1. Trang chủ >
  2. Nông - Lâm - Ngư >
  3. Ngư nghiệp >

Chương 4: Quản lý nhà nước đối với phát triển công nghiệp nông thôn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 174 trang )


công truyền thống với hiện đại, đáp ứng được nhu cầu của thị trường hiện nay

là các sản phẩm tiểu thủ công nghiệp nhưng phải hiện đại, các sản phẩm thủ

công nghiệp nhưng phải tinh xảo. Chỉ có như vậy, sự phát triển công nghiệp tiểu

thủ công nghiệp nông thôn mới vững chắc trên cơ sở thoả mãn những đòi hỏi

ngày càng cao của nhu cầu thị trường, kể cả thị trường trong nước và quốc tế.

Trên cơ sở quy hoạch định hướng, Nhà nước cần xây dựng và đầu tư thực hiện

một số dự án trọng điểm phát triển công nghiệp nông thôn. Trong quá trình thực

hiện dự án, cần huy động sức lực của các ngành, các cấp có liên quan và sự

tham gia tích cực của người dân, đặc biệt là các đối tượng thụ hưởng kết quả

của dự án.

1.2. Xây dựng và thực hiện hệ thống chính sách phù hợp khuyến khích

phát triển công nghiệp nông thôn

Việc phân tích các yếu tố môi trường thể chế phát triển nông nghiệp, nông thôn

nước ta hiện nay cho thấy còn ít có chủ trương và những chính sách cụ thể để

thúc đẩy phát triển công nghiệp nông thôn. Nội lực tự thân để phát triển công

nghiệp nông thôn nước ta còn rất hạn chế, tự nó không thể phát triển tốt trong

điều kiện cạnh tranh, do vậy Nhà nước cần xây dựng và thực hiện hệ thống

chính sách khuyến khích phát triển lĩnh vực này. Hệ thống chính sách nói trên

cần hướng vào việc giải quyết những vướng mắc chủ yếu hiện nay là:

- Chính sách về việc cấp đất, cho thuê đất làm địa điểm sản xuất, địa điểm làm

cửa hàng bán và giới thiệu sản phẩm…

- Chính sách hỗ trợ về tài chính cho phát triển công nghiệp nông thôn như: Cho

vay ưu đãi và dài hạn; miễn, giảm thuế có thời hạn…

- Khuyến khích sự phát triển và trợ cấp cho các hoạt động của các tổ chức tư

vấn, đào tạo chuyên gia hoặc thợ lành nghề cho công nghiệp nông thôn.

Xây dựng và thực hiện các chích sách khuyến khích tinh thần khác như công

nhận và tôn vinh các nghệ nhân; khuyến khích bảo tồn và phát huy bản sắc văn

hoá dân tộc của các sản phẩm do công nghiệp nông thôn sản xuất…

1.3. Nhà nước khuyến khích đầu tư phát triển các khu công nghiệp vừa và

nhỏ, các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong phát triển công nghiệp nông

thôn.

Hiện nay trong nông thôn, các cơ sở sản xuất kinh doanh của công nghiệp nông

thôn chủ yếu tồn tại dưới hình thức kinh tế gia đình, sản xuất kinh doanh diễn ra

ngay tại nơi ở của các hộ gia đình, tại đó vừa là nơi ở, vừa là nơi sản xuất nên

nhà xưởng quá chật hẹp, môi trường bị ô nhiễm, cơ sở hạ tầng yếu kém và

không phù hợp, không có khả năng mở rộng sản xuất kinh doanh. Trong tương

lai phải tách khu vực sản xuất ra khỏi khu vực nhà ở bằng cách phát triển các

khu công nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn. Đây thực chất là các cụm công

nghiệp nông thôn được Nhà nước chủ động xây dựng xuất phát từ những nhu

cầu tất yếu nảy sinh trong quá trình phát triển nông thôn mới ngày nay. Trong

quá trình xây dựng và phát triển các cụm công nghiệp mới này, vai trò “bà đỡ”

của Nhà nước là rất quan trọng, đặc biệt là các cấp chính quyền địa phương.



Hình thức tổ chức kinh doanh phổ biến trong công nghiệp nông thôn hiện nay là

hộ kinh tế gia đình, chiếm tới 98% trong tổng số các cơ sở sản xuất kinh doanh

công nghiệp ở nông thôn. Hộ kinh tế gia đình có nhiều ưu điểm như tận dụng

các loại lao động và sản xuất công nghiệp gia đình, huy động được vốn nhàn rỗi

trong dân… nhưng có nhiều hạn chế về các mặt: chậm đổi mới công nghệ, thiếu

vốn mở rộng sản xuất, tiếp cận thị trường. Để công nghiệp nông thôn phát triển

mạnh theo hướng sản xuất hàng hoá, Nhà nước coi trọng phát triển các doanh

nghiệp vừa và nhỏ thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Các doanh nghiệp

vừa và nhỏ này được hình thành theo hai cách:

- Từ kinh tế hộ gia đình tích tụ và tập trung thành các doanh nghiệp vừa và nhỏ,

đây là cách chủ yếu.

