Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 174 trang )
sinh môi trường thấp kém. Nhìn chung chất lượng đời sống dân cư nông thôn
thấp hơn nhiều dân cư của đô thị.
Tình trạng nghèo nàn, lạc hậu hiện nay ở một số vùng nông thôn đồng bằng
sông Cửu Long vì nhiều nguyên nhân như: thiên tai, lũ lụt, chính sách của Nhà
nước chưa điều chỉnh kịp thời và phù hợp, cơ chế thị trường tác động, do bản
thân người lao động không biết cách làm ăn, không có tay nghề, kiến thức khoa
học… Nhưng vấn đề cơ bản ở đây là mọi sinh họat đời sống, vật chất tinh thần
của người dân đồng bằng SCL đều chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp,
trong đó thu nhập từ trồng lúa là nhân tố quyết định mức tiêu dùng của các hộ
nông dân. Trong khi đó, hàng năm sản xuất nông nghiệp chịu nhiều ảnh hưởng
của thiên tai, lũ lụt, dịch bệnh, giá cả bấp bênh, đất đai ngày càng bạc màu…
Trước tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm còn nhiều, dân số tăng nhanh,
thời gian lao động chưa sử dụng hết như hiện nay thì cần phải đẩy mạnh khai
thác các tiềm năng, xóa dần tình trạng thần nông, độc canh cây lúa, đồng thời
phải tạo ra nhiều công việc làm từ nhiều ngành nghề, cả sản xuất nông nghiệp
và phi nông nghiệp.
Phát triển công nghiệp nông thôn sẽ là chìa khóa đẩy nhanh tốc độ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở đồng bằng sông Cửu Long.
Hiện nay nhiều lọai sản phẩm nông nghiệp của chúng ta chưa đáp ứng được
yêu cầu của thị trường, nhất là tình hình cạnh tranh ngày càng cao với các
nước trong khu vực; đặc biệt là thị trường xuất khẩu do giá thành cao, tính cạnh
tranh kém, hiệu quả sản xuất thấp. Do vậy việc chủ động tạo ra sự chuyển dịch
về cơ cấu kinh tế nông thôn vùng đồng bằng sông Cửu Long một cách mạnh
mẽ hơn là cần thiết.
Tuy nhiên cũng cần chú ý những khó khăn, mâu thẩu trong thời gian tới khi phát
triển công nghiệp nông thôn vùng ĐBSCL:
Vừa phải đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ thuần nông sang cơ
cấu kinh tế có công nghiệp và dịch vụ chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong khi
vừa phải đẩy mạnh sản xuất lương thực, thực phẩm nhằm đảm bảo an ninh
lương thực quốc gia, đồng thời vừa phải đẩy mạnh sự phát triển tòan diện của
nông, lâm, ngư nghiệp.
Vừa phải tạo ra sự chuyển dịch lao động từ lĩnh vực sản xuất nông nghiệp sang
lĩnh vực sản xuất công nghiệp và dịch vụ trong khi vẫn phải duy trì sự ổn định
về cơ cấu dân cư phân bố ở nông thôn.
Việc đẩy mạnh tốc độ cơ giới hóa, hiện đại hóa sản xuất nông nghiệp sẽ làm
cho tình trạng dư thừa lao động ở nông thôn. Nạn thất nghiệp ở nông thôn sẽ
tăng nhanh hơn, kéo theo phát sinh nhiều vấn đề xã hội phức tạp khó giải quyết.
Việc đẩy nhanh tốc độ xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật để đáp ứng yêu cầu
công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn trong điều kiện nguồn
tích lũy của dân cư nông thôn còn nhỏ, sự hỗ trợ của Nhà nước chưa đáp ứng
do kinh phí, ngân sách có hạn.
Những khó khăn, mâu thuẩn trên chỉ có thể giải quyết bằng cách đẩy mạnh phát
triển công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn. Trong đó vai trò của công nghiệp
nông thôn có tác dụng to lớn và giúp nông thôn phát triển bền vững.
1.2. Thực trạng phát triển công nghiệp nông thôn ở đồng bằng sông Cửu
Long
Nhờ đường lối đổi mới của Đảng, đặc biệt là hệ thống chính sách khuyến khích
phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần mà công nghiệp nông thôn ở
đồng bằng Sông Cửu Long những năm qua đã có những tiến bộ nhanh chóng
và ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế xã hội của vùng.
Công nghiệp nông thôn ở ĐBSCL phát triển mạnh từ khi nền kinh tế nước ta
chuyển sang cơ chế mới; do đó dù là sản xuất ở hộ gia đình cũng được cơ giới
hóa lao động ở mức độ cần thiết. Các ngành nghề sản xuất thủ công ở nông
thôn ĐBSCL chỉ còn chủ yếu ở các hộ làm nghề đan lát, làm hàng thủ công mỹ
nghệ… chiếm một tỷ trọng không đáng kể trong cơ cấu ngành nghề nông thôn..
