Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 174 trang )
Dần dần theo yêu cầu của việc phát triển nghề, các hộ làm nghề tiểu thủ công
nghiệp tự quần tụ lại, thông thường tại những nơi thuận lợi giao thông hoặc
những nơi trung tâm, dần dần hình thành các cụm công nghiệp nông thôn.
Đến lượt nó, các cụm công nghiệp nông thôn sau khi hình thành lại giữ vai trò là
hạt nhân kỹ thuật trong nông thôn, tác động trở lại thúc đẩy nông nghiệp và các
hoạt động phi nông nghiệp khác phát triển.
Như vậy, có hai điểm cần chú ý về sự hình thành và phát triển các cụm công
nghiệp nông thôn:
- Thứ nhất, cụm công nghiệp nông thôn hình thành và phát triển luôn gắn liền
với những đặc điểm sản xuất, trước hết là sản xuất nông nghiệp và tập quán
truyền thống của mỗi vùng nông thôn.
- Thứ hai, cụm công nghiệp nông thôn là một bộ phận không thể tách rời của
ngành công nghiệp cả nước, là mạng lưới chân rết của công nghiệp thành thị,
của công nghiệp lớn. Điều này xuất phát từ bản chất của sản xuất công nghiệp
là có tính xã hội hoá cao.
Phát triển công nghiệp nông thôn có nội dung rất rộng, do vậy có thể và cần tiếp
cận quá trình này từ nhiều góc độ khác nhau. Khi xem xét tính chất hoạt động
của các công nghiệp nông thôn, ta nhận biết được các ngành công nghiệp nông
thôn chủ yếu. Nếu xem xét về cách thức bố trí sản xuất công nghiệp nông thôn
trong quá trình phát triển từ thấp đến cao, ta nhận biết được các dạng cụm công
nghiệp nông thôn.
1.2. Phương hướng phát triển các cụm công nghiệp nông thôn
Để thúc đẩy sự hình thành và phát triển các cụm công nghiệp nông thôn một
cách vững chắc, cần chú ý những vấn đề có tính phương hướng chủ yếu sau:
1.2.1. Cụm công nghiệp nông thôn vừa là hạt nhân kinh tế - kỹ thuật của mỗi
vùng nông thôn, vừa là chân rết của công nghiệp thành thị, công nghiệp hiện
đại.
Có thể nói đây là đặc điểm của cụm công nghiệp nông thôn cần được tôn trọng
trong quá trình xây dựng các cụm ngành nghề này.
Với tính cách là hạt nhân kinh tế - kỹ thuật, cụm công nghiệp nông thôn gắn bó
với yêu cầu phát triển kinh tế và đời sống trên địa bàn, luôn giữ vai trò là động
lực thúc đẩy kinh tế nông thôn phát triển.
Là chân rết của công nghiệp thành thị bằng các hoạt động sơ chế nguyên liệu,
sản xuất các loại bán thành phẩm, lắp ráp linh kiện, sản xuất phụ kiện, phụ
tùng… dưới dạng các hợp đồng gia công đặt hàng sẽ cho phép gắn kết công
nghiệp nông thôn với công nghiệp thành thị trong sự phát triển thống nhất của
ngành công nghiệp cả nước.
1.2.2. Kết hợp phát triển chuyên môn hoá với đa dạng hoá trong các cụm
CNNT.
Do điều kiện cụ thể về tự nhiên, kinh tế - xã hội của mỗi vùng nông thôn là khác
nhau đã tạo cho từng vùng có những lợi thế riêng. Mỗi cụm công nghiệp nông
thôn ở từng vùng cụ thể cần xác định ngành công nghiệp chuyên môn hoá, sản
phẩm chuyên môn hoá theo lợi thế của vùng. Ngành chuyên môn hoá, sản
phẩm chuyên môn hoá cần được đầu tư đầy đủ để phát huy hết lợi thế tiềm
năng của vùng.
