

của các hộ dân cư và người bán gạo lẽ ở khu vực xung quanh, đồng thời cung

cấp sản phẩm phụ là tấm, cám cho những người nuôi cá, cho nhà máy chế biến

thức ăn gia súc hay cung cấp trấu cho các lò gạch, lò nấu rượu, người nấu cám

nuôi cá… Đồng thời tạo nhiều việc làm cho những người trực tiếp hay gián tiếp

liên quan đến hoạt động xay xát của nhà máy (chủ doanh nghiệp, công nhân

bốc vác, thợ máy, thợ bàn gằng, kế toán, người cung cấp dịch vụ ăn uống cho

nhân công, bạn hàng xáo, nông dân, người xay lúa lẽ (tiêu dùng), chủ ghe vận

chuyển lúa gạo, công ty xuất khẩu gạo, xưởng sửa chữa cơ khí…)

2.2.3. Phát triển CNNT sẽ phân bổ lại lao động và dân cư, tạo việc làm tại chỗ,

tăng thu nhập và sức mua cho thị trường nông thôn

Việc làm cho người lao động là vấn đề kinh tế - xã hội phổ biến và luôn mang

tính thời sự ở mỗi quốc gia, bởi vì đảm bảo an toàn việc làm là một trong những

yếu tố cơ bản đảm bảo phát triển bền vững. Trong nhiều năm qua, Nhà nước

đã thực hiện một hệ thống chính sách đồng bộ về khuyến khích đầu tư, chuyển

dịch cơ cấu kinh tế, đa dạng hoá ngành nghề… nên đã tạo thêm hàng triệu chỗ

làm việc mỗi năm.

Tuy nhiên, đến hết năm 2000, tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị vẫn chiếm 6,44% lực

lượng lao động và năm 2005, tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị trên cả nước

là 5,3%. Tại thời điểm điều tra 01-7-2005, lực lượng lao động (bao gồm trong độ

tuổi lao động và trên độ tuổi lao động) của cả nước có 44,385 triệu lao động,

tăng 2,6% so với năm 2004. Thống kê cũng cho thấy, từ năm 2001 tới nay, lực

lượng lao động đang tiếp tục tăng với tốc độ cao; bình quân mỗi năm tăng

2,4%, tương đương với khoảng hơn một triệu lao động. Trong đó, khu vực

thành thị tăng gấp 2,5 lần so với nông thôn. Riêng năm 2005, so với năm 2004,



lực lượng lao động Việt Nam được bổ sung 1,143 triệu người nhưng tỷ lệ đã

qua đào tạo không cao. Đến nay, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo mới chiếm

24,8% tổng lực lượng lao động, chưa đạt chỉ tiêu 30% đã đặt ra. Đó là chưa kể

tới chất lượng lao động đã qua đào tạo chưa đáp ứng được nhu cầu của thị

trường lao động phát triển, đặc biệt là các vùng kinh tế trọng điểm, các khu đô

thị tập trung.

Tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực đô thị trong cả nước của lực lượng lao động trong

độ tuổi lao động năm 2005 là 5,3% (giảm 0,3% so với năm 2004 là 5,6%). Trong

các vùng, khu vực thì vùng Đông Nam Bộ và vùng đồng bằng sông Hồng có tỷ

lệ thất nghiệp cao hơn (5,6%); vùng Đông bắc và duyên hải Nam Trung Bộ (từ

5,1 đến 5,5%); các vùng khác thấp hơn ở dưới mức 5%.

Tỷ lệ thời gian lao động được sử dụng ở khu vực nông thôn trong cả nước là

80,7%, tăng 1,6% so với năm 2004. Một số vùng, khu vực nông thôn đạt tỷ lệ

hơn 80%. Như vậy, ở vùng nông thôn hiện nay là nơi sử dụng khoảng 70% lực

lượng lao động xã hội, tức khoảng 27 triệu người, nhưng khoảng 20% thời gian

lao động của họ chưa được sử dụng.

Cuộc điều tra cũng cho biết, cả nước hiện có 4,413 triệu người làm việc ở khu

vực Nhà nước, chiếm 10,2%; có 38,355 triệu người làm việc ở khu vực ngoài

Nhà nước, chiếm 88,2% và hơn 687 nghìn người làm việc ở khu vực có vốn

đầu tư nước ngoài, chiếm 1,6%.

Về cơ cấu lao động có việc làm, cả nước có hơn 24,677 triệu người làm việc

chính ở khu vực I (nông, lâm nghiệp và thuỷ sản), chiếm 56,8%; hơn 7,769 triệu

người làm việc chính ở khu vực II (công nghiệp và xây dựng), chiếm 17,9%; và

hơn 1,1 triệu người làm việc chính ở khu vực III (dịch vụ), chiếm 25,3%.

