Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 174 trang )
Sử dụng mô hình SWOT để phân tích tình hình của ĐBSCL theo quan điểm hợp
tác liên kết giữa các tỉnh
o Điểm mạnh: điều kiện tự nhiên thuận lợi cho phát triển nông nghiệp, thuỷ sản
và du lịch sinh thái, nguồn nhân lực dồi dào.
o Điểm yếu: lũ lụt ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất của vùng, thiếu đội ngũ
lao động có trình độ và thiếu sự hợp tác giữa các ngành và địa phương trong
điều kiện cơ sở hạ tầng yếu kém
o Cơ hội: được Chính phủ quan tâm đầu tư, con người ĐBSCL năng động
thông minh; việc hoà nhập của đất nước vào nền kinh tế thế giới và khu vực là
cơ hội để mở rộng thị trường
o Thách thức: nền kinh tế thị trường thường xuyên thay đổi, khó kiểm soát do
năng lực của ta còn yếu; việc sản xuất làm nguy cơ ô nhiễm môi trường.
1.2. Sử dụng phương pháp phân tích chuỗi các giá trị
Là một chuỗi hoàn chỉnh các hoạt động kinh tế từ giai đoạn tạo ra nguyên vật
liệu thô cho đến khâu phân phối sản phẩm cuối cùng tới khách hàng. Chuỗi giá
trị có thể bao gồm các nhân tố ở nhiều địa phương tham gia hoặc cả quy mô
toàn cầu.
Sự không hiệu quả ở từng khâu riêng biệt trong cả chuỗi giá trị: Hội chứng
mang tên con bò điên ngu ngốc. Đây là ví dụ minh họa:
Chính phủ Columbia và các công ty tư nhân đã thực hiện một cuộc nghiên cứu
để khuyến nghị làm thế nào để nâng cao tính cạnh tranh của ngành sản xuất đồ
da xuất khẩu sang Mỹ. Cuộc nghiên cứu bắt đầu từ New York, khi biết rằng giá
túi da của Columbia tại đây quá cao còn chất lượng thì quá thấp. Đoàn người
nghiên cứu đã trở lại Columbia để phỏng vấn các nhà sản xuất điều gì đã làm
giảm chất lượng và bán với giá cao như vậy. Kết quả là không phải do nhà sản
xuất, cũng không phải do xưởng thuộc da đã cung cấp da với lượng thấp,
không phải do ở các lò mổ không quan tâm tới việc bảo vệ da, không phải do
chủ trang trại nuôi bò với việc dùng mác sắt để bảo vệ bò khỏi nạn trộm bò, mà
nguyên nhân cuối cùng là lỗi của các con bò. Lũ bò ngu ngốc tự làm trầy xước
da khi va chạm vào mác sắt, đã làm hỏng da.
Đây là ví dụ buồn cười về sự đổ lỗi lẫn nhau. Nhưng ý nghĩa cốt lỏi của phân
tích chuỗi giá trị là: xem xét các mối liên kết giữa các doanh nghiệp sản xuất;
giữa các nhà sản xuất với các nhà kinh doanh và nhà cung cấp các dịch vụ hỗ
trợ. Qua đó, xác định được những thiếu sót và khâu kém hiệu quả trong chuỗi
có thể làm cho sản phẩm cuối cùng thiếu tính cạnh tranh, để có các giải pháp
cần thiết và kịp thời tác động nhằm cải thiện tình hình. Và để làm được điều này
đòi hỏi một quá trình rất công phu phân tích rất nhiều giai đoạn trong quá trình
tạo ra sản phẩm từ nhà sản xuất nguyên liệu ban đầu cho đến khi sản phẩm tới
tay khách hàng.
Mặt khác, viễn cảnh chuỗi giá trị nói lên sự tập trung vào khách hàng cuối cùng,
điều này có thể dẫn đến sự hiểu biết tốt hơn về khách hàng và sản phẩm có
chất lượng tốt hơn sau khi khắc phục những điểm làm cho sản phẩm kém hiệu
quả. Và sự hợp tác chặt chẽ giữa các tác nhân trong chuỗi giá trị có thể tạo ra
sự đổi mới của sản phẩm.
Ví dụ minh hoạ - Chuỗi giá trị sản phẩm chế biến cá Ba sa ở An Giang:
Trước tiên, người nuôi cá sẽ cung cấp cá nguyên liệu cho nhà máy chế biến.
