1. Trang chủ >
  2. Nông - Lâm - Ngư >
  3. Ngư nghiệp >

Chương 6: Quy hoạch phương hướng phát triển công nghiệp nông thôn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 174 trang )


Mọi người dân ở nông thôn đều có việc làm, có thu nhập và đời sống ngày càng

cao.

Một nông thôn có văn hoá, không có ai bị mù chữ, trình độ dân trí được nâng

cao dần, từ phổ cập phổ thông cơ sở và tiến lên phổ cập phổ thông trung học,

có các hoạt động văn hoá - thể thao thường xuyên, lành mạnh.

Một nông thôn mà mọi người sống và làm việc theo pháp luật, có trật tự, kỷ

cương, mọi người được sống an toàn, không có tệ nạn xã hội.

Một nông thôn được đô thị hoá theo mô hình nhà vườn, có điện, nước sạch, có

đường sá thuận tiện, thông tin liên lạc đến từng thôn xóm và từng gia đình.

Một nông thôn sạch, trong đó mọi tài nguyên đất đai, nguồn nước, không khí

không bị ô nhiễm; rừng và động thực vật được bảo vệ; vệ sinh môi trường nơi

cộng đồng dân cư sinh sống được đảm bảo.

Các giá trị văn hoá dân tộc được bảo tồn, cuộc sống tốt đẹp đầy tình làng nghĩa

xóm, mọi người thương yêu đùm bọc nhau.

1.1.2. Nội dung của quy hoạch phát triển nông thôn gồm:

Quy hoạch cơ cấu kinh tế, trong đó cơ cấu kinh tế ngành, cơ cấu kinh tế vùng

và cơ cấu các thành phần kinh tế phải gắn bó và quan hệ với nhau trong cơ cấu

phát triển kinh tế - xã hội chung thống nhất. Các vùng nông thôn phải ngày càng

đi sâu vào chuyên môn hoá và có sự phân công hợp tác giữa các vùng trong

sản xuất lẫn tiêu thụ sản phẩm.

Quy hoạch các ngành nông nghiệp, công nghiệp, thương mại và dịch vụ theo

các loại hình thích hợp và đề xuất được các giải pháp chủ yếu để phát triển.

Quy hoạch kết cấu hạ tầng ở nông thôn và đề các giải pháp chủ yếu phát triển

kết cấu hạ tầng sản xuất và xã hội.

Quy hoạch cơ cấu đất đai ở nông thôn (đất tự nhiên, đất nông nghiệp, đất rừng,

đất mặt nước, đất dân cư thị trấn, đất dùng cho quốc phòng và các loại đất

khác) và các giải pháp chủ yếu để bảo vệ quản lý đất đai.

1.1.3. Những mối quan hệ chủ yếu cần quan tâm khi quy hoạch phát triển nông

thôn:

Quy hoạch phát triển nông thôn phải dựa vào chiến lược phát triển kinh tế xã

hội của đất nước, vào chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của từng

vùng, từng địa phương.

Sự kết hợp gắn bó giữa quy hoạch ngành và quy hoạch vùng lãnh thổ trong sản

xuất, chế biến, bảo quản, vận chuyển và tiêu thụ sản phẩm phải khai thác được

các lợi thế so sánh của từng vùng, từng địa phương trên từng ngành sản xuất

và lĩnh vực quản lý.

Quy mô cơ cấu vùng nguyên liệu phải cân đối với quy mô và cơ cấu các cơ sở

chế biến nông sản phẩm để tránh tình trạng thừa hay thiếu nguyên liệu cung

cấp cho nhà máy.



Trong quy hoạch vùng phát sinh nhiều mối liên hệ giữa các ngành, cần được

giải quyết một cách có hiệu quả, tránh tình trạng mâu thuẫn giữa các ngành trên

cùng địa bàn.

Trong mỗi vùng nông thôn, các kết cấu hạ tầng sản xuất và xã hội (giao thông,

thuỷ lợi, điện, cơ sở chế biến, y tế, giáo dục…) có nhiều mối quan hệ chặt chẽ

với nhau, cần có sự kết hợp một cách phù hợp các điều kiện kinh tế xã hội tại

vùng đó.

Trên lãnh thổ của đất nước thường chia ra nhiều vùng có điều kiện tự nhiên,

kinh tế, xã hội khác nhau cho nên cần có sự hỗ trợ nhau cùng phát triển, thể

hiện trên sự quy hoạch mạng lưới đường sá giao thông, kênh thuỷ lợi, hệ thống

điện, hệ thống thông tin liên lạc, cơ sở chế biến nông sản phẩm mang tính liên

vùng.

Sự liên hệ và kết hợp nhiều vùng trong quy hoạch có tầm quan trọng đặc biệt để

tiết kiệm vốn đầu tư, cơ sở vật chất – kỹ thuật, đồng thời nâng cao hiệu quả

trong xây dựng và phát triển nông thôn.