CNNT vùng tập trung phát triển mạnh ở các thị trấn, thị tứ và ở những nơi đầu
mối giao thông quan trọng. Tính chất sản xuất hàng hóa của công nghiệp nông
thôn ở đồng bằng SCL thể hiện ở các họat động sản xuất kinh doanh đều
hướng đến thị trường, sản phẩm được thị trường tín nhiệm và bước đầu đã có
một số cơ sở, doanh nghiệp xuất khẩu được sản phẩm sang thị trường các
nước trên thế giới.
CNNT vùng ĐBSCL có kết cấu rất đa dạng và phong phú, trong đó nhóm ngành
chế biến nông sản chiếm tỷ trọng lớn nhất (chiếm 22,5% lực lượng lao động
ngành công nghiệp ở nông thôn, chiếm 40 - 60% giá trị sản xuất công nghiệp
của từng địa phương trong vùng).
Họat động chế biến lương thực thực phẩm rất phong phú, khó có thể thống kê
được hết. Nhưng những doanh nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm có quy
mô công nghiệp, khối lượng hàng hóa lớn ở các vùng nông thôn thì lại không
nhiều. Hiện nay họat động chế biến lươg thực, thực phẩm mạnh nhất ở ĐBSCL
chủ yếu là xay xát lúa gạo, đông lạnh thủy hải sản, sản xuất rau quả đông lạnh,
đóng hộp, chế biến nước mắm và các lọai tôm cá khô, ép dầu dừa.
Mỗi tỉnh ở vùng đồng bằng SCL đều có hàng ngàn cơ sở xay xát lúa gạo với
năng lực xay xát từ vài triệu tấn /năm trở lên. Các tỉnh vùng ĐBSCL đều có nhà
máy đông lạnh thủy sản với sản lượng hơn 25 ngàn tấn / năm; năm 2001, tòan
vùng đã có 46 nhà máy chế biến đông lạnh thủy sản với công suất khỏang 250
tấn / ngày.
Nhóm ngành nghề sản xuất vật liệu xây dựng phát triển mạnh, trong đó chủ yếu
là sản xuất gạch ngói.
Đến năm 2005, về công nghiệp sản xuất và phân phối điện; tổng công suất các
nguồn điện hoàn toàn vùng khoảng 1.390 MW, trong đó xây dựng mới 1320MW
(Nhà máy điện Ô Môn I+II công suất 600 MW, vốn đầu tư 600 triệu USD; Nhà
máy điện tua bin khí hỗn hợp Cà Mau công suất 720 MW với số vốn đầu tư 400
triệu USD (khoảng 5600 tỉ đồng), đang khảo sát để lập nghiên cứu báo cáo
TKT). Xây dựng hệ thống dây chuyền tải điện 110 KV, 220 KV và trạm biến áp
đồng bộ với nhà máy điện Ô Môn (138 km đường dây 220 KV, 4 trạm công suất
4x125 MVA; 384 km đường dây 110 KV, 15 trạm biến áp với tổng số vốn
khoảng 2016 tỷ đồng); đường dây cao thế Cà May - Ô Môn chiều dài 150 km.
Triển khai xây dựng khu công nghiệp khí - điện - đạm có công suất 720 MW
điện và 80 vạn tấn đạm urê/năm ở Cà Mau. Đưa khí từ Tây Nam về Cần Thơ để
phát triển điện khí Ô Môn, Trà Nóc.
Sản lượng xi măng đến năm 2005 tăng 4,17 triệu tấn, trong đó tập trung chủ
yếu sản xuất xi măng ở tỉnh Kiên Giang (3,05 triệu tấn).
Phát triển 2 cụm liên hợp dệt, may, nhuộm: 1 cụm ở Cần Thơ, 1 cụm ở Long An
có quy mô mỗi cụm: kéo sợi 2-3 vạn cọc; dệt vải mọc (vải nhẹ) cho áo sơ mi, vải
cho quần âu tổng công suất 20 triệu m/năm; dệt kim 1500 tấn/năm; nhuộm hoàn
tất cho vải bông, tổng hợp 45 triệu tấn/năm. Thu hút khoảng hơn 20.000 lao
động dư thừa từ nông nghiệp.
Đầu tư chiều sâu để hiện đại hoá các nhà máy, nâng cao chất lượng thuốc lá
điếu, đưa thuốc lá có đầu lọc, bao cứng lên 90%.
Tập trung nâng cao chất lượng bia cho 5 đơn vị quốc doanh địa phương, mở
rộng công suất, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong vùng, tiến hành sắp xếp, giảm
bớt cơ sở để nâng cao chất lượng. Đầu tư nhà máy nước giải khát từ trái cây
xoài, nhãn, cam, quýt, chôm chôm, công suất trên 10 triệu lít/ năm.