- Lập mới một số doanh nghiệp vừa và nhỏ bằng cách gọi vốn đầu tư từ những

người sống ở thành thị và ở địa phương khác.

Vai trò của Nhà nước trong việc thúc đẩy phát triển các doanh nghiệp vừa và

nhỏ trong công nghiệp nông thôn thể hiện ở chỗ từng ngành, từng cấp chính

quyền có liên quan cần theo dõi và xử lý kịp thời những vướng mắc, điều kiện

cần thiết cho sự phát triển như tạo điều kiện thuận lợi cho việc đăng ký kinh

doanh, chuyển đổi hình thức kinh doanh, tạo môi trường lành mạnh và bình

đẳng trong việc cấp hay thuê đất phục vụ kinh doanh, bảo lãnh tín dụng, hỗ trợ

đào tạo, lập các hội nghề nghiệp để hỗ trợ lẫn nhau, thực hiện các chính sách

ưu đãi hay khuyến khích về vật chất hoặc tinh thần cho phát triển các doanh

nghiệp vừa và nhỏ.

1.4. Bảo vệ môi trường trong phát triển công nghiệp nông thôn.

Nhà nước luôn quan tâm ngay từ đầu tới vấn đề bảo vệ môi trường để đảm bảo

sự phát triển bền vững của ngành nghề, làng nghề cũng như của công nghiệp

nông thôn nói chung. Về mặt chiến lược phát triển, đây thực chất là mối quan hệ

giữa tăng trưởng hiện tại và tăng trưởng bền vững trong tương lai.

Vai trò của Nhà nước, đặc biệt là của các cấp chính quyền ở địa phương trong

việc bảo vệ môi trường thể hiện ở một số mặt sau đây:

- Xây dựng và giám sát việc thực hiện các quy định về bảo vệ môi trường trong

mọi hoạt động của các ngành công nghiệp nông thôn.

- Hướng dẫn, tổ chức thực hiện các hoạt động bảo vệ môi trường bằng những

hình thức phù hợp như tuyên truyền về pháp luật bảo vệ môi trường, chính sách

hỗ trợ cho các tổ chức hoạt động vệ sinh môi trường và dịch vụ xử lý môi

trường…

- Trực tiếp đầu tư từ ngân sách Nhà nước cho việc xây dựng các công trình bảo

vệ môi trường ở các cụm công nghiệp nông thôn mới xây dựng, đầu tư xử lý

hoặc khắc phục ô nhiễm ở một số làng nghề…

Phát triển công nghiệp nông thôn là kết quả của quá trình vận động tự thân của

các ngành công nghiệp nông thôn trong nền kinh tế thị trường và hiệu lực của

các tác động thuận lợi từ phía Nhà nước. Vai trò của Nhà nước đối với phát



triển công nghiệp nông thôn Việt Nam hiện nay thể hiện ở các mặt chủ yếu là:

bảo đảm việc tuân thủ pháp luật về kinh tế của các doanh nghiệp công nghiệp

nông thôn, quy hoạch định hướng phát triển CNNT; xây dựng và vận hành hệ

thống chính sách khuyến khích phát triển CNNT; khuyến khích đầu tư phát triển

các khu công nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn và

những vấn đề liên quan đến bảo vệ môi trường trong phát triển công nghiệp

nông thôn.

Hiện nay Luật Bảo vệ môi trường đã quy định khá chi tiết trách nhiệm của các

cơ quan quản lý, các đòan thể, các tầng lớp nhân dân và các cơ sở, doanh

nghiệp trong công việc bảo vệ môi trường.

Chẳng hạn đối với các khu sản xuất công nghiệp, các cơ sở doanh nghiệp công

nghiệp nông thôn, Luật quy định:

Điều 36. Bảo vệ môi trường đối với khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung

1. Khu kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, cụm công

nghiệp, khu du lịch và khu vui chơi giải trí tập trung (trong Luật này gọi chung là

khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung) phải đáp ứng các yêu cầu về bảo

vệ môi trường sau đây:

a) Tuân thủ quy hoạch phát triển tổng thể đã được phê duyệt;

b) Quy hoạch, bố trí các khu chức năng, loại hình hoạt động phải gắn với bảo vệ

môi trường;

c) Thực hiện đầy đủ, đúng các nội dung của báo cáo đánh giá tác động môi

trường đã được phê duyệt;

d) Có đầy đủ các thiết bị, dụng cụ thu gom, tập trung chất thải rắn thông thường,

chất thải nguy hại và đáp ứng các yêu cầu tiếp nhận chất thải đã được phân loại

tại nguồn từ các cơ sở trong khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung;

đ) Có hệ thống thu gom và xử lý nước thải tập trung, hệ thống xử lý khí thải đạt

tiêu chuẩn môi trường và được vận hành thường xuyên;

e) Đáp ứng các yêu cầu về cảnh quan môi trường, bảo vệ sức khoẻ cộng đồng

và người lao động;

g) Có hệ thống quan trắc môi trường;

h) Có bộ phận chuyên môn đủ năng lực để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ môi

trường.

2. Khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, cụm công nghiệp có

nguy cơ gây tác hại đối với môi trường phải có khoảng cách an toàn về môi

trường đối với khu dân cư, khu bảo tồn thiên nhiên.

3. Việc triển khai các dự án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ bên trong khu sản

xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung chỉ được thực hiện sau khi đã đáp ứng đầy

đủ các yêu cầu quy định tại khoản 1 Điều này và được cơ quan nhà nước có

thẩm quyền kiểm tra, xác nhận.



4. Bộ phận chuyên môn về bảo vệ môi trường trong khu sản xuất, kinh doanh,

dịch vụ tập trung có nhiệm vụ sau đây:

a) Kiểm tra, giám sát việc thực hiện các yêu cầu về bảo vệ môi trường đối với

các cơ sở, dự án đầu tư bên trong khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung;

b) Quản lý hệ thống thu gom, tập trung chất thải rắn thông thường, chất thải

nguy hại; hệ thống thu gom và xử lý nước thải tập trung và hệ thống xử lý khí

thải;

c) Tổ chức quan trắc, đánh giá hiện trạng môi trường, tổng hợp, xây dựng báo

cáo môi trường và định kỳ báo cáo cơ quan chuyên môn về bảo vệ môi trường

cấp tỉnh;

d) Tư vấn cho ban quản lý giải quyết tranh chấp liên quan đến môi trường giữa

các dự án trong khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung.

5. Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm phối hợp với bộ, cơ quan ngang bộ,

cơ quan thuộc Chính phủ có liên quan để chỉ đạo, tổ chức việc thực hiện bảo vệ

môi trường đối với khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung trên địa bàn quản

lý của mình.

Điều 37. Bảo vệ môi trường đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ

1. Cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ phải đáp ứng các yêu cầu về bảo vệ môi

trường sau đây:

a) Có hệ thống kết cấu hạ tầng thu gom và xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn môi

trường.

Trường hợp nước thải được chuyển về hệ thống xử lý nước thải tập trung thì

phải tuân thủ các quy định của tổ chức quản lý hệ thống xử lý nước thải tập

trung;

b) Có đủ phương tiện, thiết bị thu gom, lưu giữ chất thải rắn và phải thực hiện

phân loại chất thải rắn tại nguồn;

c) Có biện pháp giảm thiểu và xử lý bụi, khí thải đạt tiêu chuẩn trước khi thải ra

môi trường; bảo đảm không để rò rỉ, phát tán khí thải, hơi, khí độc hại ra môi

trường; hạn chế tiếng ồn, phát sáng, phát nhiệt gây ảnh hưởng xấu đối với môi

trường xung quanh và người lao động;

d) Bảo đảm nguồn lực, trang thiết bị đáp ứng khả năng phòng ngừa và ứng phó

sự cố môi trường, đặc biệt là đối với cơ sở sản xuất có sử dụng hoá chất, chất

phóng xạ, chất dễ gây cháy, nổ.

2. Cơ sở sản xuất hoặc kho tàng thuộc các trường hợp sau đây không được đặt

trong khu dân cư hoặc phải có khoảng cách an toàn về môi trường đối với khu

dân cư:

a) Có chất dễ cháy, dễ gây nổ;

b) Có chất phóng xạ hoặc bức xạ mạnh;



c) Có chất độc hại đối với sức khoẻ người và gia súc, gia cầm;

d) Phát tán mùi ảnh hưởng xấu tới sức khoẻ con người;

đ) Gây ô nhiễm nghiêm trọng các nguồn nước;

e) Gây tiếng ồn, phát tán bụi, khí thải quá tiêu chuẩn cho phép.

Điều 38. Bảo vệ môi trường đối với làng nghề

1. Việc quy hoạch, xây dựng, cải tạo và phát triển làng nghề phải gắn với bảo vệ

môi trường.

Nhà nước khuyến khích phát triển khu, cụm công nghiệp làng nghề có chung hệ

thống kết cấu hạ tầng bảo vệ môi trường.

2. Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm chỉ đạo, tổ chức thống kê, đánh giá

mức độ ô nhiễm của các làng nghề trên địa bàn và có kế hoạch giải quyết tình

trạng ô nhiễm môi trường của làng nghề bằng các biện pháp sau đây:

a) Cải tạo, nâng cấp hoặc xây mới hệ thống thu gom, xử lý nước thải tập trung;

b) Xây dựng khu tập kết chất thải rắn thông thường, chất thải nguy hại, bố trí

thiết bị đáp ứng yêu cầu thu gom chất thải và phù hợp với việc phân loại tại

nguồn phục vụ cho việc xử lý tập trung;

c) Quy hoạch khu, cụm công nghiệp làng nghề để di dời cơ sở sản xuất gây ô

nhiễm môi trường nghiêm trọng ra khỏi khu dân cư;

d) Tuyên truyền, phổ biến để nhân dân biết và áp dụng công nghệ mới ít gây ô

nhiễm.