Có sự quan hệ và phân cấp đầu tư cho các cấp chính quyền và nhân dân, các

tổ chức xã hội và tổ chức kinh tế, giữa Trung ương và địa phương trong quy

hoạch, tổ chức xây dựng, tổ chức quản lý các công trình, từ khâu sử dụng đến

khâu bảo vệ các công trình. Việc đảm bảo thực hiện các luật lệ, các quy định

cần thiết trong quy hoạch và thực hiện quy hoạch phát triển nông thôn cũng đòi

hỏi có sự kết hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành, các cơ sở.

Sự kết hợp giữa Nhà nước và nhân dân, giữa Trung ương và địa phương phải

xuyên suốt toàn bộ các khâu từ chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến quy

hoạch tổng thể kinh tế - xã hội nông thôn và các kế hoạch ngắn hạn, trung hạn

và dài hạn. Ngay cả khi điều chỉnh quy hoạch cũng phải có sự thống nhất giữa

Trung ương và địa phương và thể hiện trong luật, pháp lệnh.

1.1.4. Trình tự và phương pháp xây dựng quy hoạch phát triển nông thôn

Đánh giá thực trạng tình hình nông thôn một cách khách quan, chính xác, toàn

diện trên các mặt tự nhiên, kinh tế xã hội theo từng vùng, từng địa phương tỉnh,

huyện, xã, doanh nghiệp. Từ đó có thể thấy được những khó khăn và thuận lợi

của điều kiện tự nhiên để phát triển cây trồng, vật nuôi hay ngành nghề sản xuất

thích hợp; thấy được những điều kiện, các nguồn lực về kinh tế, trình độ phát

triển của xã hội trên các mặt, làm rõ mức độ ô nhiễm về môi trường và có biện

pháp bảo vệ môi trường ở nông thôn.

Dựa trên sự phân tích đánh giá tình hình nông thôn như trên và những quan

điểm cơ bản để xây dựng phương hướng, xây dựng quy hoạch phát triển nông

thôn; những quan điểm chủ yếu khi quy hoạch phát triển nông thôn là:

+ Quy hoạch phát triển nông thôn nhất thiết phải có hiệu quả kinh tế - xã hội và

môi trường, phát triển nông thôn theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá,

+ Phải dựa vào điều kiện tự nhiên kinh tế - xã hội của vùng và có tính đến lợi

thế của từng vùng.



+ Quy hoạch phát triển nông thôn theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa.

Từ đó xây dựng phương hướng phát triển nông thôn một cách toàn diện, giàu

mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh, được cụ thể hoá bằng các chỉ

tiêu về mặt kinh tế, về mặt xã hội, về mặt môi trường; đề ra một hệ thống các

giải pháp đồng bộ để thực hiện mục tiêu và phương hướng.

1.2. Quy hoạch công nghiệp nông thôn.

1.2.1. Ý nghĩa của việc quy hoạch công nghiệp nông thôn

Quy hoạch công nghiệp nông thôn là phân bố các ngành công nghiệp chế biến

nông sản phẩm, công nghiệp cơ khí, công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng,

các ngành nghề thủ công mỹ nghệ trên địa bàn nông thôn.

Quy hoạch công nghiệp nông thôn có ý nghĩa quan trọng trong toàn bộ quy

hoạch phát triển nông thôn. Nông nghiệp, công nghiệp và thương mại dịch vụ ở

nông thôn muốn phát triển một cách ổn định và bền vững phải có quy hoạch

phù hợp, tạo một thể thống nhất và đồng bộ. Ví dụ, quy hoạch công nghiệp chế

biến phải gắn với vùng nguyên liệu nông thuỷ sản và ngược lại quy hoạch vùng

nguyên liệu nông thuỷ sản không thể tách rời công nghiệp chế biến.

Nếu trong quy hoạch phát triển nông thôn mà bỏ qua hay xem nhẹ quy hoạch

công nghiệp nông thôn thì không những kinh tế nông thôn mà từng ngành nông

nghiệp và dịch vụ cũng không thể phát triển được.

1.2.2. Những căn cứ quy hoạch công nghiệp nông thôn

Phải dựa vào những căn cứ chủ yếu sau đây:

Nguyên liệu: cần quan tâm về số lượng và chất lượng vùng nguyên liệu.