Rõ ràng, khoảng trống việc làm ở các vị trí có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao,

tay nghề giỏi vẫn chưa được lấp đầy. Chất lượng lao động và số lượng lao

động tăng không song hành đang làm gia tăng áp lực việc làm ở Việt Nam.

Thiếu việc làm ở nông thôn dẫn đến tình trạng di dân ra thành thị, tạo nên nhiều

bức xúc về các vấn đề xã hội.

Nếu phát triển mạnh các ngành nghề phi nông nghiệp, đặc biệt là các ngành

công nghiệp nông thôn sẽ tạo ra việc làm tại chỗ, góp phần phân bố lao động và

dân cư hợp lý đảm bảo phát triển ổn định theo phương châm “ly nông bất ly

hương”. Hơn nữa, phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp ở nông thôn

thường cho thu nhập cao hơn làm nông nghiệp, cho nên sẽ góp phần tăng thêm

thu nhập và tăng sức mua cho thị trường nông thôn.

Mục tiêu của Chương trình Quốc gia về việc làm giai đoạn 2001 –2005 của

nước ta là: Mỗi năm giải quyết việc làm cho 1,4 -1,5 triệu lao động, giảm tỉ lệ

thất nghiệp ở thành thị xuống dưới 5,4% và nâng tỉ lệ sử dụng thời gian lao

động ở nông thôn lên 80% vào năm 2005.

Mục tiêu của Chương trình này trong giai đoạn 2006 – 2010: Giải quyết việc làm

cho khoảng 7,5 – 8 triệu lao động trên cơ sở duy trì tỉ lệ tăng GDP hàng năm

trên 7% để tạo 5,5 – 6 triệu việc làm mới. Bình quân mỗi năm thu hút giải quyết



việc làm cho khoảng 1,5 - 1,6 triệu người; giảm tỉ lệ thất nghiệp ở khu vực thành

thị xuống 5%, tăng tỉ lệ sử dụng thời gian lao động ở khu vực nông thôn lên

85% vào năm 2010. Chuyển dịch mạnh cơ cấu lao động theo hướng giảm dần tỉ

trọng lao động nông, lâm nghiệp xuống 50%, công nghiệp xây dựng 23%,

thương mại, dịch vụ 27% vào năm 2010.

2.2.4. Phát triển công nghiệp nông thôn góp phần hiện đại hoá nông thôn, xây

dựng nông thôn mới

Để đáp ứng yêu cầu phát triển các ngành công nghiệp nông thôn, đòi hỏi kết

cấu hạ tầng ở nông thôn như hệ thống giao thông, điện, nước, thông tin liên lạc,

các tụ điểm văn hoá hay trung tâm giao lưu kinh tế… phải ngày càng được nâng

cấp và phát triển.

Ngược lại, công nghiệp nông thôn khi phát triển sẽ tạo điều kiện để tích luỹ vốn,

tăng cường xây dựng kết cấu hạ tầng của vùng nông thôn. Với tính chất là kết

quả của sự tác động biện chứng trong quá trình phát triển như trên, phát triển

công nghiệp nông thôn sẽ góp phần thúc đẩy quá trình hiện đại hoá nông thôn,

xây dựng nông thôn mới.

Nhờ đó làm giảm bớt khoảng cách chênh lệch về mức sống giữa thành thị và

nông thôn, đảm bảo công bằng xã hội, tạo cơ hội sống không quá khác nhau

cho mọi công dân bất kể người đó sống ở thành thị hay nông thôn.

2.2.5. Phát triển công nghiệp nông thôn là cơ hội để củng cố, tăng cường và

phát huy những giá trị văn hoá truyền thống dân tộc

Các giá trị văn hoá truyền thống của một dân tộc là rất phong phú, thể hiện dưới

các dạng vật thể và phi vật thể. Dưới dạng vật thể, các giá trị đó thể hiện ở

trong các sản phẩm vật chất được tạo ra. Phát triển các ngành nghề công

nghiệp nông thôn, đặc biệt là các ngành nghề thủ công truyền thống sẽ góp

phần củng cố, tăng cường, phát huy những giá trị văn hoá truyền thống quý báu

của dân tộc, thể hiện ở các mặt hàng được chế biến, chế tác bằng bàn tay khéo

léo, khối óc tinh tế của những người thợ thủ công Việt Nam, qua đó sẽ giới thiệu

những nét đẹp và độc đáo của văn hoá Việt Nam với thế giới.

Phạm vi các ngành nghề thủ công ở việt Nam rất đa dạng; gắn liền với từng

vùng quê, hình thức tổ chức sản xuất gắn liền với hộ gia đình, với nhiều kỹ xảo,

kinh nghiệm sản xuất truyền từ đời này sang đời khác; vừa có tính bền vững và

ổn định cao lại vừa phù hợp với đặc điểm khéo tay, hay làm của người dân. Do

vậy, nói đến lợi thế và để phát huy lợi thế của Việt Nam là có nguồn lao động

dồi dào, truyền thống cần cù, khéo tay của các nghệ nhân thì cần phải chú trọng

phát triển công nghiệp nông thôn, đặc biệt các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp

truyền thống.