Có một loạt các nhà cung cấp dịch vụ cho người nuôi cá như: cung cấp thú y
thuỷ sản, kỹ thuật khuyến ngư, cá giống, dịch vụ tài chính.
Nhà sản xuất sẽ chế biến cá nguyên liệu thông qua qui trình sản xuất của nhà
máy tạo ra nhiều loại thành phẩm khác nhau.
Ngoài ra có một loạt các nhân tố khác có liên quan như: Hiệp hội VASEP, các
cơ quan xúc tiến thương mại, dịch vụ kiểm tra chất lượng sản phẩm, các trường
đào tạo nhân lực cho các công ty, các nhà tư vấn về: công nghệ, pháp luật, thị
trường, marketing; nhà sản xuất bao bì.
Thông qua dịch vụ vận chuyển để các sản phẩm này đến các kênh phân phối
đã thiết lập sẵn. Các kênh phân phối này có thể ở trong nước và nước ngoài tuỳ
vào chiến lược phân phối của các công ty.
Cuối cùng sản phẩm cá ba sa có thể được chế biến lại ở nước người mua, và
đến tay người tiêu dùng.
Làm thế nào có thể xúc tiến phát triển các chuỗi giá trị? Các hoạt động trong
quá trình thúc đẩy chuỗi giá trị là gì?
Trước tiên là tập hợp các công ty và các chủ thể khác trong chuỗi giá trị. Sau
đó, xúc tiến thảo luận để tìm ra những nút cổ chai trong chuỗi giá trị, thảo luận
để tìm ra các biện pháp khắc phục có thể có về những vấn đề đó; thoả thuận
giữa các công ty và chủ thể trong chuỗi giá trị để tìm ra các mục tiêu và biện
pháp ưu tiên cho các hành động; và phân chia trách nhiệm giữa các chủ thể để
đi tới việc thực hiện.
2.Quy trình công nghệ của một số nghề CNNT
2.1. Quy trình công nghệ sản xuất
Quy trình công nghệ sản xuất có thể là quy trình chung hay quy trình cho từng
bộ phận. Để tạo ra sản phẩm, trong các cơ sở, doanh nghiệp thường có nhiều
bộ phận sản xuất. Đó là một đơn vị sản xuất có một dây chuyền công nghệ tạo
ra sản phẩm. Trong quy trình công nghệ mỗi cơ sở sản xuất đều có các bộ
phận, phân xưởng sản xuất với những chức năng nhất định để tạo ra sản phẩm.
Trong quy trình sản xuất các bộ phận có thể được thể hiện bằng sơ đồ khối với
các mối liên hệ và cá số liệu liên quan. Để xây dựng quy trình sản xuất có thể
Việc lập quy trình sản xuất giúp nhà quản lý có thể hình dung các mối quan hệ
đầu vào, đầu ra và giữa các bộ phận trong quá trình sản xuất hay chế biến một
dạng hay loại sản phẩm nhất định. Từ đó có thể tính toán được các yếu tố đầu
vào (nguyên nhiên vật liệu, điện, nước, nhân công, các vật rẻ tiền mau hỏng,
các máy móc thiết bị như động cơ, nồi hơi, lò sấy, hệ thống xử lý nước cấp, hệ
thống cung cấp nhiên liệu, điện năng, hệ thống băng chuyền vận chuyển….) và
xác định được số lượng và chất lượng các yếu tố đầu ra (thành phẩm, bán
thành phẩm, phụ phẩm, phế phẩm, các loại chất thải…) nằm ở từng khâu của
quá trình sản xuất.
Trong sơ đồ sản xuất cũng cần đo đạc các số liệu về nguyên nhiên vật liệu sử
dụng để duy trì, bảo dưỡng thiết bị, ví dụ như dầu mở bôi trơn, nước làm lạnh,
nước tuần hoàn…
Như vậy sơ đồ quy trình sẽ giúp cho cơ sở, doanh nghiệp chủ động lên kế
hoạch sản xuất tiêu thụ của doanh nghiệp, giúp hoạch định kho bãi chứa vật tư
nguyên liệu đầu vào, kho chứa sản phẩm chuẩn bị tiêu thụ; giúp nghiên cứu sản
xuất sạch hơn như việc giảm tiêu hao nguyên vật liệu, nhiên liệu, năng lượng ở
đầu vào, hợp lý hoá các công đoạn sản xuất, kiểm toán chất thải, theo dõi quản
lý hệ thống sản xuất và thực hiện các tiêu chuẩn về chất lượng như ISO,
HACCP…
2.2. Một số quy trình sản xuất, chế biến của các ngành nghề cơ bản, phổ
biến ở nông thôn
2.2.1. Công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản
Ví dụ minh họa: Nghề xay lát, lau bóng gạo
Đồng bằng sông Cửu Long có nhiều lợi thế để xây dựng vùng lúa chuyên canh
xuất khẩu gạo, xuất phát từ những thuận lợi của hệ thống canh tác và điều kiện
lưu thông phân phối.