Nguyên liệu ở gần các cơ sở công nghiệp cho phép giảm được chi phí vận

chuyển và giữ được chất lượng nguyên liệu, thuận tiện việc thu mua, sơ chế và

tồn trữ. Quy hoạch và bố trí sản xuất công nghiệp phải gắn với nguồn nguyên

liệu của nó và quy mô phù hợp. Việc chế biến gạo với quy mô bao nhiêu phải

dựa vào sản lượng lúa ở từng vùng sản xuất lúa. Để có nhiều nguyên liệu nông

sản chất lượng tốt, giá thành hạ; cần quy hoạch, đầu tư những vùng nguyên

liệu nông sản tập trung, chuyên môn hoá và hình thành các loại cơ sở công

nghiệp chế biến có thể sử dụng nguyên liệu và tận dụng các phế phẩm. Chẳng

hạn như cùng với quy hoạch vùng nguyên liệu trồng mía đường là việc đầu tư

nhà máy đường, cơ sở làm rượu từ mật đường và chế tạo ván ép từ xác bã

mía… Sử dụng, khai thác các nguyên liệu tại chỗ cho sản xuất, chế biến vật liệu

xây dựng như đá sỏi, nung vôi, làm gạch ngói…

Truyền thống sản xuất: là nhân tố quan trọng ban đầu để phát triển công nghiệp

và tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn nước ta. Ở mỗi vùng đều có những ngành

nghề đặc biệt như nghề dệt, may mặc, thêu ren, đóng đồ gỗ cao cấp, chạm

khắc gỗ, khảm trai, sơn mài, gốm sứ, đan tre, mây cói, làm giấy, chế tạo công

cụ cầm tay… Những kinh nghiệm sản xuất, lựa chọn các nguyên liệu chất lượng

cao, tài khéo léo, óc thẩm mỹ tạo nhiều mẫu mã đa dạng phong phú, kết hợp



với khoa học và công nghệ hiện đại là các nhân tố hết sức quan trọng để phát

triển công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp nông thôn nước ta.

Vốn: là điều kiện quan trọng để phát triển công nghiệp nông thôn. Muốn đủ vốn

cần có nhiều giải pháp huy động các nguồn vốn từ cá nhân, các tổ chức tài trợ,

các doanh nghiệp đối tác, tổ chức phi chính phủ, các chính sách cho vay của

Nhà nước…

Kết cấu hạ tầng: bao gồm giao thông, điện, nước, mặt bằng sản xuất, chợ nông

thôn, hệ thống cung cấp nước sạch, thoát nước và công nghệ xử lý chất thải…

trong đó đặc biệt chú ý các vùng xa, vùng cao để có chính sách khuyến khích,

ưu đãi thích hợp.

Thị trường: là căn cứ then chốt trong việc phát triển công nghiệp, tiểu thủ công

nghiệp. Sản xuất cái gì, số lượng bao nhiêu, chất lượng ra sao, tiêu thụ ở đâu là

vấn đề đầu tiên cần giải đáp trước khi đi vào bố trí sản xuất công nghiệp và tiểu

thủ công nghiệp.

Cơ chế chính sách của Nhà nước: có ảnh hưởng quan trọng đến phát triển

công nghiệp nông thôn. Nhà nước có quy hoạch định hướng về phát triển công

nghiệp và tiểu thủ công nghiệp nông thôn chung cả nước và riêng cho từng

vùng, từng địa phương, trong đó xác định những sản phẩm hàng hoá quan

trọng có thể phát triển thu hút nhiều lao động, khai thác nguyên liệu tại chỗ và

xuất khẩu của từng vùng, từng thời điểm. Từ đó định hướng các ngành hàng,

các vùng sản xuất tập trung chuyên môn hoá, định hướng phát huy kỹ thuật

truyền thống kết hợp với công nghệ sản xuất hiện đại. Dựa vào đó Nhà nước có

quy hoạch kết cấu hạ tầng (giao thông, điện nước, khu cụm công nghiệp..) và

thực hiện các chính sách kinh tế, cơ chế tài chính tín dụng và chính sách thuế

thích hợp, khuyến khích cho các làng nghề truyền thống phát triển. Sự giúp đỡ,

hỗ trợ của Nhà nước trong tổ chức, mở lớp đào tạo, chính sách đối với người

dạy, người học sao cho phù hợp với việc phát triển các làng nghề và cụm công

nghiệp nông thôn, góp phần đẩy mạnh công nghiệp nông thôn phát triển.

1.2.3. Nội dung của quy hoạch công nghiệp nông thôn

CNNT rất phong phú, đa dạng về ngành nghề, hình thức, quy mô và trình độ.

Trong quy hoạch phát triển công nghiệp nông thôn, việc bố trí thế nào, quy mô

sản xuất bao nhiêu, trình độ phát triển ra sao phải dựa vào đặc điểm từng

ngành nghề, thị trường tiêu thụ, điều kiện của từng vùng, cơ chế chính sách của

Nhà nước trong từng thời kỳ và khả năng của từng địa phương, từng doanh

nghiệp.

Công nghiệp nông thôn gồm các ngành chủ yếu sau:

Công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản bao gồm: chế biến lương thực, nông

sản, lâm sản, thuỷ sản với các cơ sở có quy mô vừa và nhỏ, trình độ sản xuất

có khác nhau với nhiều chủng loại đa dạng và yêu cầu chất lượng sản phẩm

phù hợp.