Mở rộng và nâng cao chất lượng chế biến thuỷ sản tại An Giang, Cà Mau, Sóc
Trăng, Cần Thơ, Trà Vinh ... đưa công suất chế biến lên hơn 25 vạn tấn/năm
vào năm 2005.
Phát triển 6 khu công nghiệp tập trung, đồng thời từng bước quy hoạch và hình
thành thêm một số khu công nghiệp với quy mô vừa và nhỏ (30 - 40 ha) tạo Cần
Thơ (KCN Hưng Phú), Bạc Liêu (KCN Trà Kha, Gành Hào), An Giang (KCN
Vàm Công), Bên Tre (KCN Phú Hưng - Mỹ Thạnh).
Các yêu cầu quản lý nhà nước đối với công nghiệp nông thôn
Để quản lý nhà nước đối với CNNT có hiệu lực và hiệu quả cao cần tuân thủ
những yêu cầu cơ bản của quản lý nhà nước đã được Đảng và Nhà nước ta đề
ra trong quá trình đổi mới và cải cách bộ máy nhà nước.
Một là, sự tác động của QLNN đối với CN phải đảm bảo cho hệ thống CN phát
triển và tổ chức sản xuất kinh doanh phù hợp với các quy luật, đặc biệt là các
quy luật kinh tế, các quy luật của thị trường, nhất là các đặc trưng của thị trường
ở địa phương gắn với việc cung cấp và tiêu thụ hàng hoá của nông nghiệp,
nông thôn.
Hai là, QLNN đối với CN một mặt với tư cách là người chỉ huy, phải bảo đảm
tính tập trung thống nhất để giữ cho hoạt động của CN phát triển đúng hướng.
Mặt khác, với tư cách là người điều hoà phối hợp, điều chỉnh và điều tiết hoạt
động, cần phải tôn trọng và bảo đảm phát huy cao độ tính năng động, tính chủ
động trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các chủ doanh nghiệp ở các
thành phần kinh tế, phù hợp với điều kiện của nền kinh tế thị trường có sự quản
lý của Nhà nước và điều kiện của địa phương.
Để thực hiện yêu cầu này đòi hỏi sự QLNN phải phân biệt rõ ranh giới, nhiệm vụ
và chức năng QLNN về kinh tế với chức năng quản lý sản xuất kinh doanh của
các chủ doanh nghiệp. Đối với hệ thống doanh nghiệp CN có vốn nhà nước như
công ty cổ phần có vốn góp lớn của Nhà nước, Nhà nước còn cần phải phân
định rõ chức năng QLNN về kinh tế với chức năng QLNN mà Nhà nước với tư
cách là thành viên sở hữu các doanh nghiệp đó.
Ba là, QLNN đối với CN phải có tác động kết hợp hài hoà các loại lợi ích của
Nhà nước, của tập thể và của cá nhân người lao động; trong đó phải coi lợi ích
cá nhân là động lực trực tiếp thúc đẩy tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu
quả sản xuất kinh doanh. Đồng thời phải bảo vệ lợi ích kinh tế - xã hội, coi hiệu
quả kinh tế - xã hội là mục tiêu hàng đầu, là chuẩn mực của sự tăng trưởng kinh
tế. Sự kết hợp hài hoà 3 lợi ích trên sẽ tạo ra được động lực phát triển CN một
cách cân đối và phát triển đúng định hướng.
Bốn là, hoạt động QLNN đối với CN phải nhằm mục tiêu hiệu quả kinh tế - xã
hội, lấy đó làm mục đích cuối cùng của hoạt động quản lý. Đồng thời, phải coi
mức hiệu quả kinh tế xã hội là thước đo năng lực và trình độ quản lý. Nguyên
tắc này đòi hỏi những nhà quản lý phải có quan điểm đúng đắn về hiệu quả kinh
tế xã hội, đồng thời phải có trình độ nhất định về tính toán hiệu quả và có
phương pháp luận về xét hiệu quả kinh tế.Bất kỳ một biện pháp nào trong quản
lý cũng cần phải đưa ra được nhiều phương án để chọn lựa phương án tối ưu.
Năm là, phải không ngừng hoàn thiện cơ chế vận hành của bộ máy quản lý đối
với CN, thông qua công cuộc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Từ đó tiến hành
cải cách tổ chức bộ máy QLNN về kinh tế nói chung, đối với CNNT nói riêng,
phù hợp với yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường, với quá trình công
nghiệp hoá hiện đại hoá tại địa phương theo những mục tiêu sau:
- Phân định rõ mục tiêu, chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của các cơ quan
QLNN có liên quan đến CN, nhất là cần định rõ trách nhiệm của mỗi ngành, của
từng cấp, từng cơ quan cụ thể trong hoạt động QLNN đối với CN nói riêng.
- Xây dựng được hệ thống phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan Nhà nước, xử lý
tốt mối quan hệ giữa Nhà nước ở Trung ương và chính quyền địa phương trong
QLNN đối với CN tại địa phương.