Muốn cải tạo và hiện đại hoá hệ thống xay xát để nâng cao quy cách, chất
lượng gạo xuất khẩu cần cải tiến một số công nghệ như sau:
- Ở công đoạn nhập nguyên liệu cần chú trọng trang bị phương tiện, tiết bị sàng
tách tạp chất và máy sấy để đảm bảo lúa đạt tiêu chuẩn về độ sạch và độ ẩm
trước khi đưa vào xay, nhất là đạt độ ẩm tiêu chuẩn 14-15% sẽ giảm thiểu được
tỷ lệ gạo gãy trong quá trình xay xát.
- Trong quy trình chế biến cần thay công nghệ cũ (dùng cối đá để bóc trấu và
chà trắng) trước đây bằng phương pháp công nghệ tốt hơn. Trong đó bóc vỏ
trấu bằng rulô cao su sẽ cho tỷ lệ gạo lật (gạo lức) cao hơn; bốc cám bằng
thanh trượt lặp lại nhiều lần (phạm vi điều chỉnh là 2-4 lần) đảm bảo gạo trắng
hơn và ít gãy nát hơn. Đánh bóng để lau sạch lớp cám mịn bám bên ngoài bề
mặt hạt gạo giúp dự trữ được lâu hơn. Sàng lọc tạp chất lần thứ hai nhằm loại
tạp chất triệt để hơn. Ở công đoạn cuối cùng bán thành phẩm được sàng phân
loại chi tiết, cho vào các thùng chứa riêng biệt theo các nhóm: hạt nguyên (hai
đầuha5t gạo đều nhọn), hạt mẻ đầu (ít nhất bằng 8/10 hạt nguyên), gạo gãy hay
tấm lớn (từ 5/10 đến 8/10 hạt nguyên), tấm vừa (từ 2,5/10 đến dưới 5/10 hạt
nguyên), tấm nhỏ (nhỏ hơn 2,5/10 hạt gạo nguyên), từ đó cho phép phối trộn
gạo thành phẩm theo các phẩm cấp mà khách hàng yêu cầu.
Sơ đồ Quy trình xay xát gạo
- Trong cấu tạo của lúa, hàm lượng trấu chiếm khoảng 20-22%. Cho nên một số
nhà máy xay xát bóc vỏ trấu và cám trước ở vùng nguyên liệu, chỉ chở gạo lật
(gạo lứt) về lau xát tại các nhà máy gần nơi tiêu thụ hay xuất khẩu thì sẽ giảm
bớt chi phí vận chuyển (do đã để lại khoảng 30% trọng lượng lúa), đồng thời hạt
gạo có thời gian nguội lại trước khi đưa vào công đoạn bóc cám và đánh bóng;
hạn chế rất nhiều tỷ lệ gạo gãy và độ gãy nát của hạt gạo. Do đó giảm hao hụt,
giảm thứ phẩm, tăng tỷ lệ thu hồi chính phẩm và tăng hiệu quả kinh tế so với
trường hợp xay xát đi từ lúa ra gạo trắng trên một quy trình liên hoàn. Tuy nhiên
cách làm này chỉ có hiệu quả ở góc độ giảm bớt chi phí vận chuyển và thuận lợi
cho công tác kiểm phẩm, chứ chưa giảm thiểu được mức hao hụt, tỷ lệ gạo gãy
vẫn còn cao, thành phẩm thu hồi thấp và lượng tấm dôi ra khá cao (từ 20-30%
so với trọng lượng nguyên liệu) lại khó xuất khẩu vì thường không đạt quy cách
quốc tế.
- Cần có chính sách khuyến khích nông dân và các cơ sở doanh nghiệp tham
gia đầu tư phát triển hệ thống nhà máy xay xát cở nhỏ có tính cơ động cao rộng
khắp vùng lúa nhằm tạo nguồn cung ứng nguyên liệu (gạo lứt) dồi dào. Bên
cạnh tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế đầu tư hệ thống nhà máy xay xát
gạo quy mô lớn ở những địa điểm thuận tiện cho việc lưu thông phân phối nằm
dọc theo tuyến đường sông, hình thành các cụm công nghiệp liên hợp phục vụ
xuất khẩu gạo (kết hợp kho trung chuyển với nhà máy xay xát, lau bóng gạo,
nhà máy sản xuất bao bì..) nằm gần các cảng sông.