Mặt khác, để đảm bảo cung cấp những hàng hoá và dịch vụ cần thiết cho các
hoạt động kinh tế khác mà trước hết là sản xuất nông nghiệp và đời sống dân
cư địa phương; sử dụng đầy đủ và hợp lý mọi nguồn tài nguyên đất đai, lao
động, tiền vốn, kỹ năng và kinh nghiệm truyền thống của vùng, cần phát triển
các ngành và các sản phẩm đa dạng khác. Trên cơ sở kết hợp phát triển
chuyên môn hoá với đa dạng hoá, các cụm công nghiệp nông thôn sẽ phát triển
vững chắc và có hiệu quả cao.
1.2.3. Kết hợp thủ công với hiện đại trong công nghệ sản xuất
Đặc điểm cơ bản về kỹ thuật sản xuất là phần lớn các ngành công nghiệp nông
thôn dựa trên công nghệ thủ công truyền thống và sự khéo léo tinh xảo của
người thợ thủ công. Trong điều kiện ngày nay; với việc áp dụng ngày càng
nhiều những công nghệ và kỹ thuật mới vào mọi lĩnh vực sản xuất đã làm cho
năng suất lao động tăng vọt và giá thành sản phẩm giảm thấp. Điều này tất yếu
đòi hỏi các ngành công nghiệp nông thôn cũng phải áp dụng từng bước công
nghệ hiện đại vào sản xuất theo phương châm “tiểu công nghiệp nhưng phải
hiện đại, thủ công nghiệp nhưng phải tinh xảo”.
Đối với những ngành công nghiệp và thủ công nghiệp truyền thống vừa khuyến
khích nâng cao kỹ năng thủ công tinh xảo, vừa cơ giới hoá hoặc tự động hoá
những công đoạn nhất định để không ngừng cải tiến chất lượng, mẫu mã sản
phẩm, nâng cao năng suất lao động, tăng khối lượng sản phẩm và hạ giá thành
sản phẩm hàng hoá nhưng cần đảm bảo được tính tinh xảo trong chế tác các
sản phẩm, giữ được những đặc trưng truyền thống của từng loại sản phẩm mà
nơi khác, vùng khác không có.
1.2.4. Phát triển đa dạng các loại hình doanh nghiệp công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp nông thôn trên cơ sở phát huy tối đa năng lực của mọi thành phần kinh
tế ở địa phương.
Phát triển các cơ sở, doanh nghiệp CNNT với quy mô nhỏ và vừa là chủ yếu,
đặc biệt coi trọng quy mô kinh doanh nhỏ của hộ tiểu chủ, cơ sở sản xuất kinh
tế hộ gia đình. Điều này vừa phù hợp với bản chất của loại hình công nghiệp
nông thôn là vừa phù hợp với trình độ quản lý ở nông thôn và vừa tạo nên tính
năng động, linh hoạt cao cho các cơ sở kinh doanh công nghiệp ở nông thôn.
Hình 7: Các khu công nghiệp đang quy họach, đầu tư xây dựng trên địa
bàn tỉnh An Giang
Do đa số cơ sở, doanh nghiệp CNNT quy mô sản xuất nhỏ, lẽ; cho nên các cơ
sở sản xuất CN TTCN nông thôn đáp ứng nhanh nhu cầu đa dạng về mẫu mã,
chất lượng khác nhau, có thể thay đổi chất liệu, kích thước, kiểu dáng đa dạng
và sáng tạo theo tay nghề, óc thẩm mỹ của người thợ và phù hợp nhu cầu của
thị trường mà ít phải đầu tư, thay đổi nhiều về công nghệ, máy móc thiết bị sản
xuất.
1.2.5. Xây dựng và phát triển các cụm công nghiệp nông thôn cần chú trọng
việc bảo vệ môi trường.
Tuỳ theo đặc điểm kỹ thuật sản xuất của từng ngành nghề cụ thể mà quá trình
phát triển nghề tạo nên nguy cơ ô nhiễm các yếu tố môi trường đất, nước,
không khí có khác nhau. Cần coi vấn đề bảo vệ môi trường là một nội dung
trọng yếu trong quy hoạch, đầu tư xây dựng cũng như trong chiến lược phát
triển các cụm công nghiệp nông thôn.