Công nghiệp cơ khí nông thôn bao gồm cơ khí chế tạo máy móc công cụ, thiết

bị cho sản xuất nông nghiệp, cơ khí chế tạo các dụng cụ sinh hoạt, sửa chữa



các máy móc thiết bị phục vụ nông nghiệp. Quy mô và trình độ của cơ khí nông

thôn phụ thuộc vào hàng loạt các điều kiện như trình độ tay nghề, tình hình cơ

giới hoá, phát triển năng lượng (điện, than,..) và các dạng máy móc thiết bị

trang bị tại mỗi vùng nông thôn. Hiện nay các thành phần kinh tế tham gia vào

mở mang các cơ sở cơ khí chế tạo, cơ khí sửa chữa và cơ khí sử dụng máy

làm cho có sự cạnh tranh; phát triển, nâng cao tay nghề đáp ứng yêu cầu ngày

càng cao của việc sử dụng, sửa chữa máy móc thiết bị ở nông thôn.

Công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng cung cấp sản phẩm chủ yếu phục vụ

nhu cầu trong vùng, địa phương và một phần để bán ra các địa phương khác.

Các cơ sở sản xuất vật liệu xây dựng thường sử dụng nguyên liệu tại địa

phương như cát đá, vôi, đất sét, tre, gỗ.. và gần nguồn năng lượng, chất đốt

như trấu, gỗ… ; bên cạnh cần điều kiện vận chuyển dễ dàng, sử dụng lao động

thủ công có kết hợp công nghệ hiện đại để nâng dần chất lượng, hạ giá thành

sản phẩm.

Ngành nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống thường tồn tại từ lâu đời, được

truyền nghề từ đời nghệ nhân sang đời con cháu, mang tính mỹ thuật và kỹ

thuật cao, mẫu mã rất đa dạng và có giá trị xuất khẩu, thường tập trung ở một

số làng nghề nổi tiếng. Một số ngành nghề chủ yếu như: nghề gốm sứ, nghề đồ

gỗ cao cấp, nghề đan mây tre chiếu cói, nghề dệt, may mặc, thêu ren, dệt lụa…

2.Chủ trương, pháp luật, chính sách về phương hướng phát triển CNNT

2.1. Chủ trương của Đảng ta về phát triển công nghiệp nông thôn

Theo Báo cáo chính trị được trình bày tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII

của Đảng Cộng sản Việt Nam thì một trong những nội dung của công nghiệp

hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn là: “Bảo đảm vững chắc an toàn

lương thực quốc gia,… Khuyến khích phát triển chăn nuôi hàng hoá…, công

nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản, cơ khí sửa chữa và chế tạo ở trình độ

thích hợp, sản xuất vật liệu xây dựng, phát triển các ngành nghề truyền thống

kết hợp với ngành nghề mới; đẩy mạnh công nghiệp làm hàng xuất khẩu, vệ

tinh gia công cho các trung tâm công nghiệp; phát triển tổng hợp các ngành dịch

vụ. Chuyển bớt lao động nông nghiệp sang khu vực phi nông nghiệp tại chỗ,

giảm bớt sức ép về lao động và dân số đối với các đô thị lớn”.

Đặc biệt, đối với các vùng nông thôn miền núi, Nhà nước chủ trương “phát triển

công nghiệp nhỏ, thủ công nghiệp ở những vùng sâu, vùng xa, khuyến khích

các nghề thủ công truyền thống”.

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định lại

một lần nữa: “Đường lối kinh tế của Đảng ta là:…phát huy cao độ nội lực, đồng

thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài… để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền

vững…”. Đường lối này không chỉ được triển khai đối với nền kinh tế nói chung,

mà cả cho nông thôn, trong đó có công nghiệp nông thôn.

Để triển khai đường lối này, trong Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 20012010 mà Đại hội thông qua có ghi rõ:”Phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ ở

nông thôn. Hình thành các khu vực tập trung công nghiệp, các điểm công



nghiệp ở nông thôn, các làng nghề gắn liền với thị trường trong nước và xuất

khẩu. Chuyển một phần doanh nghiệp gia công (may mặc, da-giầy…) và chế

biến nông sản ở thành phố về nông thôn. Có chính sách ưu đãi để thu hút đầu

tư của mọi thành phần kinh tế vào phát triển công nghiệp và dịch vụ ở nông

thôn”. Đại hội cũng chủ trương: “Chuyển nhiều lao động sang khu vực công

nghiệp và dịch vụ. Phát triển mạnh tiểu thủ công nghiệp, các làng nghề, mạng

lưới công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản và các dịch vụ”.

Như vậy, việc phát triển công nghiệp nông thôn ngày càng được khẳng định là

một bộ phận quan trọng, không thể tách rời của công nghiệp hoá, hiện đại hoá

nói chung; công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn, nông nghiệp nói riêng. Sự

phát triển của CNNT không chỉ phục vụ phát triển của công nghiệp, mà cũng

chính là phục vụ sự phát triển của sản xuất nông nghiệp. Đảng và Nhà nước

còn khẳng định rõ chủ trương hình thành mối quan hệ hữu cơ, “hình thành sự

liên kết nông –công nghiệp- dịch vụ ngay trên địa bàn nông thôn”.