- Xây dựng cơ cấu bộ máy gọn nhẹ với những mối quan hệ giữa nội bộ và bên
ngoài hợp lý, khắc phục nhiều đầu mối, nhiều khâu trung gian trong quá trình
QLNN đối với CN; gắn với tiến trình cải cách các thủ tục hành chính có liên
quan đến CN.
- Xây dựng một hệ thống thể chế để thiết lập, tổ chức bộ máy quản lý nhà nước
đối với CN bằng pháp luật, chú trọng xây dựng hệ thống thông tin quản lý hoàn
chỉnh.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ công chức ở các cơ quan QLNN liên quan đến CN
có năng lực phẩm chất phù hợp với nhiệm vụ trong điều kiện mới. Trong đó cần
chú ý các đặc trưng của quản lý nhà nước đối với ngành CN có khác với các
ngành kinh tế khác, từ đó yêu cầu người cán bộ công chức vừa có hiểu biết về
kinh tế, kỹ thuật của ngành CN, vừa phải có kiến thức về quản lý hành chính
nhà nước, có phẩm chất chính trị và đạo đức cũng như năng lực điều hành
quản lý, tổ chức và thực hiện các nhiệm vụ được giao.
Cơ quan quản lý nhà nước đối với công nghiệp nông thôn tại địa phương
Bộ Công nghiệp và Bộ Nội vụ hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
và tổ chức của cơ quan chuyên môn giúp Ủy ban nhân dân quản lý nhà nước
về công nghiệp ở địa phương theo Thông tư liên tịch 02/2003/TTLT –BCN-BNV
ngày 29/10/2003; như sau:
2.5.1. Vị trí và chức năng Sở Công nghiệp
Sở Công nghiệp là cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là tỉnh), giúp Ủy ban nhân dân tỉnh
thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp,
bao gồm các ngành: cơ khí, luyện kim, hoá chất (bao gồm cả hoá dược), điện,
dầu khí (nếu có), khai thác khoáng sản, vật liệu nổ công nghiệp, công nghiệp
tiêu dùng, công nghiệp thực phẩm, công nghiệp chế biến khác; quản lý nhà
nước các dịch vụ công thuộc ngành công nghiệp trên địa bàn theo quy định của
pháp luật. Sở Công nghiệp chịu sự quản lý toàn diện và trực tiếp của Ủy ban
nhân dân tỉnh, đồng thời chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn và kiểm tra về chuyên
môn, nghiệp vụ của Bộ Công nghiệp.
2.5.2. Nhiệm vụ và quyền hạn Sở Công nghiệp
- Trình Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành các quyết định, chỉ thị về quản lý các
hoạt động công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn theo quy định của
pháp luật.
- Trình Bộ Công nghiệp thỏa thuận để Ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt quy
hoạch phát triển công nghiệp phù hợp với quy hoạch phát triển công nghiệp cả
nước, quy hoạch phát triển công nghiệp theo vùng lãnh thổ và quy hoạch phát
triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
- Giúp Ủy ban nhân dân tỉnh tổ chức, chỉ đạo, hướng dẫn và kiểm tra thực hiện
các văn bản quy phạm pháp luật, quy hoạch, kế hoạch phát triển công nghiệp
đã được phê duyệt; tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và thông tin về
các hoạt động công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ở địa phương
- Về quản lý cơ khí, luyện kim và hoá chất: Tổ chức, chỉ đạo việc phát triển các
sản phẩm cơ khí, cơ - điện tử, tự động hoá, điện tử công nghiệp trọng điểm trên
địa bàn; hướng dẫn thực hiện các cơ chế, chính sách của Nhà nước, Bộ Công
nghiệp về hỗ trợ phát triển ngành cơ khí, luyện kim, hoá chất và các sản phẩm
cơ khí, cơ - điện tử trọng điểm trên địa bàn.
Về quản lý điện: Trình Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành các qui định về quản lý
điện nông thôn; tổ chức thực hiện các quy định về bảo vệ hành lang an toàn
lưới điện cao áp và bảo vệ các công trình điện khác trên địa bàn; Xây dựng quy
hoạch phát triển điện lực tỉnh để Ủy ban nhân dân tỉnh trình Bộ Công nghiệp
phê duyệt; hướng dẫn, kiểm tra thực hiện sau khi được phê duyệt; Trình Ủy ban
nhân dân tỉnh phê duyệt các dự án đầu tư công trình lưới điện hạ áp nông thôn
theo phân cấp; chủ trì phối hợp với các Sở có liên quan trình Ủy ban nhân dân
tỉnh phương án giá điện trên địa bàn theo quy định khung giá của Chính phủ;
Phối hợp với các cơ quan có liên quan xây dựng quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng
chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ, công nhân kỹ thuật thuộc các tổ chức tham
gia quản lý điện nông thôn.