Chẳng hạn làng nghề sản xuất gạch ngói, các doanh nghiệp khai thác đá… tạo
ra các chất thải khí, bụi đá… chẳng những gây các bệnh nghề nghiệp ảnh
hưởng sức khoẻ những người trực tiếp sản xuất, mà còn lan toả ra khu vực
xung quanh làm ô nhiễm không khí, tác hại sức khoẻ cộng đồng dân cư và hoa
màu, cây trái.
Các cơ sở chế biến thuỷ sản, sản xuất bún, thực phẩm… do chạy theo lợi
nhuận, do sự quản lý chưa nghiêm của chính quyền đã thải nước rửa cá, nước
từ bột bún, nước làm sạch nông thuỷ sản khác xuống sông, kênh rạch … gây ô
nhiễm nguồn nước sinh hoạt và tác động đến việc nuôi thuỷ sản trên sông. Các
nhà máy xay xát gây khói, bụi, tiếng ồn, xả trấu xuống sông, kênh rạch… tác
động xấu đến môi trường.
Mặc dù Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quy định về quản lý, xử
lý, xử phạt và biện pháp hành chính khác đối với các cơ sở, doanh nghiệp sản
xuất gây ô nhiễm môi trường nhưng hiệu quả và hiệu lực quản lý nhà nước
trong việc bảo vệ môi trường chưa cao.
1.3. Các dạng cụm công nghiệp nông thôn
Các cụm công nghiệp nông thôn hình thành và phát triển là kết quả của quá
trình công nghiệp hoá. Dựa trên kinh nghiệm những nước đã thực hiện công
nghiệp hoá thành công cũng như kinh nghiệm thực tiễn phát triển nông thôn
nước ta, có thể nhận thấy có các dạng cụm công nghiệp nông thôn chủ yếu là:
- Dạng cụm công nghiệp nông thôn làm vệ tinh của công nghiệp đô thị, công
nghiệp lớn. Các cụm công nghiệp nông thôn thuộc loại này thường bố trí ở các
thị trấn, thị tứ, vùng ven đô có cơ sở hạ tầng phát triển. Hướng chuyên môn hoá
của chúng là sơ chế hoặc bán tinh chế nguyên liệu (chủ yếu nông sản thực
phẩm) cho các xí nghiệp công nghiệp chế biến ở thành thị; làm hàng gia công,
sản xuất linh kiện hoặc bán thành phẩm, lắp ráp từng bộ phận của sản phẩm
cho xí nghiệp công nghiệp lớn.
- Dạng cụm công nghiệp nông thôn chế biến nông, lâm thuỷ sản ở các vùng
chuyên canh sản xuất nguyên liệu như: cụm công nghiệp khai thác chế biến gỗ,
lâm sản ở vùng núi; cụm công nghiệp chế biến chè ở vùng chuyên canh sản
xuất chè búp tươi, cụm công nghiệp chế biến cao su, hồ tiêu, mía đường, các
cụm công nghiệp chế biến thuỷ sản, hải sản ở vùng chuyên nuôi trồng hay đánh
bắt thuỷ hải sản…
- Dạng cụm công nghiệp hình thành và phát triển từ các làng nghề truyền thống.
Đây là dạng cụm công nghiệp nông thôn có lịch sử phát triển lâu đời nhất, thể
hiện đậm nét nhất truyền thống văn hoá của nông thôn. Hộ gia đình làm nghề
thủ công là hình thức tổ chức sản xuất chủ yếu trong các làng nghề.
Các làng nghề truyền thống ở nông thôn
2.1. Quá trình hình thành và phát triển các cụm làng nghề truyền thống
Nghề thủ công mỹ nghệ Việt Nam vốn có truyền thống quý báu từ lâu đời.
Truyền thống đó gắn liền với tên những làng nghề, phố nghề và được biểu hiện
bằng những sản phẩm thủ công truyền thống, với những nét độc đáo, tinh xảo,
hoàn mỹ. Sản phẩm thủ công mỹ nghệ Việt Nam có nét riêng và độc đáo tới
mức tên của sản phẩm luôn kèm theo tên của làng làm ra nó; sản phẩm nổi
tiếng cũng làm cho làng nghề tạo ra các sản phẩm ấy nổi tiếng.