- Các nhà đầu tư cũng cần nghiên cứu sản xuất các mặt hàng mới như gạo đồ,
gạo sấy… để đa dạng hoá sản phẩm phù hợp nhu cầu của thị trường.
2.2.2. Công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng phục vụ nông thôn
Ví dụ minh họa: Nghề sản xuất gạch ngói nung:
Theo thống kê, An Giang hiện có 490 cơ sở sản xuất gạch ngói, với 985 lò gạch
thủ công, tổng sản lượng khoảng 400 triệu viên các loại. Riêng hai nhà máy
gạch tuy nen của Công ty xây lắp An Giang sản xuất khoảng 55 triệu viên /năm.
Năm 2005, sản lượng gạch ngói của An Giang đạt trên 433 triệu viên, cung cấp
cho thị trường đồng bằng sông Cửu Long và Campuchia.
Sở Công nghiệp An Giang đã quy hoạch 4 cụm CN sản xuất gạch ngói ở các xã
Hoà Bình Thạnh (huyện Châu Thành), xã Nhơn Mỹ (Chợ Mới), xã Bình Mỹ và
Bình Thuỷ (Châu Phú) với tổng diện tích là 191 ha. Dự kiến đến năm 2010 An
Giang sẽ thay toàn bộ các lò gạch nung thủ công hiện nay gây nhiều ô nhiễm,
khói bụi, dễ xãy ra tai nạn lao động bằng các lò sử dụng công nghệ nung liên
tục kiểu đứng, ít khói bụi. Hiện có gần 50 ngàn lao động đang làm việc trong các
lò sản xuất gạch ở tỉnh An Giang.
(Sinh viên thảo luận và vẽ quy trình sản xuất gạch)
3.Vấn đề kỹ thuật an toàn và vệ sinh lao động trong sản xuất CNNT
3.1. Điều kiện lao động và các yếu tố nguy hiễm có hại trong lao động
Điều kiện lao động là tổng thể các yếu tố kỹ thuật, tổ chức lao động, kinh tế, xã
hội, tự nhiên, thể hiện qua quá trình công nghệ, công cụ lao động, đối tượng lao
động, tải trọng của công việc và mối quan hệ qua lại giữa các yếu tố tác động
đến sức khoẻ, khả năng lao động của người lao động, ảnh hưởng đến trạng thái
và quá trình biến đổi các chức năng lao động, trạng thái tâm sinh lý người lao
động.
Để có thể làm tốt công tác bảo hộ lao động, người sử dụng lao động phải đánh
giá được các yếu tố điều kiện lao động, đặc biệt là phải phát hiện và xử lý các
yếu tố không thuận lợi đe doạ đến sức khoẻ và an toàn của người lao động
trong quá trình lao động.
3.1.1. Các yếu tố của lao động như:
Người lao động,
Máy, thiết bị, công cụ lao động
Nhà xưởng, nơi sản xuất
Năng lượng, nguyên vật liệu
Đối tượng lao động
3.1.2. Các yếu tố liên quan đến lao động
Các yếu tố tự nhiên có liên quan đến nơi làm việc
Các yếu tố kinh tế xã hội, quan hệ, đời sống hoàn cảnh gai đình liên quan đến
tâm lý người lao động
3.1.3. Điều kiện lao động không thuận lợi được chia thành hai loại chính
- Những yếu tố, điều kiện lao động xấu, có nguy cơ gây chấn thương, tai nạn
lao động như: các bộ phận truyền động và chuyển động; nguồn nhiệt, nguồn
điện; vật rơi, đổ, sập; vật văng, bắn; các vụ nổ.
- Những yếu tố có hại đối với sức khoẻ, gây bệnh nghề nghiệp như vi khí hậu
xấu (nhiệt độ, độ ẩm không khí, bức xạ nhiệt, phóng xạ…), tiếng ồn, độ chiếu
sáng, độ rung động; chất phóng xạ, bụi, các hoá chất, hơi khí độc, các vi sinh
vật có hại…
Bên cạnh có các yếu tố về cường độ lao động, tư thế lao động gò bó và đơn
điệu trong lao động không phù hợp với tâm sinh lý bình thường và nhân trắc
của cơ thể người lao động trong sản xuất.