3. Cơ sở sản xuất trong các khu, cụm công nghiệp làng nghề phải thực hiện các

yêu cầu sau đây về bảo vệ môi trường:

a) Nước thải phải được thu gom và chuyển về hệ thống xử lý nước thải tập

trung; trường hợp chưa có hệ thống xử lý nước thải tập trung thì phải có biện

pháp xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn môi trường trước khi thải;

b) Chất thải rắn phải được phân loại tại nguồn và chuyển về khu tập kết chất

thải rắn theo quy định về quản lý chất thải; trường hợp chất thải rắn có yếu tố

nguy hại thì phải được phân loại, thu gom, lưu giữ, xử lý theo quy định về quản

lý chất thải nguy hại;

c) Đóng góp kinh phí xây dựng kết cấu hạ tầng về bảo vệ môi trường và nộp

đầy đủ phí bảo vệ môi trường theo quy định của pháp luật.

Quản lý nhà nước đối với phát triển công nghiệp nông thôn

Sự cần thiết của quản lý Nhà nước đối với ngành công nghiệp nước ta nói

chung và đối với công nghiệp nông thôn

Vấn đề cơ bản trong phát triển nền kinh tế của mỗi quốc gia hiện nay là tìm ra

một phương thức tốt nhất để phối hợp giữa "bàn tay hữu hình" và "bàn tay vô



hình", tức là giữa sư quản lý của Nhà nước và sự vận động của thị trường. Thị

trường tác động tích cực đến mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế. Nó là

phương thức tốt nhất để phân bố và sử dụng các nguồn lực có hiệu quả. Cơ

chế thị trường thoả mãn tốt nhất lợi ích cá nhân, tạo động lực mạnh mẽ cho

tăng trưởng kinh tế nhưng nó cũng chứa đựng nhiều khuyết tật. Do đó có

những cái mà chỉ Nhà nước mới làm được hoặc làm tốt hơn thị trường. Trong

thời đại ngày nay, lý luận và thực tiễn đều chỉ ra rằng đối với nước ta, vai trò

quản lý kinh tế của Nhà nước là nhân tố quan trọng cho sự tăng trưởng và phát

triển; không những cần thiết nhằm hạn chế các khuyết tật của cơ chế thị trường,

mà còn quyết định cho sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại

hoá đất nước và bảo đảm cho sự phát triển đi đúng định hướng XHCN mà

chúng ta đã lựa chọn.

Trong bất kỳ chế độ xã hội nào, quản lý nhà nước về kinh tế nói chung và đối

với ngành công nghiệp nói riêng là một tất yếu khách quan. Điều này không

những xuất phát từ các yêu cầu cần thiết của quản lý nhà nước về kinh tế mà

còn xuất phát từ những đặc trưng riêng của ngành công nghiệp.

Nó được thể hiện qua các đặc điểm sau:

Một là, CN là một ngành sản xuất vật chất to lớn có vị trí chủ đạo trong nền kinh

tế quốc dân, có vai trò nòng cốt trong cơ sở hạ tầng của xã hội. Do đó để tạo

dựng, định hướng sự phát triển và bảo vệ bộ phận kiến trúc thượng tầng đòi hỏi

Nhà nước phải quản lý cơ sở hạ tầng mà trước hết là CN.

Hai là, cùng với sự phát triển là quá trình phân công lao động xã hội trong CN

diễn ra mạnh mẽ nên nền sản xuất hàng hoá ở trong CN phát triển với trình độ

cao hơn các ngành khác, vì vậy tác động của cơ chế thị trường với những mặt

tích cực và tiêu cực cũng nhiều hơn. Do đó tất yếu phải có sự can thiệp, điều

chỉnh mạnh mẽ hơn của Nhà nước vào hoạt động của ngành CN để điều tiết,

định hướng CN phát triển theo những mục tiêu chung về kinh tế vĩ mô như: ổn

định nền kinh tế, tạo khung khổ pháp lý cho hoạt động CN; xây dựng hệ thống

cơ sở hạ tầng, hệ thống thông tin, dịch vụ hàng hoá công cộng; khuyến khích

phân phối thu nhập công bằng; đồng thời hạn chế những tác hại như xu thế dẫn

đến độc quyền, tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, gây ô nhiễm môi

trường, làm cạn kiệt các nguồn tài nguyên v.v.. .