Vai trò này của công nghiệp nông thôn cũng được Đại hội Đại biểu toàn quốc

lần thứ IX của Đảng ghi nhận: ”Trên cơ sở chuyển một bộ phận lao động nông

nghiệp sang các ngành nghề khác, từng bước tăng quỹ đất canh tác cho mỗi

lao động nông nghiệp, mở rộng quy mô sản xuất, tăng việc làm và thu nhập cho

dân cư nông thôn”.

Trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá

IX “về đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn thời kỳ

2001-2010” cũng nhấn mạnh: Một trong những quan điểm chi phối quá trình đẩy

nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là “Dựa vào nội

lực là chính, đồng thời tranh thủ tối đa các nguồn lực từ bên ngoài, phát huy

tiềm năng của các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ

đạo, cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc; phát triển

mạnh mẽ kinh tế hộ sản xuất hàng hoá, các loại hình doanh nghiệp, nhất là

doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nông thôn”.

Mục tiêu chung: Tổng sản phẩm trong nước (GDP) đến năm 2010 theo giá so

sánh gấp hơn 2,1 lần năm 2000. Trong 5 năm 2006 - 2010, tốc độ tăng trưởng

GDP 7,5 - 8%/năm và phấn đấu đạt trên 8%/năm. GDP bình quân đầu người

năm 2010 theo giá hiện hành đạt khoảng 1.050 - 1.100 USD.

Cơ cấu ngành trong GDP năm 2010: khu vực nông nghiệp khoảng 15 - 16%;

công nghiệp và xây dựng 43 - 44%; dịch vụ 40 - 41%.

Tốc độ phát triển công công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn không thấp hơn tốc

độ bình quân cả nước. Gắn phát triển kinh tế với xây dựng nông thôn mới, giải

quyết tốt hơn mối quan hệ giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng miền, góp

phần giữ vững ổn định chính trị xã hội.

Đẩy mạnh phát triển công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn, nhất là những ngành

nghề sử dụng nhiều lao động, coi đây là hướng chính để tạo ra nhiều việc làm

mới, góp phần tăng nhanh thu nhập cho nông dân. Phát triển mạnh công nghệ

bảo quản, chế biến, giảm nhanh tổn thất sau thu hoạch, đồng thời nâng cao



nhanh giá trị gia tăng cho các loại nông, lâm, thuỉy sản, nhất là sản phẩm xuất

khẩu chủ lực.

Tạo điều kiện thuận lợi hơn để giúp nông dân chuyển sang làm ngành nghề và

dịch vụ. Tiếp tục điều chỉnh chính sách khuyến khích để các doanh nghiệp và

hợp tác xã đầu tư phát triển công nghiệp và dịch vụ, nhất là công nghiệp chế

biến nông, lâm, thuỷ sản; giảm nhanh và hết sức hạn chế việc xuất khẩu nông,

lâm, thuỷ sản chưa qua chế biến.

Chú trọng phát triển kinh tế trang trại, các loại hình kinh tế hợp tác; đẩy nhanh

việc sắp xếp lại và đổi mới quản lý các nông, lâm trường; phát triển mạnh các

loại hình doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa trong công nghiệp và

dịch vụ ở nông thôn; phát triển các làng nghề.

2.2. Pháp luật, chính sách của Nhà nước và chương trình Khuyến Công

2.2.1. Những quy định pháp luật về khuyến khích phát triển công nghiệp nông

thôn

* Nghị định số 134/2004/NĐ-CP ngày 09 tháng 6 năm 2004 của Chính phủ về

khuyến khích phát triển công nghiệp nông thôn; đã được triển khai thực

hiệnbằng Thông tư số 03/2005/TT=BCN dưới đây:

* Thông tư số : 03/2005/TT-BCN hướng dẫn thực hiện một số nội dung của

Nghị định số 134/2004/NĐ-CP ngày 09 tháng 6 năm 2004 của Chính phủ về

khuyến khích phát triển công nghiệp nông thôn. Thông tư này hướng dẫn việc

triển khai thực hiện các hoạt động khuyến công, một số nội dung của chính

sách khuyến công và công tác kế hoạch hóa trong hoạt động khuyến công.

Việc quản lý và sử dụng kinh phí sự nghiệp kinh tế do ngân sách nhà nước cấp

cho hoạt động khuyến công thực hiện theo Thông tư liên tịch số 36/2005/TTLTBTC-BCN ngày 16/5/2005 của Bộ Tài chính và Bộ Công nghiệp.