3.2. Công tác bảo hộ lao động trong cơ sở CN TTCN
Lĩnh vực kỹ thuật an toàn và vệ sinh lao động là một lĩnh vực tổng hợp liên quan
đến các ngành khoa học, công nghệ, y tế, bảo vệ sức khoẻ, quản lý, luật
pháp… thể hiện quan điểm nhân bản - tất cả vì con người, tất cả cho con người
của Đảng và Nhà nước ta.
Từ bản Hiến pháp năm 1946, đã quy định quyền làm việc, nghỉ ngơi, quyền
được hưởng chế độ bảo hiểm xã hội của người lao động. Trong quá trình xây
dựng đất nước, Nhà nước đã ban hành hệ thống các văn bản pháp luật, chế độ
chính sách về bảo hộ lao động. Năm 1994, Quốc hội đã ban hành Bộ luật Lao
động, có chương 9 nói về An toàn lao động, vệ sinh lao động. Nhiều văn bản
dưới luật đã cụ thể hoá công tác này.
Mục đích của công tác bảo hộ lao động, mà chủ yếu là kỹ thuật an toàn và vệ
sinh lao động; bằng các biện pháp về khoa học, kỹ thuật, tổ chức, hành chính,
kinh tế xã hội để loại trừ các yếu tố nguy hiễm và có hại phát sinh trong sản
xuất, tạo nên điều kiện lao động thích nghị, thuận lợi và ngày càng được cải
thiện để ngăn ngừa tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, hạn chế ốm đau và
giảm sút sức khoẻ cũng như những thiệt hai khác đối với người lao động, nhằm
đảm bảo an toàn, bảo vệ sức khoẻ và tính mạng người lao động, trực tiếp góp
phần bảo vệ và phát triển lực lượng sản xuất, tăng năng suất lao động.
Bảo hộ lao động trước hết là phạm trù của sản xuất, gắn liền với sản xuất nhằm
bảo vệ yếu tố năng động nhất của lực lượng sản xuất là người lao động. Mặt
khác nhờ chăm lo bảo vệ sức khoẻ cho người lao động, mang lại hạnh phúc
cho bản thân và gia đình người lao động mà công tác bảo hộ lao động có một
hệ quả xã hội và nhân đạo to lớn.
Bên cạnh đó cũng là nhiệm vụ mang tính pháp luật được thể chế hoá thành
những quy định pháp luật, chế độ chính sách tiêu chuẩn, quy định hướng dẫn
buộc mọi cấp quản lý, tổ chức và cá nhân nghiêm chỉnh thực hiện.
Đồng thời phải tiến hành thanh tra, kiểm tra một cách thường xuyên, khen
thưởng và xử phạt nghiêm minh và kịp thời thì công tác bảo hộ lao động mới
được tôn trọng và có hiệu quả thiết thực.
Mọi hoạt động của công tác bảo hộ lao động chỉ có kết quả khi mọi cấp quản lý,
mọi người sử dụng lao động, cán bộ khoa học kỹ thuật và người lao động tự
giác và tích cực tham gia thực hiện các chế độ, luật lệ, tiêu chuẩn, biện pháp để
cải thiện điều kiện làm việc, phòng chống tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.
Bảo hộ lao động là hoạt động hướng về cơ sở và vì con người, trước hết là
người lao động.
3.3. Quyền và nghĩa vụ về bảo hộ lao động
3.3.1. Nghĩa vụ và quyền hạn của người sử dụng lao động
a. Nghĩa vụ của người sử dụng lao động:
- Người sử dung lao động có nghĩa vụ tuân thủ tiêu chuẩn, quy phạm an toàn,
chính sách chế độ bảo hộ lao động, tạo điều kiện làm việc an toàn, vệ sinh.
Người sử dụng lao động phải chịu trách nhiệm về tình trạng an toàn và sức
khoẻ của người lao động.
- Hàng năm khi xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, cơ
sở trong đó phải chú ý lập kế hoạch, biện pháp an toàn lao động, vệ sinh lao
động và cải thiện điều kiện làm việc.
- Trang bị đầy đủ phương tiện bảo vệ cá nhân và thực hiện các chế độ khác về
an toàn lao động, vệ sinh lao động theo quy định của Nhà nước.