Về quản lý vật liệu nổ công nghiệp: Tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm
pháp luật về cung ứng, bảo quản, vận chuyển và sử dụng vật liệu nổ công
nghiệp trên địa bàn; Phối hợp với các cơ quan liên quan, thực hiện công tác
thanh tra, kiểm tra và xử lý các vi phạm pháp luật về quản lý sử dụng, bảo quản,
vận chuyển vật liệu nổ công nghiệp trên địa bàn theo quy định của pháp luật;
Về quản lý khai thác khoáng sản: Trình Ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt mục
tiêu, nhiệm vụ và kế hoạch khai thác khoáng sản, các dự án đầu tư theo quy
định của pháp luật đối với các doanh nghiệp trực thuộc sau khi có giấy phép
khai thác khoáng sản do cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền cấp.
Về quản lý công nghiệp tiêu dùng, công nghiệp thực phẩm và công nghiệp chế
biến khác: Hướng dẫn thực hiện các quy hoạch, kế hoạch phát triển công
nghiệp tiêu dùng, công nghiệp thực phẩm và công nghiệp chế biến khác trên địa
bàn; chủ trì phối hợp với các Sở có liên quan xây dựng quy hoạch tổng thể và
chi tiết các cơ sở chế biến, vùng nguyên liệu của từng ngành phù hợp với quy
hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh để trình Ủy ban nhân dân tỉnh phê
duyệt; Trình Ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt chương trình, dự án phát triển
ngành công nghiệp tiêu dùng, công nghiệp thực phẩm và công nghiệp chế biến
khác phù hợp với quy hoạch phát triển cơ sở chế biến và vùng nguyên liệu.
Về hoạt động khuyến công: Trình Ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt các chương
trình, kế hoạch khuyến công trong các ngành công nghiệp trên địa bàn; hướng
dẫn và tổ chức triển khai thực hiện sau khi được phê duyệt;
Căn cứ tình hình phát triển kinh tế - xã hội và yêu cầu công tác khuyến công
của từng thời kỳ, trình Ủy ban nhân dân tỉnh Danh mục các ngành, nghề công
nghiệp được hỗ trợ từ Quỹ khuyến công của tỉnh cho các đối tượng thuộc mọi
thành phần kinh tế trong các ngành công nghiệp của địa phương.
Trình Ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt kế hoạch sử dụng Quỹ khuyến công của
tỉnh; xét duyệt, cấp và quyết toán Quỹ khuyến công theo quy định của Ủy ban
nhân dân tỉnh;
Về quản lý các khu, cụm, điểm công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và kinh tế tập
thể: Giúp Ủy ban nhân dân tỉnh chỉ đạo phát triển các khu, cụm, điểm công
nghiệp - tiểu thủ công nghiệp với những ngành, nghề phù hợp với quy hoạch
phát triển công nghiệp và quy hoạch kinh tế - xã hội trên địa bàn;
Phối hợp với các Sở, Ban, ngành có liên quan trình Ủy ban nhân dân tỉnh ban
hành các quy định để thực hiện các cơ chế, chính sách của Nhà nước ưu đãi về
đầu tư, đất đai, tài chính, khoa học - công nghệ và bảo vệ môi trường có liên
quan đến xây dựng cơ sở kỹ thuật hạ tầng, di chuyển, xây dựng mới khu, cụm,
điểm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn;
Hướng dẫn các tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế lập dự án đầu tư
phát triển sản xuất công nghiệp trên địa bàn phù hợp với quy hoạch công
nghiệp của tỉnh;
Tổ chức, hướng dẫn đào tạo nghề, truyền nghề và phát triển nghề truyền thống;
tổ chức các hoạt động trao đổi kinh nghiệm, thăm quan khảo sát liên doanh, liên
kết, hợp tác kinh tế và tham gia các hội nghề nghiệp. Hướng dẫn phát triển kinh
tế tập thể, mô hình tổ chức và hoạt động của các hợp tác xã công nghiệp - tiểu
thủ công nghiệp; phân loại các hợp tác xã và đề xuất các giải pháp tháo gỡ khó
khăn cho phát triển kinh tế tập thể; xây dựng và phát triển các mô hình hợp tác
xã kiểu mới.
Tham gia thẩm định hoặc thẩm định các dự án đầu tư trong ngành công nghiệp
của địa phương theo quy định của pháp luật; chủ trì phối hợp với các cơ quan
có liên quan hướng dẫn, kiểm tra hoạt động sản suất - kinh doanh thuộc các
ngành công nghiệp trên địa bàn.
Đề xuất những cơ chế, chính sách ưu đãi riêng phù hợp với điều kiện của địa
phương để thu hút đầu tư trong và ngoài nước vào phát triển công nghiệp trên
địa bàn.
Trình Ủy ban nhân dân tỉnh cấp, điều chỉnh, thu hồi, gia hạn giấy phép hoạt
động điện lực, giấy phép sử dụng vật liệu nổ công nghiệp và các giấy phép khác
theo phân cấp.
Hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện các quy định về kỹ thuật an toàn đối với
các thiết bị, các chất có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động trong các
ngành công nghiệp trên địa bàn theo quy định của pháp luật.
Thực hiện hợp tác quốc tế trong lĩnh vực công nghiệp được Ủy ban nhân dân
tỉnh giao.
Tổ chức nghiên cứu, ứng dụng các tiến bộ khoa học, công nghệ trong hoạt
động công nghiệp; hướng dẫn thực hiện các quy định của Nhà nước về tiêu
chuẩn kỹ thuật, quy phạm kỹ thuật, định mức kinh tế - kỹ thuật, chất lượng sản
phẩm công nghiệp; xây dựng hệ thống thông tin, lưu trữ, cung cấp tư liệu về
công nghiệp theo quy định của pháp luật.
Chỉ đạo và tổ chức các hoạt động dịch vụ công trong lĩnh vực công nghiệp theo
quy định của pháp luật; quản lý và chỉ đạo hoạt động đối với các tổ chức sự
nghiệp trực thuộc Sở.
Giúp Ủy ban nhân dân tỉnh quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp công
nghiệp trên địa bàn theo quy định của pháp luật.
Giúp Ủy ban nhân dân tỉnh chỉ đạo, hướng dẫn Ủy ban nhân dân huyện, quận,
thị xã, thành phố thuộc tỉnh thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn.
Tổng hợp, thống kê tình hình hoạt động công nghiệp trên địa bàn (bao gồm cả
hoạt động công nghiệp trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế
mở, khu công nghệ cao và công nghiệp ngoài quốc doanh) theo quy định của
Bộ Công nghiệp.
Giúp Ủy ban nhân dân tỉnh quản lý nhà nước các hoạt động của hội và tổ chức
phi Chính phủ thuộc lĩnh vực công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn
theo quy định của pháp luật.
Thanh tra, kiểm tra và xử lý các vi phạm về hoạt động công nghiệp trên địa bàn
theo quy định của pháp luật.
Thực hiện báo cáo định kỳ và báo cáo đột xuất tình hình thực hiện nhiệm vụ với
Ủy ban nhân dân tỉnh và Bộ Công nghiệp.
Thực hiện các nhiệm vụ khác theo sự phân công của Ủy ban nhân dân tỉnh.
2.5.3. Vị trí và chức năng của Phòng Công nghiệp huyện, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh
Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung
là huyện) có cơ quan chuyên môn giúp Ủy ban nhân dân huyện thực hiện chức
năng quản lý nhà nước về công nghiệp, tiểu công nghiệp và các dịch vụ công
thuộc ngành công nghiệp trên địa bàn theo quy định của pháp luật. Cơ quan
chuyên môn quản lý công nghiệp ở cấp huyện chịu sự quản lý toàn diện, trực
tiếp của Ủy ban nhân dân huyện, đồng thời chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn và kiểm
tra về chuyên môn, nghiệp vụ của Sở Công nghiệp.
2.5.4. Nhiệm vụ và quyền hạn của Phòng Công nghiệp cấp huyện
Trình Ủy ban nhân dân huyện các văn bản hướng dẫn thực hiện cơ chế, chính
sách, pháp luật, các quy định của Ủy ban nhân dân tỉnh và Sở Công nghiệp về
hoạt động công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn.
Trình Ủy ban nhân dân huyện quyết định kế hoạch 5 năm và hàng năm phát
triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn; hướng dẫn, kiểm tra việc
thực hiện sau khi được phê duyệt.
Tổ chức, hướng dẫn và khuyến khích các tổ chức kinh tế tập thể, kinh tế tư
nhân đầu tư phát triển công nghiệp, mở rộng sản xuất; tổ chức các hoạt động
dịch vụ tư vấn chuyển giao công nghệ, cung cấp thông tin, xúc tiến thương mại
và đào tạo nguồn nhân lực cho các cơ sở sản xuất công nghiệp trên địa bàn.
Giúp Ủy ban nhân dân huyện quản lý nhà nước về điện trên địa bàn; tham gia
xây dựng kế hoạch phát triển điện và kiểm tra chất lượng các công trình điện do
ngân sách huyện đầu tư.
Tổ chức triển khai, ứng dụng các tiến bộ khoa học, công nghệ vào sản xuất
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn.
Thực hiện, công tác thống kê, thông tin công nghiệp theo hướng dẫn của Sở
Công nghiệp.
Thực hiện báo cáo định kỳ và đột xuất về đánh giá tình hình, kết quả hoạt động
sản xuất - kinh doanh công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, với Chủ tịch Ủy ban
nhân dân huyện và Giám đốc Sở Công nghiệp.
Chủ trì phối hợp với các với các cơ quan có liên quan kiểm tra, thanh tra việc thi
hành pháp luật về hoạt động công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn.