Thông tư này áp dụng đối với:

a/ Các tổ chức, cá nhân trực tiếp đầu tư sản xuất công nghiệp tại huyện, thị xã,

thị trấn và xã (dưới đây gọi là cơ sở sản xuất công nghiệp nông thôn), bao gồm:

- Doanh nghiệp nhỏ và vừa (có số vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số

lao động bình quân không quá 300 người) thành lập, hoạt động theo luật Doanh

nghiệp nhà nước, Luật doanh nghiệp;

- Hợp tác xã thành lập, hoạt động theo Luật Hợp tác xã;

- Hộ kinh doanh cá thể theo Nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày 03/02/2000

(trước đây), nay là Nghị định số 109/2004/NĐ-CP ngày 02/4/2004 của Chính

phủ về đăng ký kinh doanh.

b/ Tổ chức dịch vụ khuyến công.

c/ Cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động khuyến công theo quy định tại Điều

15 Nghị định số 134/2004/NĐ-CP.



Đề án khuyến công là đề án được lập để triển khai một hoặc một số nội dung

hoạt động khuyến công quy định tại Điều 3 Nghị định số 134/2004/NĐ-CP. Đề

án khuyến công có mục tiêu và đối tượng thụ hưởng cụ thể, có thời gian thực

hiện và kinh phí xác định.

Đề án khuyến công quốc gia là đề an khuyến công do Cục Công nghiệp địa

phương thuộc Bộ Công nghiệp (đối với trường hợp sử dụng kinh phí khuyến

công do Bộ Công nghiệp trực tiếp quản lý) hoặc do Sở Công nghiệp (đối với

trường hợp sử dụng kinh phí ngân sách Trung ương hỗ trợ hoạt động khuyến

công địa phương) quản lý, tổ chức thực hiện để triển khai các hoạt động khuyến

công quốc gia theo chương trình do Thủ tướng Chính phủ, kế hoạch do Bộ

trưởng Bộ Công nghiệp phê duyệt.

Đề án khuyến công địa phương là đề án khuyến công do Sở Công nghiệp quản

lý, tổ chức thực hiện từ nguồn kinh phí khuyến công địa phương để triển khai

các hoạt động khuyến công của địa phương theo chương trình, kế hoạch được

Chủ tịch Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh phê duyệt.

Tổ chức dịch vụ khuyến công được các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần

kinh tế thành lập theo quy định của pháp luật (Trung tâm khuyến công, cơ sở

nghiên cứu khoa học - công nghệ, cơ sở đào tạo, doanh nghiệp...), là tổ chức

thực hiện các hoạt động dịch vụ khuyến công như tư vấn, đào tạo, chuyển giao

công nghệ, cung cấp thông tin, xúc tiến thương mại và các hoạt động khác có

liên quan đến đầu tư sản xuất công nghiệp nông thôn.

Tùy thuộc vào nội dung hoạt động khuyến công, đề án khuyến công được lập và

thực hiện dưới các hình thức sau:

a/ Tổ chức các lớp, khóa đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn, truyền nghề.

b/ Tổ chức các điểm tư vấn hoặc tiến hành tư vấn trực tiếp tại cơ sở sản xuất

công nghiệp nông thôn.

c/ Trực tiếp hỗ trợ cơ sở sản xuất công nghiệp nông thôn lập dự án khởi sự

doanh nghiệp, đầu tư mở rộng sản xuất, đầu tư sản xuất sản phẩm mới, đổi mới

và ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất, quản lý

chất lượng sản phẩm và bảo vệ môi trường.

d/ Hỗ trợ việc chuyển giao công nghệ có kèm theo đào tạo cho cơ sở sản xuất

công nghiệp nông thôn.

đ/ Xây dựng mô hình trình diễn và tổ chức trình diễn kỹ thuật để phổ biến công

nghệ mới, sản xuất sản phẩm mới và nhân rộng các mô hình tốt đã có.

e/ Tổ chức, hỗ trợ cơ sở sản xuất công nghiệp nông thôn tham gia hội chợ, triển

lãm; tham quan khảo sát, học tập - trao đổi kinh nghiệm, liên doanh liên kết, hợp

tác kinh tế và tham gia các hiệp hội ngành nghề.

g/ Hỗ trợ cung cấp thông tin, tìm kiếm thị trường, tìm kiếm đối tác kinh doanh.

h/ Các hình thức khuyến công khác phù hợp với các hoạt động quy định định tại

Điều 3 Nghị định số 134/2004/NĐ-CP.



Các hoạt động khuyến công địa phương cần tập trung phục vụ cho việc triển

khai thực hiện quy hoạch phát triển công nghiệp của địa phương, trong đó đặc

biệt ưu tiên việc hỗ trợ phát triển các ngành công nghiệp chế biến nông, lâm,

thủy-hải sản, công nghiệp cơ khí - hóa chất phục vụ nông nghiệp - nông thôn,

công nghiệp hàng tiêu dùng và tiểu thủ công nghiệp; phát triển các sản phẩm có

thị trường, có thể tạo nhiều việc làm và mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao

cho địa phương.