Ba là, do đặc điểm về tính đa dạng hoá hoạt động, đa dạng hoá sản phẩm, về

công nghệ sản xuất của quá trình sản xuất CN mà trong CN có sự phân công

lao động sâu hơn, trình độ xã hội hoá cao hơn bất cứ một ngành sản xuất nào

khác. Vì thế đòi hỏi phải có sự quản lý của Nhà nước để cho quá trình sản xuất

CN diễn ra nhịp nhàng, cân đối, đúng định hướng, theo quy hoạch chung; tránh

được tình trạng khủng hoảng và các mặt tiêu cực khác luôn có khả năng xảy ra

làm ảnh hưởng đến lợi ích chung của nền kinh tế và của toàn xã hội.

Ở vùng đồng bằng sông Củu Long, sự cần thiết quản lý nhà nước đối với công

nghiệp nói chung và CNNT nói riêng còn



Một là, xuất phát từ yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đang

diễn ra tại địa phương dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ và tác động quản lý nhà

nước của chính quyền địa phương. CN nông thôn hiện tuy có phát triển nhưng

tốc độ còn chậm; các tiềm năng, thế mạnh của ngành nghề CN chưa được khai

thác và phát huy; cho nên vai trò tác động của CN đối với chuyển dịch cơ cấu

kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá kinh tế ngày càng có vai trò to

lớn tác động đến tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội tại địa phương

như trên đã phân tích.

Hai là, xuất phát từ yêu cầu hoạt động sản xuất kinh doanh của các cơ sở,

doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, của các ngành nghề khác nhau ở

các tỉnh, trong đó có các ngành nghề CNNT; từ đó cần có sự quản lý nhà nước

để tổ chức, điều hoà, phối hợp và kiểm tra nhằm tạo môi trường pháp lý an

toàn, công bằng; tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh, tạo sự phát triển đồng bộ, cân

đối, hợp lý theo mục tiêu lợi ích chung và đảm bảo sự phát triển ổn định, bền

vững. Mặt khác; vấn đề bảo vệ môi trường trong sản xuất công nghiệp, tiểu thủ

công nghiệp ở các thành phần kinh tế, các quy mô hoạt động khác nhau của

CNNT cũng đòi hỏi cần có vai trò quản lý của Nhà nước.

Ba là, xuất phát từ quyền lợi của các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất CN - TTCN

ở vùng nông thôn cần có sự dẫn dắt, hỗ trợ của Nhà nước về thông tin, về vốn,

về chính sách khuyến khích đầu tư cũng như sự đảm bảo thực thi pháp luật

bình đẳng, giữ gìn trật tự và công bằng xã hội, an toàn về tính mạng, tài sản và

hoạt động sản xuất để từ đó các thành phần kinh tế mạnh dạn đầu tư, mở mang

ngành nghề mới, nâng cao chất lượng và quy mô sản xuất kinh doanh nhằm

góp phần phát triển nhanh CN tại địa phương.

Bốn là, xuất phát từ đặc điểm của CN nông thôn là đa số quy mô vừa và nhỏ,

gắn với quá trình phát triển của nông thôn và tiêu thụ sản phẩm của nông

nghiệp. Do đó bên cạnh vai trò năng động, vị trí ngày càng nâng cao của các

doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế; bản thân các cơ sở, doanh nghiệp

CN cũng có những vướng mắc khó khăn cần được hỗ trợ, mà chỉ có vai trò

quản lý của Nhà nước mới có thể giải quyết có hiệu lực và hiệu quả, nhằm giúp

cho hoạt động sản xuất CN phát triển ổn định và đúng hướng, tác động tích cực

đến phát triển nông thôn.

Cho nên cần thiết có sự quản lý của Nhà nước đối với CN mới giải quyết được

các vấn đề vừa nêu đồng thời điều chỉnh, hỗ trợ cho CN địa phương phát triển

đúng đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước với tốc độ tăng trưởng

các ngành nghề CN TTCN trên các vùng lãnh thổ một cách hợp lý và có hiệu

quả.

Quản lý nhà nước thường được hiểu là sự quản lý về mặt nhà nước của các cơ

quan quản lý hành chính nhà nước ở các địa phương. Tuy nhiên, đối với công

nghiệp nông thôn thì sự quản lý nhà nước thường không chỉ dừng lại ở đó, mà

phải bao gồm cả việc hỗ trợ và tổ chức việc du nhập, duy trì, bảo tồn và phát

triển các hoạt động sản xuất có tính công nghiệp ở nông thôn.



Có thể thấy ba xu hướng sau đây trong quản lý nhà nước đối với công nghiệp

nông thôn:

+ Xu hướng thứ nhất là “buông trôi” các hoạt động sản xuất, coi quản lý nhà

nước là quản lý hành chính đơn thuần.

+ Xu hướng thứ hai là quản lý các cơ sở một cách “càng chặt càng tốt”, thậm

chí dùng cả những quyết định hành chính như trong thời kỳ thực hiện cơ chế kế

hoạch hoá tập trung trước đây. Hiện tượng này không nhiều và không phổ biến,

nhưng tồn tại một cách rộng rãi.