Giúp Ủy ban nhân dân huyện giải quyết các tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về
hoạt động công nghiệp trên địa bàn.
Thực hiện các nhiệm vụ khác theo sự phân công của Ủy ban nhân dân huyện.
Đối với những huyện đạt giá trị sản xuất công nghiệp (không kể công nghiệp
Trung ương, đầu tư nước ngoài trên địa bàn) từ 20% trở lên trong cơ cấu kinh
tế của huyện có thể thành lập Phòng Công nghiệp phù hợp với quy định tại Nghị
định số 12/2001/NĐ-CP ngày 27 tháng 3 năm 2001 của Chính phủ.
Câu hỏi thảo luận
1. Vì sao cần thiết có sự quản lý của Nhà nước nói chung, các cấp chính quyền
địa phương nói riêng trong phát triển công nghiệp nông thôn
2. Phân tích các nội dung quản lý nhà nước đối với phát triển các ngành công
nghiệp nông thôn. Liên hệ với một ngành công nghiệp cụ thể, ví dụ chế biến
thủy sản đông lạnh. Nếu sự quản lý lơi lõng, kém hiệu quả sẽ dẫn đến tình trạng
sản xuất và các tác động khác thế nào?
3. Phân tích các yêu cầu đối với quản lý của Nhà nước trong phát triển công
nghiệp nông thôn. Thảo luận nhóm và liên hệ thực tế các tỉnh vùng đồng bằng
sông Cửu Long hiện nay
Tài liệu tham khảo:
1. Đề án phát triển các ngành công nghiệp đến năm 2010 phục vụ Công nghiệp
hoá - Hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn của Bộ Công nghiệp.
2. Thông tư liên tịch 02/2003/TTLT –BCN-BNV ngày 29/10/2003 về Hướng dẫn
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan chuyên môn
giúp Ủy ban nhân dân quản lý nhà nước về công nghiệp ở địa phương
3. Nghị định của Chính phủ số 90/2001/NĐ-CP ngày 23 tháng 11 năm 2001 về
trợ giúp phát triển Doanh nghiệp nhỏ và vừa
2.Phương hướng cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh phát triển
CNNT vùng đồng bằng sông Cửu Long
2.1. Những quan điểm cơ bản về phát triển công nghiệp nông thôn ở đồng
bằng sông Cửu Long trong những năm tới:
- Phát triển công nghiệp nông thôn ở vùng đồng bằng sông Cửu Long phải dựa
vào quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội của vùng theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá và phải được triển khai trong chương trình kế hoạch
phát triển toàn diện kinh tế xã hội nông thôn cụ thể của từng địa phương trong
vùng. Công nghiệp nông thôn chỉ có thể phát triển được trên nền tảng công
nghiệp hiện có và phải chịu sự chi phối của những yêu cầu, mục tiêu phát triển
công nghiệp của vùng đồng bằng sông Cửu Long nói chung và của từng địa
phương trong vùng nói riêng.
- Phát triển công nghiệp nông thôn ở đồng bằng sông Cửu Long phải dựa vào
lợi thế của cả vùng nói chung và của từng địa phương nói riêng để đảm bảo đạt
hiệu quả trong giao lưu, hợp tác, liên kết với các vùng kinh tế khác trong cả
nước, đặc biệt đảm bảo hiệu quả trong việc hội nhập vào nền kinh tế khu vực và
thế giới. Ưu thế lớn nhất của vùng là sản xuất nông nghiệp hàng hoá, có tiềm
năng rất lớn, với sản phẩm đa dạng, chất lượng cao và giá thành có thể chấp
nhận được đối với công nghiệp chế biến. Mỗi địa phương chỉ có ưu thế trong
việc sản xuất ra một số loại sản phẩm nhất định cho nên cần dựa vào ưu thế
sản xuất riêng của mình mà phát triển công nghiệp nông thôn cho phù hợp, vừa
chủ động được nguồn nguyên liệu, vừa thúc đẩy sản xuất nông nghiệp địa
phương mình phát triển mạnh mẽ.
- Phải xuất phát từ yêu cầu của thị trường, thực hiện phương châm “tiểu công
nghiệp hiện đại, thủ công nghiệp tinh xảo”, đồng thời lấy hiệu quả kinh tế xã hội
làm thước đo. Đó là tuân thủ đầy đủ những nguyên tắc như: thoả mãn tối đa
nhu cầu thị trường cả về số lượng, chất lượng hàng hoá và dịch vụ; tôn trọng
các quy luật của thị trường; lựa chọn công nghệ sản xuất phù hợp với khả năng
nguồn tài chính, trình độ quản lý và các sản phẩm làm ra có thể cạnh tranh
được trên thị trường. Sự phát triển của công nghiệp nông thôn còn phải nhằm
đảm bảo xã hội nông thôn phát triển ổn định và bền vững.