* Cở sở sản xuất công nghiệp nông thôn đầu tư vào những ngành, nghề quy

định tại Khoản 1 Điều 6 Nghị định số 134/2004/NĐ-CP và hướng dẫn của Liên

Bộ Công nghiệp - Tài chính tại Mục 2 Phần II Thông tư liên tịch số

36/2005/TTLT-BTC-BCN ngày 16/5/2005 hướng dẫn việc quản lý và sử dụng

kinh phí sự nghiêp kinh tế đối với hoạt động khuyến công, được hưởng các

chính sách khuyến công cụ thể như sau:

1. Được tham gia và thụ hưởng kết quả của các hoạt động khuyến công do Cục

Công nghiệp địa phương, Sở Công nghiệp và các tổ chức dịch vụ khuyến công

thực hiện.

2. Được hỗ trợ trực tiếp từ nguồn kinh phí khuyến công để chi phí cho việc lập

dự án đầu tư, đào tạo, xây dựng mô hình trình diễn kỹ thuật, chuyển giao công

nghệ sản xuất, tham gia hôi chợ, triển lãm giới thiệu sản phẩm ở trong nước.

3. Được hỗ trợ trong lĩnh vực thông tin, thị trường như sau:

a/ Được các tổ chức dịch vụ khuyến công hỗ trợ cung cấp thông tin, tiếp thị, tìm

kiếm thị trường, đối tác kinh doanh, tổ chức triển lãm, hội chợ;

b/ Được giới thiệu miễn phí trên trang Web của Bộ Công nghiệp về năng lực

sản xuất, sản phẩm, tìm kiếm bạn hàng và các thông tin khác cần thiết cho việc

phát triển sản xuất;

c/ Được các Tổng Công ty, doanh nghiệp của Bộ Công nghiệp hỗ trợ trong việc

tìm kiếm thị trường, hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm (thông qua hình thức hợp tác liên

kết trong sản xuất - kinh doanh);

d/ Được Báo Công nghiệp, Tạp chí Công nghiệp giúp tuyên truyền, giới thiệu,

quảng bá về cơ sở sản xuất, sản phẩm.

Cục Công nghiệp địa phương, các Sở Công nghiệp có trách nhiệm giúp đỡ các

cơ sở sản xuất công nghiệp nông thôn trong việc tiếp cận các hoạt động hỗ trợ

nêu trên.

4. Được hỗ trợ về khoa học - công nghệ như sau:

a/ Được các Chương trình kỹ thuật - kinh tế về tự động hóa, về công nghệ vật

liệu và tiết kiệm năng lượng do Bộ Công nghiệp quản lý hỗ trợ vốn cho các dự

án đầu tư (bao gồm cả đầu tư mới và đầu tư chiều sâu đổi mới công nghệ) nếu

dự án đáp ứng các điều kiện, tiêu chí của Chương trình.

Văn phòng các Chương trình phối hợp với Cục Công nghiệp địa phương hướng

dẫn cụ thể trình tự lập, đăng ký, thẩm định dự án đầu tư có sử dụng vốn hỗ trợ



của các Chương trình để các Sở Công nghiệp và các cơ sở sản xuất công

nghiệp nông thôn thực hiện.

b/ Được tham gia thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu - triển khai phù hợp với

mục tiêu phát triển công nghiệp nông thôn theo khả năng cân đối nguồn kinh phí

nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ hàng năm của Bộ Công nghiệp;

đồng thời, được sử dụng các kết quả của các đề tài nghiên cứu khoa học - công

nghệ cấp Bộ phù hợp.

Vụ Khoa học - Công nghệ (Bộ Công nghiệp) phối hợp với Cục Công nghiệp địa

phương hướng dẫn cụ thể trình tự xây dựng, đăng ký, tham gia thực hiện, tổ

chức triển khai sau khi được phê duyệt các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học công nghệ và việc đăng ký sử dụng kết quả của các đề tài nghiên cứu khoa học

- công nghệ cấp Bộ để các Sở Công nghiệp và các cơ sở sản xuất công nghiệp

nông thôn thực hiện.

5. Được hưởng các chính sách ưu đãi khác về đất đai, đầu tư, khoa học công

nghệ quy định tại các Điều 11, 12 và 14 Nghị định số 134/2004/NĐ-CP.

Cục Công nghiệp địa phương là cơ quan đầu mối giúp việc Bộ trưởng Bộ Công

nghiệp thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về hoạt động khuyến công quy

định tại Điều 15 Nghị định số 134/2004/NĐ-CP.