+ Xu hướng thứ ba là phối hợp hai cách trên tuỳ theo tình hình và điều kiện

từng vùng, từng ngành nghề mà cách làm của các địa phương khá đa dạng và

mức độ “can thiệp” của chính quyền địa phương đối với các ngành công nghiệp

nông thôn cũng khác nhau.

Đánh giá một cách khái quát về tác động của sự quản lý nhà nước đối với công

nghiệp nông thôn, có thể nêu một số vấn đề cơ bản sau đây:

Vai trò của các cơ quan quản lý nhà nước đối với công nghiệp nông thôn còn

yếu. Điều này vừa thể hiện ở số lượng cán bộ quản lý nhà nước ở các cấp và

việc tổ chức công tác quản lý nhà nước đối với khu vực kinh tế này. Trong khi

số cán bộ quản lý nhà nước đối với công nghiệp nông thôn còn ít thì lại bị phân

tán ở quá nhiều đầu mối mà thiếu sự hiệp tác, công tác với nhau

Các cơ quan quản lý nhà nước chưa thực sự chủ động hỗ trợ cho công nghiệp

nông thôn phát triển. Sư thụ động thể hiện rõ nét qua số lượng các tài liệu, văn

bản hướng dẫn cho các doanh nghiệp và các cơ sở sản xuất ở nông thôn trong

việc thực hiện chính sách của Nhà nước, giải quyết các vấn đề liên quan tới sản

xuất- kinh doanh của họ:

Nhiều chức năng quản lý nhà nước bị chồng chéo, trong khi nhiều chức năng

khác bị buông lỏng hoặc bỏ rơi.

Cơ chế hoạt động chưa rõ ràng trong phần lớn các trường hợp. Việc quản lý

nhà nước và hoạt động dịch vụ cho công nghiệp nông thôn nhiều khi không

được phân biệt, tác động bất lợi tới các quan hệ giữa các cơ quan quản lý nhà

nước và các đơn vị sản xuất-kinh doanh.

Các chính sách cơ chế quản lý thường xây dựng do yêu cầu kinh tế xã hội phát

triển đòi hỏi, do đòi hỏi của quan hệ sản xuất đã phát triển trước nên sự quản lý

nhà nước chưa chủ động trong định hướng cho các ngành nghề, chậm đổi mới

và đôi khi lại kềm hãm tốc độ phát triển kinh tế xã hội tại địa phương.

Tuy các chủ thể kinh doanh có trách nhiệm tự tìm hiểu, nghiên cứu các văn bản

của Nhà nước có liên quan tới hoạt động sản xuất – kinh doanh của họ, nhưng

các cơ quan quản lý nhà nước cũng có trách nhiệm phổ biến, cụ thể hoá (trong

trường hợp cần thiết và trong phạm vi quyền hạn được trao), giải thích và

hướng dẫn thực hiện các chính sách, quy định, thể lệ chung tạo thành khung

pháp lý cho các doanh nghiệp hoạt động.



Nội dung quản lý nhà nước đối với ngành công nghiệp nói chung

Nội dung QLNN đối với ngành CN là tập hợp các nhiệm vụ khác nhau mà Nhà

nước phải thực hiện để quản lý hệ thống CN; nó thể hiện qua các chức năng

QLNN về kinh tế, trong đó có ngành CN.

Xuất phát từ mục tiêu chung của QLNN đối với nền kinh tế, từ những đặc trưng

của CN cũng như từ tình hình cụ thể của địa phương mà QLNN đối với ngành

CN nước ta nói chung, đối với công nghiệp nông thôn ở từng địa phương nói

riêng cần thực hiện những nhiệm vụ cơ bản sau:

2.3.1. Định hướng cho công nghiệp phát triển.

Đó là nhiệm vụ quan trọng, cơ bản và đầu tiên để thực hiện các nhiệm vụ còn

lại cũng như quyết định toàn bộ quá trình QLNN đối với công nghiệp nói chung.

Ở nước ta, định hướng phát triển công nghiệp theo quan điểm đường lối lãnh

đạo của Đảng CSVN, nhằm phục vụ mục tiêu xây dựng CNXH, bảo đảm dân

giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh; phát triển theo định hướng công

nghiệp hoá hiện đại hoá, phát triển một nền đại công nghiệp cơ khí hoá cao, có

khả năng cải tạo nông nghiệp. Từ định hướng đúng đắn giúp phát triển công

nghiệp bền vững, có tốc độ nhanh và đối phó được với mọi sự không ổn định

trong nước cũng như khu vực và thế giới.