- Phải trên cơ sở kết hợp chặt chẽ giữa việc phát huy các nguồn lực trong nông
thôn với sự quan tâm đầu tư của cải trong và ngoài nước, đặc biệt phải có sự
quản lý, hỗ trợ, giúp đỡ của Nhà nước. Phát triển kinh tế nông thôn nói chung,
công nghiệp nông thôn nói riêng ở địa phương nào phải do nhân dân ở nơi đó
quyết định. Cần tạo ra sự hỗ trợ liên kết chặt chẽ giữa các thành phần kinh tế,
giữa các loại hình doanh nghiệp, cơ sở công nghiệp nông thôn, giữa công
nghiệp nông thôn với công nghiệp đô thị để có thể đứng vững trên thị trường
cạnh tranh và hạn chế tình trạng phát triển tự phát, chồng chéo ngay trên địa
bàn nông thôn.
2.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển công nghiệp nông thôn ở
vùng đồng bằng sông Cửu Long:
- Hình thành mạng lưới dịch vụ hỗ trợ cho phát triển công nghiệp nông thôn từ
tỉnh đến huyện (bao gồm dịch vụ thông tin, tư vấn, cung ứng, tiêu thụ..). Nhu
cầu này ngày càng trở nên bức thiết đối với phát triển công nghiệp nông thôn
hiện nay. Bao gồm các hoạt động sau: tuyên truyền chủ trương chính sách của
Đảng và pháp luật của Nhà nước đối với phát triển công nghiệp nông thôn; cung
cấp các thông tin cho doanh nghiệp và phản hồi thông tin từ cơ sở sản xuất lên
các cơ quan nhà nước; hướng dẫn người sản xuất lựa chọn các thiết bị, công
nghệ phù hợp; tổ chức đào tạo nghề cho người lao động, đào tạo bồi dưỡng
kinh nghiệm, năng lực quản lý sản xuất kinh doanh cho chủ cơ sở.
- Tăng cường đầu tư của Nhà nước cho các chương trình nghiên cứu ứng dụng
tiến bộ khoa học – công nghệ vào phát triển và hiện đại hoá công nghiệp nông
thôn; chủ yếu là chế biến nông, lâm, thuỷ sản phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong
nước và xuất khẩu.
- Tiếp tục đầu tư kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển công nghiệp nông thôn. Tạo
tiền đề cho sự ra đời và phát triển của các cơ sở công nghiệp nông thôn như:
bảo đảm vận chuyển, cung ứng nguyên nhiên liệu và tiêu thụ sản phẩm được
dễ dàng, nhanh chóng; đào tạo nguồn nhân lực và bảo vệ sức khoẻ cho người
lao động… Xây dựng cơ sở hạ tầng giúp hình thành và phát triển nhanh các tụ
điểm công nghiệp nông thôn theo quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của vùng
và từng địa phương; đồng thời giảm thiểu các tác động gây ô nhiễm môi trường
do công nghiệp nông thôn gây ra.
- Xây dựng hệ thống chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư
đưa công nghiệp nhỏ và vừa về nông thôn; đó là: chính sách huy động vốn từ
nhiều nguồn để đầu tư cho công nghiệp nông thôn; chính sách về thị trường;
chính sách ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ và chuyển giao công nghệ
hiện đại.
- Tổ chức sản xuất và quản lý công nghiệp nông thôn theo lãnh thổ, hình thành
những cụm công nghiệp nông thôn tập trung, gắn với quá trình đô thị hoá trong
vùng và theo kế hoạch, quy hoạch phát triển kinh tế xã hội chung. Các cấp
chính quyền địa phương cần kiểm soát chặt chẽ những diễn biến phức tạp do
quá trình phát triển công nghiệp nông thôn gây ra như làm ô nhiễm môi trường,
vi phạm đến an toàn lương thực, khai thác có tính chất huỷ hoại nguồn tài
nguyên thiên nhiên. Mở rộng quan hệ liên kết kinh tế giữa các cơ sở công
nghiệp nông thôn và công nghiệp ở các đô thị, các khu công nghiệp tập trung
trong và ngoài vùng. Lập những hội nghề nghiệp với những hình thức thích hợp.
- Tổ chức tốt hệ thống thông tin giữa các cơ quan chức năng ở địa phương
nhằm có sự quản lý thống nhất chung các mặt phát triển công nghiệp nông
thôn; tăng cường năng lực cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật; nâng cao hiệu lực
và hiệu quả quản lý nhà nước đối với các cơ sở, doanh nghiệp công nghiệp
nông thôn.
- Phát triển mạng lưới tiêu thụ nông, thuỷ sản cho nông dân; hình thành các chợ
đầu mối nông sản, là nơi cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, đóng
hộp hay gia công hàng xuất khẩu. Xây dựng một số trung tâm thương mại ở các
thành phố, thị xã trong vùng, các trung tâm thương mại khu vực để lưu chuyển
hàng hoá giữa nông thôn và đô thị.