- Phân công trách nhiệm và cử người giám sát việc thực hiện các quy định, nội
quy, biện pháp an toàn lao động, vệ sinh an toàn lao động trong doanh nghiệp;
phối hợp với công đoàn cơ sở tuyên truyền giáo dục người lao động chấp hành
quy định biện pháp làm việc an toàn; xây dựng và duy trì sự hoạt động của
mạng lưới an toàn viên và vệ sinh viên.
- Xây dựng nội quy, quy trình an toàn lao động, vệ sinh lao động phù hợp với
từng loại máy móc, thiết bị, công nghệ theo tiêu chuẩn quy định của Nhà nước.
- Thực hiện huấn luyện, hướng dẫn người lao động nâng cao hiểu biết và kỹ
năng làm việc an toàn.
- Tổ chức khám sức khoẻ định kỳ cho người lao động theo chế độ quy định.
- Chấp hành nghiêm chỉnh chế độ khai báo, điều tra tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp.
- Định kỳ 6 tháng, hàng năm sơ kết, tổng kết, đánh giá kết quả tình hình thực
hiện an toàn - vệ sinh lao động, cải thiện điều kiện lao động và báo cáo với cơ
quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
b. Quyền hạn của người sử dụng lao động
- Buộc người lao động phải tuân thủ các quy định, nội quy, biện pháp an toàn vệ sinh lao động.
- Khen thưởng người chấp hành tốt và kỷ luật người vi phạm trong việc thực
hiện an toàn vệ sinh lao động
- Khiếu nại với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về quyết định của thanh tra
lao động, nhưng phải chấp hành các quyết định đó khi chưa có quyết định mới.
3.3.2. Nghĩa vụ và quyền hạn của người lao động
a. Nghĩa vụ của người lao động
- Chấp hành các quy định, nội quy về an toàn - vệ sinh lao động có liên quan
đến công việc, nhiệm vụ được giao.
- Phải sử dụng và bảo quản các phương tiện bảo vệ cá nhân đã được trang
cấp, các thiết bị an toàn - vệ sinh nơi làm việc, nếu làm mất hoặc hư hỏng thì
phải bồi thường.
- Phải báo cáo kịp thời với người có trách nhiệm khi phát hiện nguy cơ gây tai
nạn lao động, gây độc hai hoặc sự cố nguy hiễm. Tham gia cấp cứu và khắc
phục hậu quả tai nạn, sự cố khi có lệnh của người sử dụng lao động.
b. Quyền hạn của người lao động
- Yêu cầu người sử dụng lao động bảo đảm điều kiện làm việc an toàn, vệ sinh,
cải thiện điều kiện lao động, trang cấp đầy đủ phương tiện bảo vệ
cá nhân, huấn luyện, hướng dẫn biện pháp an toàn - vệ sinh lao động.
- Từ chối làm công việc hoặc tự rời bỏ nơi làm việc khi thấy rõ nguy cơ xảy ra
tai nạn lao động, đe doạ trực tiếp đến tính mạng, sức khoẻ của mình và phải
báo ngay với người sử dụng lao động hay người phụ trách trực tiếp; từ chối trở
lại nơi làm việc nếu những nguy cơ đó chưa được khắc phục.
- Khiếu nại hoặc tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi người sử
dụng lao động vi phạm quy định của Nhà nước hoặc không thực hiện các giao
kết về an toàn - vệ sinh lao động trong hợp đồng lao động hay thoả ước lao
động tập thể.
1.4. Nguyên tắc chung để cải thiện điều kiện làm việc, ngăn ngừa tai nạn
lao động, bệnh nghề nghiệp
3.4.1. Thực hiện các biện pháp về kỹ thuật an toàn
- Thực hiện bảo đảm khoảng cách an toàn, là khoảng không gian nhỏ nhất giữa
người lao động và các loại phương tiện, thiết bị, hoặc khoảng cách nhỏ nhất
giữa chúng với nhau để không gây nguy hiểm cho người lao động khi làm việc,
như khoảng cách cho phép giữa đường dây điện trần với mặt đất, công trình,
khoảng cách an toàn khi nổ mìn. Tuỳ thuộc vào quá trình công nghệ, đặc điểm
của từng loại thiết bị công nghệ và yêu cầu bảo vệ để quy định khoảng cách an
toàn.