Nhiệm vụ định hướng trong QLNN về phát triển công nghiệp phải theo đường

lối chung của Đảng, chủ trương pháp luật của Nhà nước, cụ thể qua chiến lược

và quy hoạch phát triển ngành CN của Chính phủ, của Bộ CN; đồng thời căn cứ

vào chủ trương lãnh đạo của Tỉnh Đảng bộ dựa trên điều kiện kinh tế xã hội cụ

thể của địa phương và đặc điểm của CN TTCN địa phương mà chính quyền có

chính sách, biện pháp quản lý thích hợp đối với ngành CN.

Nhiệm vụ định hướng phát triển CN được thực hiện thông qua các hình thức

như: hoạch định chiến lược phát triển ngành CN chung cho cả nước, cho từng

địa phương; thiết lập các kế hoạch, xây dựng các quy hoạch phát triển, các

chương trình, dự án, đề án và các chính sách phát triển ngành CN ở cả nước, ở

từng vùng lãnh thổ và từng địa phương. Những hình thức trên có quan hệ chặt

chẽ với nhau, làm tiền đề và điều kiện cho nhau; mỗi hình thức có một vị trí nhất

định trong định hướng phát triển. Chiến lược và chính sách được xem là hình

thức quan trọng nhất; trong đó chính sách là bộ phận năng động nhất.

Định hướng phát triển CN còn thông qua việc xác định cơ cấu chung cho toàn

bộ nền kinh tế quốc dân theo từng thời kỳ; thông qua việc ban hành các chính

sách đối với từng thành phần kinh tế một cách thích hợp; thông qua việc xác

định cơ cấu từng ngành CN chuyên môn hoá trong hệ thống ngành CN; thông

qua việc xác định các ngành, nghề CN mũi nhọn, có lợi thế cạnh tranh và có vị

trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân nói chung và đối với kinh tế địa

phương nói riêng.

Đồng thời để CN phát triển theo đúng định hướng, cần tiến hành các hoạt động

sau:



- Hình thành toàn diện, đồng bộ các loại thị trường của các yếu tố đầu vào và

đầu ra cho sản xuất CN như: thị trường vốn, thị trường tư liệu sản xuất, thị

trường công nghệ, thị trường lao động, thị trường sản phẩm và dịch vụ…

- Tạo điều kiện về cơ sở hạ tầng được xem như là điều kiện tiên quyết để phát

triển kinh tế, trong đó có CN. Sản xuất CN không thể phát triển được nếu không

được đảm bảo về nguồn nhân lực, giao thông, điện, nước, thông tin liên lạc và

các dịch vụ khác. Dịch vụ cơ sở hạ tầng (thường là các hàng hoá công cộng)

đòi hỏi một khối lượng vốn lớn, thời gian thu hồi vốn dài và việc thu hồi vốn khó

khăn, phần lớn thu hồi vốn một cách gián tiếp mà ít thu hồi trực tiếp, vì vậy các

thành phần kinh tế ngoài Nhà nước ít làm hay không muốn làm. Cho nên Nhà

nước tất yếu phải có trách nhiệm đầu tư bằng vốn nhà nước một cách trực tiếp

hay gián tiếp trong việc cung cấp các dịch vụ cơ sở hạ tầng cho sản xuất. Một

số dịch vụ cơ sở hạ tầng mà Nhà nước đặc biệt quan tâm là: giáo dục, giao

thông, thông tin, y tế, năng lượng, công nghệ, phúc lợi xã hội… Sự điều tiết của

Nhà nước để sử dụng ngân sách nhà nước cho xây dựng cơ sở hạ tầng theo

hướng nào, mức độ đến đâu tuỳ thuộc vào hiệu quả sử dụng đồng vốn của mỗi

cách sử dụng vốn.

2.3.2. Xây dựng chủ trương, chính sách và cơ chế quản lý nhà nước đối với

ngành công nghiệp.

Chủ trương và chính sách quản lý nhà nước nhằm tạo ra được môi trường, điều

kiện thuận lợi, những động lực mạnh mẽ và có các giải pháp để điều tiết, điều

chỉnh hệ thống CN theo những định hướng đã định của các cơ quan quản lý

nhà nước (chủ thể QLNN); đảm bảo đúng mức độ, tính ổn định của sự phát

triển và đạt được hiệu quả kinh tế xã hội ngày càng cao..

Chủ trương, chính sách của Nhà nước nhằm tạo môi trường ổn định về chính

trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, pháp lý và tâm lý cho hoạt động của doanh nghiệp

và thị trường. Môi trường kinh doanh là tổng thể các yếu tố bên ngoài (đó là các

yếu tố môi trường vi mô và vĩ mô) tác động đến các quyết định sản xuất kinh

doanh trên thị trường. Trong đó, QLNN có vai trò quan trọng đối với việc tạo ra

các yếu tố thuộc môi trường vĩ mô; đó là đề ra và thực thi các chủ trương, chính

sách thông qua các công cụ QLNN nhằm duy trì sự ổn định kinh tế vĩ mô, giữ

vững ổn định chính trị, bảo đảm ổn định xã hội (như giải quyết vấn đề dân số,

tạo việc làm, xoá đói giảm nghèo, thực hiện công bằng xã hội), củng cố và phát

triển văn hoá, khắc phục những hiện tượng tiêu cực trên thị trường, bảo vệ môi

trường sinh thái.