Sở Công nghiệp là cơ quan giúp UBND tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà

nước về hoạt động khuyến công và kinh phí khuyến công tại địa phương theo

quy định tại Khoản 4 Điều 15 Nghị định số 134/2004/NĐ-CP,

* Để triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung

ương Đảng khoá IX, Bộ Công nghiệp đã xây dựng Đề án phát triển các ngành

công nghiệp đến năm 2010 phục vụ Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá nông

nghiệp và nông thôn. Theo đó sẽ phát triển các ngành:

Ngành điện: Đẩy nhanh việc thực hiện điện khí hoá nông thôn, miền núi tạo điều

kiện cho nhân dân nâng cao dân trí, phát triển sản xuất công nghiệp, tiểu thủ

công nghiệp. Phấn đấu đến năm 2010 đạt 90% số hộ dân nông thôn có điện,

đến năm 2020 đạt 100% số hộ dân nông thôn có điện.

Ngành cơ khí: Gắn kết chặt chẽ với tổ chức sản xuất nông nghiệp và vùng sản

xuất nông nghiệp. Phát triển tập trung một số sản phẩm cơ khí như máy động

lực, thiết bị phục vụ cơ giới hoá khâu làm đất, thu hoạch, bảo quản sau thu

hoạch, thiết bị chế biến ...

Ngành hoá chất: Cung cấp những sản phẩm hoá chất cơ bản cho trồng trọt,

chăn nuôi, thuỷ sản và bảo vệ môi trường. Trước hết là thoả mãn nhu cầu của

sản xuất nông nghiệp về phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, chất bảo quản sau

thu hoạch.

Chế biến, nông, lâm, thuỷ sản: Quy hoạch các vùng sản xuất có tập trung, có lợi

thế so sánh về nguồn nguyên liệu. xây dựng hệ thóng giao thông nông thôn,

điện, nước, thuỷ lợi hoàn chỉnh phục vụ cho trồng trọt, chăn nuôi, vận chuyển và

chế biến sản phẩm nông nghiệp tạo thành hệ thống liên hoàn khép kín ...



Ngành sản xuất vật liệu xây dựng: Phát triển sản xuất vật liệu xây dựng cả về

số lượng, chất lượng, đáp ứng yêu cầu xây dựng về nhà ở, đường xá ở khu

vực nông thôn, miền núi.

Tiểu thủ công nghiệp: Phát triển ngành nghề thủ công phải gắn với phát triển

nông nghiệp, công nghiệp và thị trường tiêu thụ sản phẩm. Tập trung phát triển

những ngành nghề thủ công có nhiều tiểm năng và lợi thế so sánh. Phát triển

tiểu thủ công nghiệp của mỗi địa phương phải phù hợp với chiến lược phát triển

ngành công nghiệp gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội nói chung, công

nghiệp nói riêng của từng địa phương ...

2.2.2. Chương trình khuyến khích đầu tư và phát triển công nghiệp (gọi tắt là

Chương trình Khuyến Công)

* Mục tiêu thực hiện hoạt động khuyến công đến năm 2010

Góp phần phát triển CN TTCN, giải quyết việc làm cho nhiều lao động và phân

công lao động tại nông thôn, tăng đóng góp của ngành CN vào GDP chung và

tăng kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp.

Hỗ trợ, khuyến khích các doanh nghiệp nhỏ và vừa đầ tư thiết bị công nghệ

mới, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng sức cạnh tranh trên thị trường tạo

điều kiện thuận lợi trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới.

Đẩy mạnh công tác đào tạo nghề và phát triển ngành nghề TTCN cho người lao

động, nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp cho các chủ doanh nghiệp vừa

và nhỏ.

Hỗ trợ cung cấp thông tin, tiếp thị, quảng bá thương hiệu, bảo vệ các quyền và

lợi ích chính đáng về sở hữu trí tuệ, tìm kiếm đối tác kinh doanh, giới thiệu rộng

rãi các sản phẩm công nghiệp, TTCN.

Khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống, các ngành nghề TTCN đặc

trưng của địa phương.

* Kế hoạch hoạt động của chương trình khuyến công giai đoạn 2006 đến 2010

a. Vốn đầu tư phát triển sản xuất CN TTCN

Nhu cầu về vốn của các cơ sở, doanh nghiệp CNNT là rất cao và có ý nghĩa

quan trọng thúc đẩy đầu tư mở rộng sản xuất. Từ đó cần có nhiều biện pháp để

thu hút vốn, huy động vốn từ các nguồn (vay từ các tổ chức tín dụng, từ các quỹ

hỗ trợ đầu tư, từ cổ phần hoá, phát hành trái phiếu, cổ phiếu các loại…).

Nguồn vốn trong nước được xem là nội lực chủ yếu cần phát huy, tổ chức nhiều

hình thức khai thác tốt tự có của cơ sở, doanh nghiệp, nguồn vốn trong nước từ

các thành phần kinh tế, vốn nhàn rỗi trong dân, vốn vay từ các ngân hàng

thương mại.

Tích cực lập dự án, giới thiệu các dự án đầu tư có nhu cầu vay vốn và phối hợp

với các ngân hàng thương mại, quỹ hỗ trợ việc làm để thẩm định hiệu quả và

xúc tiến giải ngân.



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (174 trang)

×