2.3. Sự cần thiết khách quan phát triển công nghiệp nông thôn

Công nghiệp nông thôn có vị trí quan trọng trong kinh tế nông thôn. Công

nghiệp nông thôn là cầu nối giữa sản xuất - kinh doanh ở nông thôn với sản

xuất công nghiệp ở các đô thị và các trung tâm công nghiệp thông qua hàng loạt

các mối quan hệ kinh tế - kỹ thuật, qua các hình thức tổ chức sản xuất (đặc biệt



là quan hệ liên kết kinh tế, phân công lao động, hiệp tác sản xuất) và các quan

hệ kinh doanh khác.

Như vậy, sự phát triển công nghiệp nông thôn là một tất yếu khách quan. Tính

quy luật của sự phát triển đó bắt nguồn từ yêu cầu phát triển của lực lượng sản

xuất và sự phát triển không đồng đều, thiếu cân đối giữa các vùng lãnh thổ. Nó

là hậu quả của việc đồng thời thực hiện các cuộc phân công lao động ở những

trình độ khác nhau giữa các vùng lãnh thổ khác nhau trong cùng một thời điểm.

Hiện nay, việc phát triển công nghiệp nông thôn ở nước ta đang trở thành một

vấn đề có tính cấp bách do những nguyên nhân sau:

- Nền kinh tế nước ta đang từ sản xuất nông nghiệp là chính chuyển sang sản

xuất công nghiệp là chính, trong đó bản thân nền sản xuất nông nghiệp cũng

phải được công nghiệp hoá. Trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thực

hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển công nghiệp nông thôn là một

bước đi tuần tự, có thể được thực hiện một cách đơn giản, dễ dàng hơn.

- Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta đang gặp những khó khăn

về vốn, về thị trường, về cơ sở hạ tầng… Phát triển công nghiệp nông thôn là

một trong các giải pháp cho phép tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc đó một

cách nhanh chóng. Mặc dù với từng địa phương, từng vùng lãnh thổ, đó chỉ là

bước đi ban đầu, nhưng nó vẫn có tác dụng lâu dài với vùng lãnh thổ đó. Trên

phạm vi cả nước, quá trình này có thể kéo dài nhiều chục năm.

- Nhìn chung, ở nước ta, tuy trình độ phát triển của nền kinh tế còn thấp nhưng

đã có sự chênh lệch khá lớn giữa thành thị và nông thôn. Cơ sở hạ tầng ở các

đô thị nước ta hiện nay, đặc biệt là ở các đô thị lớn, đã có sự tập trung quá

mức, gây lãng phí về nhiều mặt, làm chậm quá trình phát triển và giảm hiệu quả

kinh tế- xã hội của chính bản thân các đô thị đó. Việc phát triển công nghiệp

nông thôn và hình thành những đô thị nhỏ (các thị trấn, thị tứ, thị xã) sẽ cho

phép làm giảm bớt sự khác biệt về trình độ phát triển, sự phân hoá xã hội và tác

động tiêu cực của chúng tới sự phát triển của nền kinh tế nói chung.

- Nông thôn nước ta đang có những yêu cầu kinh tế-xã hội bức thiết cần giải

quyết: đó là sự hạn chế về đất đai, sự dư thừa lao động (một cách tương đối và

tuyệt đối), mức sống vật chất và tinh thần dân cư thấp kém và lạc hậu,… Để giải

quyết các vấn đề này, nhiều biện pháp thâm canh, phát triển nông nghiệp đã

được triển khai, nhưng thực tiễn cho thấy rằng phái có những chương trình và

biện pháp đồng bộ thì mới có thể giải quyết được. Trong số các giải pháp nói

trên, có việc phát triển công nghiệp nông thôn một cách thích hợp.

- Phát triển công nghiệp nông thôn là yêu cầu bắt nguồn từ đặc điểm nền sản

xuất của nông thôn, đặc biệt là từ sự khác biệt về mặt thời gian giữa quá trình

sản xuất nông nghiệp có tính gián đoạn và yêu cầu đảm bảo việc làm ổn định và

liên tục cho người lao động. Trong khi người lao động cần có việc làm liên tục

và ổn định thì sản xuất nông nghiệp về cơ bản thường có tính mùa vụ. Hơn

nữa, ở nước ta hiện nay, các loại cây trồng, vật nuôi có chu kỳ sinh trưởng

thường vẫn còn khá dài, thời gian nông nhàn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng quỹ

thời gian tự nhiên của dân cư nông thôn. Để khắc phục tình trạng này, cần tiến



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (174 trang)

×