Quản lý nhà nước về CN là sự quản lý của bộ máy Nhà nước đối với toàn bộ

ngành CN bằng quyền lực nhà nước thông qua cơ chế quản lý kinh tế nói

chung, qua cơ chế vận hành và cơ chế tác động quản lý nhà nước đối với CN

nói riêng nhằm đảm bảo tốc độ tăng trưởng và định hướng phát triển CN theo

mục tiêu đã định.

Cơ chế vận hành và cơ chế tác động quản lý nhà nước đối với kinh tế nói

chung, đối với CN nói riêng trong giai đoạn đổi mới hiện nay, bao gồm: hệ thống

kế hoạch định hướng, hệ thống luật và các văn bản hành chính dưới luật, hệ



thống đòn bẩy kinh tế và khuyến khích kinh tế như: giá cả, tài chính, thuế, tín

dụng… nằm trong hệ thống kinh tế quốc dân và gắn bó hữu cơ với xây dựng cơ

cấu kinh tế và hệ thống tổ chức quản lý. Nó hình thành nên hệ thống công cụ,

thông qua đó Nhà nước quản lý toàn bộ nền kinh tế quốc dân, trong đó có quản

lý nhà nước đối với ngành CN .

2.3.3. Xác định và sử dụng hệ thống công cụ quản lý nhà nước đối với công

nghiệp.

Thông qua sử dụng tổng hợp các phương pháp quản lý để điều chỉnh có hiệu

lực và hiệu quả quá trình phát triển và hoạt động sản xuất kinh doanh của CN.

Một số phương pháp cơ bản là:

Một là, phương pháp hành chính – luật pháp: Trong số các hàng hoá công cộng

mà chỉ có Nhà nước mới có thể cung cấp thì hệ thống pháp luật và thể chế có vị

trí quan trọng nhất. Vì nó xác lập khuôn khổ pháp lý cho các hoạt động và các

quan hệ trong sản xuất kinh doanh, đảm bảo cho thị trường hoạt động có hiệu

quả. Pháp luật kinh tế phản ảnh thái độ của Nhà nước đối với vấn đề sở hữu và

lợi ích kinh tế bằng việc ban hành và thực thi một hệ thống pháp luật về các loại

hình doanh nghiệp như Luật Doanh nghiệp, luật HTX, luật Khuyến khích đầu tư,

luật Thuế giá trị gia tăng, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp v.v… Thông qua đó

Nhà nước điều chỉnh các hành vi kinh doanh, quy định các chuẩn mực hoạt

động cho các cơ sở sản xuất, doanh nghiệp cùng kinh doanh trên thị trường;

thống nhất vì lợi ích chung; ngăn chặn những hành vi vì chạy theo lợi ích cá

nhân, lợi ích cục bộ mà vi phạm đến lợi ích của xã hội hay của các chủ thể

khác.

Luật pháp về kinh tế là một trong những công cụ QLNN có hiệu lực và hiệu quả

nền kinh tế, trong đó có ngành CN. Vì vậy việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống

pháp luật kinh tế cũng chính là quá trình hoàn thiện QLNN về kinh tế, hay hoàn

thiện QLNN đối với CN nói riêng. Thể chế kinh tế cũng như cơ chế quản lý chỉ

có thể trở thành hiện thực khi nó trở thành các hình thức khác nhau của luật

pháp. Muốn thế, hệ thống luật pháp phải đáp ứng yêu cầu về tính khách quan,

hợp quy luật, đảm bảo pháp chế và tạo thành một hệ thống thống nhất. Hệ

thống luật phải bao trùm hết các đối tượng chủ yếu phải điều chỉnh bằng luật;

phải bảo đảm tính đồng bộ, tính đồng hướng và tính thống nhất giữa các văn

bản pháp luật, giữa các bộ phận của một điều luật, tránh sự chồng chéo và

thiếu tính nhất quán. Đồng thời các bộ phận trong hệ thống quản lý nhà nước từ

Trung ương đến địa phương phải thực hiện đồng bộ giữa việc xây dựng, thực

thi và kiểm tra xử lý vi phạm pháp luật. Một điều quan trọng nữa nhằm phát huy

hiệu lực của hệ thống pháp luật trong QLNN đối với công nghiệp là phải không

ngừng giáo dục kiến thức luật pháp cho đội ngũ cán bộ công chức quản lý nhà

nước, đội ngũ quản trị kinh doanh ở các loại hình doanh nghiệp khác nhau.

Hai là, phương pháp kinh tế: Bên cạnh đó, Nhà nước xây dựng cơ chế hình

thành và sử dụng một số công cụ quản lý vĩ mô của phương pháp kinh tế trong

QLNN đối với CN như:



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (174 trang)

×