- Thực hiện che chắn để cách ly yếu tố nguy hiểm, vùng ngy hiểm với người lao
động; ngăn ngừa vật rơi, bắn vào người lao động, ngăn ngừa người lao động
rơi, tụt ngã. Tuỳ thuộc vào yêu cầu bảo vệ che chắn người ta có thể che chắn
cố định, che chắn tạm thời, che chắn di động
- Sử dụng thiết bị bảo hiểm, thiết bị phòng ngừa nhằm ngăn chặn sự cố trong
quá trình sản xuất. Khi đó thiết bị bảo hiểm tự động loại trừ nguy cơ sự cố hay
tai nạn khi đối tượng phòng ngừa vượt quá mức giới hạn quy định.
- Sử dụng các cơ cấu điều khiển như các nút mở máy, đóng máy, hệ thống tay
gạt, vô lăng điều khiển để điều khiển theo ý muốn của người lao động nhưng
người lao động hoặc tay của người lao động không nằm trong vùng nguy hiểm.
Sử dụng điều khiển từ xa để đưa người lao động ra khỏi vùng nguy hiểm đồng
thời giảm nhẹ điều kiện lao động nặng nhọc. Cơ khi hoá và tự động hoá cũng là
các đặc trưng của hệ thống điều khiển từ xa.
- Hệ thống tín hiệu, báo hiệu nhằm mục đích nhắc nhở người lao động kịp thời
tránh các yếu tố nguy nhiễm, có hại bằng các biển báo, đèn báo, cờ hiệu, còi
báo động…
- Trong nhiều trường hợp cụ thể, cần có trang bị phương tiện bảo vệ cá nhân
như bình thở oxy, dây đeo an toàn…
3.4.2. Các quy tắc an toàn nơi làm việc, sản xuất
Để người lao động được làm việc trong điều kiện lao động không có những
nguy cơ trực tiếp gây ra các tai nạn lao động cần tuân thủ những quy tắc sau:
Không cất giữ chất độc ở nơi làm việc.
Khi làm việc trên cao cấm người đi lại phía dưới, không ném đồ, dụng cụ
xuống dưới.
Thực hiện các biển báo, các quy tắc an toàn.
Nơi làm việc luôn giữ sạch sẽ, dụng cụ vật liệu được sắp xếp ngăn nắp, sạch
sẽ, gọn gàng.
Không nhảy từ vị trí trên cao như từ giàn giáo xuống đất.
Không đi vào khu vực dành riêng cho vận chuyển, dành chuyển tải bằng máy
trục.
Sử dụng dụng cụ bảo hộ lao động thích hợp trước khi làm việc.
Khi làm việc tập thể phải phối hợp chặt chẽ với nhau; chỉ định người chỉ huy
và làm việc theo tín hiệu của người chỉ huy.
Trước khi vận hành thiết bị phải chú ý người xung quanh, tìm hiểu kỹ trình tự,
cách làm việc và tiến hành theo đúng trình tự.
Ngoài người phụ trách ra, không ai được khởi động, điều khiển máy.
Trước khi khởi động máy phải kiểm tra thiết bị an toàn và vị trí đứng.
Khi muốn điều chỉnh máy phải tắt động cơ và chờ cho tới khi máy dừng hẳn;
không dùng tay hoặc gậy để làm dừng máy.
Khi vận hành máy không mặc áo quá dài, không cuốn khăn quàng cổ, không
đeo cà vạt, nhẫn, găng tay.
Trên máy hỏng cần treo biển báo ghi chữ “máy hỏng”.
Sử dụng kính bảo hộ khi làm việc ở nơi có vật văng, bắn như đục đá, chạm
khắc, mài dao kéo…
3.4.3. Các quy tắc về an toàn điện
Không ai được sửa chữa điện ngoài những người có chứng chỉ hành nghề
(thợ điện).
Không sờ mó vào dây điện, thiết bị điện khi tay bị ướt, cơ thể đổ mồ hôi.
Khi phát hiện sự cố cần báo ngay cho người có trách nhiệm
Lắp đặt nắp đậy cho tất cả các công tắc
Không phun, để rớt chất lỏng lên thiết bị điện như công tắc, mô tơ, tủ phân
phối điện.
Kiểm tra định kỳ độ an toàn của dây dẫn, độ cách điện của thiết bị điện;
Không treo, móc đồ vật lên dây dẫn điện, thiết bị điện;
Không để dây điện chạy vắt qua kết cấu thép, các góc sắc hoặc máy có cạnh
sắc nhọn (có thể làm đứt vỏ bọc cách điện của dây điện)
Không nối nhiều nhánh với dây đồng trục.
VẤN ĐỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TRONG SẢN XUẤT CNNT
4.1. Đánh giá tác động môi trường
4.1.1. Đánh giá tác động môi trường là một công cụ rất quan trọng và hiệu lực
trong bảo vệ môi trường.
Đánh giá tác động môi trường (ĐTM) của hoạt động phát triển kinh tế xã hội nói
chung, hoạt động sản xuất CN TTCN nói riêng, là nhằm xác định, phân tích, dự
báo những tác động tích cực và tiêu cực, trước mắt và lâu dài, mà việc thực
hiện hoạt động đó có thể gây ra cho tài nguyên thiên nhiên và chất lượng môi
trường sống của con người tại nơi có liên quan tới hoạt động đó, trên cơ sở
nghiên cứu và lựa chọn các biện pháp phòng chống, xử lý, khống chế các tác
động tiêu cực, đảm bảo được chất lượng môi trường theo tiêu chuẩn cho phép
của Nhà nước.
Đánh giá tác động môi trường là công cụ để thực hiện chính sách, chiến lược,
thực thi pháp luật, quy định, làm cho kế hoạch, chương trình, dự án phát triển
kinh tế - xã hội mang tính phát triển bền vững.
Mặt khác, đánh giá tác động môi trường chỉ có thể tiến hành một cách có hiệu
quả với sự có mặt và hỗ trợ của các loại công cụ bao gồm:
Chính sách, chiến lược, luật pháp bảo vệ môi trường, quy định, chế định, tiêu
chuẩn về môi trường; kiểm toán môi trường, quản lý tai biến môi trường là một
hướng quan trọng về xử lý tác động môi trường; giáo dục, tào tạo chuyên gia về
môi trường là nguồn chung cấp chuyên viên cho đánh giá tác động môi trường;
nghiên cứu khoa học và công nghệ là cơ sở của bản thân việc đánh giá và đề
xuất biện pháp phòng tránh, khắc phục các tác động tiêu cực.
Vấn đề quan trọng và chủ yếu trong đánh giá tác động môi trường của một dự
án hoặc một sơ sở đang hoạt động là phải phân tích được tất cả các tác động
tích cực và tiêu cực của hoạt động của cơ sở tới môi trường. Từ đó đề ra
những biện pháp thích hợp khống chế những tác động tiêu cực đến môi trường
và phải bảo đảm tiêu chuẩn vệ sinh môi trường cho toàn khu vực hoạt động
( tiêu chuẩn quy định về môi trường bên trong cũng như môi trường bên ngoài
dự án hoặc một cơ sở công nghiệp).
4.1.2. Nội dung của một Báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM) tại cơ sở
sản xuất công nghiệp thường cần trình bày những vấn đề chính sau đây:
a. Phần mở đầu
b. Chương I: Mô tả sơ lược dự án:
- Tên dự án,
- Chủ đầu tư,
- Mục tiêu kinh tế - xã hội của dự án,
- Tiến độ thực hiện của dự án.
c. Chương II: Điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội tại khu vực hoạt động của dự
án
- Điều kiện tự nhiên tại khu vực dự án,
- Đặc điểm khí hậu, khí tượng tại khu vực,
- Phân tích địa hình, thực trạng sử dụng đất đai tại khu vực dự án,
- Phân tích điều kiện thuỷ văn, địa chất thuỷ văn, địa chất công trình,
- Hiện trạng môi trường khu vực dự án,
- Hiện trạng sức khoẻ cộng đồng tại khu vực dự án.
d. Chương III: Đánh giá tác động của công trình, hoạt động của cơ sở tới môi
trường tự nhiên và kinh tế xã hội
- Các tác động có thể xảy ra của dự án tới môi trường,
- Nguồn gốc, đặc trưng và tác động của chất ô nhiễm,
- Đánh giá tác động môi trường nước do hoạt động của dự án gây ra,
- Đánh giá tác động môi trường không khí do hoạt động của dự án gây ra,
- Đánh giá tác động môi trường tiếng ồn do hoạt động của dự án gây ra,
- Đánh giá tác động môi trường đất do hoạt động của dự án gây ra,
- Đánh giá tác động môi trường chất thải (rắn, lỏng hay khí) do hoạt động của
dự án gây ra,
- Đánh giá tác động của dự án gây ra đối với tài nguyên sinh vật, đối với kinh tế
xã hội, đối với sức khoẻ công đầng dân cư xung quanh khu vực.
e. Chương IV: Các biện pháp phòng ngừa, giảm thiểu ô nhiễm môi trường khu
vực dự án.
- Các biện pháp bảo vệ môi trường nước, đất, không khí, môi trường tiếng ồn,