Nhiều nghề và làng nghề truyền thống của ta đã nổi bật lên trong lịch sử văn
hoá, văn minh Việt Nam. Ở đó không chỉ tập trung một hay nhiều nghề thủ
công, trở thành một trung tâm sản xuất lớn hoặc khá lớn, mà còn là nơi hội tụ
các thợ và nghệ nhân có tài, khéo léo, tạo ra những sản phẩm có bản sắc riêng,
nơi khác khó có thể bắt chước được.
Lịch sử phát triển nền văn hoá cũng như lịch sử phát triển kinh tế của nước ta,
luôn gắn với lịch sử phát triển làng nghề Việt Nam. Bởi những sản phẩm thủ
công mỹ nghệ không chỉ là những vật phẩm sinh hoạt bình thường hàng ngày,
mà nó chính là những tác phẩm nghệ thuật biểu trưng của nền văn hoá xã hội,
thể hiện mức độ phát triển kinh tế, trình độ dân trí, đặc điểm nhân văn của dân
tộc.
Hình 8: Nghề làm đồ gốm và nghề chế biến sản phẩm từ sợi lục bình khô
Ðồng thời, các làng nghề không chỉ đơn thuần sản xuất ra những sản phẩm
hàng hoá như trong một cái công xưởng. Làng nghề là cả một môi trường văn
hoá - kinh tế- xã hội và công nghệ truyền thống lâu đời. Nó bảo lưu những tinh
hoa nghệ thuật và kỹ thuật truyền từ đời này sang đời khác, chung đúc ở các
thế hệ nghệ nhân tài năng, với những sản phẩm có bản sắc riêng của mình,
nhưng lại tiêu biểu và độc đáo của cả dân tộc Việt Nam.
Môi trường văn hoá làng nghề cũng chính là khung cảnh làng quê, gắn với cây
đa bến nước, đình chùa, đền miếu..., các hoạt động lễ hội và hoạt động phường
hội, phong tục tập quán, nếp sống đậm nét dân gian và chứa đựng tính nhân
văn sâu sắc. Truyền thống đó từ lâu đã trở thành một bộ phận không thể thiếu
và làm phong phú thêm truyền thống văn hoá Việt Nam.
Tuy có những cách hiểu khác nhau về cụm công nghiệp làng nghề, nhưng có
thể quan niệm, cụm công nghiệp làng nghề là một địa điểm phân bố sản xuất
của các doanh nghiệp vừa và nhỏ và các hộ kinh tế gia đình, kinh doanh công
nghiệp và dịch vụ nhằm khắc phục ô nhiễm môi trường, tạo ra cơ sở hạ tầng tốt
hơn và tạo điều kiện tốt hơn cho sản xuất kinh doanh.
Khác với khu công nghiệp tập trung; cụm công nghiệp làng nghề có quy mô nhỏ
hơn, điều kiện và phương tiện xử lý môi trường, cũng như có các yếu tố cơ sở
hạ tầng kém hơn. Cụm công nghiệp làng nghề khác với khu công nghiệp vừa và
nhỏ ở chỗ: khu công nghiệp vừa và nhỏ bao gồm các doanh nghiệp vừa và nhỏ
ở thành phố di dời ra để khắc phục ô nhiễm môi trường hoặc hình thành từ sự
quy hoạch, đầu tư phát triển của chính quyền địa phương.
Còn các cụm công nghiệp làng nghề gồm các cơ sở sản xuất được hình thành
từ các hộ kinh doanh gia đình, các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở làng nghề; có
quá trình phát triển khá dài lâu, kết tinh nhiều kinh nghiệm và từ bàn tay, óc
thẩm mỹ của người thợ thủ công, mỹ nghệ. Nó mang tính tự phát nhiều hơn và
có sự thăng trầm theo thời gian.
2.2. Đặc điểm phát triển các cụm làng nghề
Phát triển cụm công nghiệp làng nghề là yêu cầu cấp thiết giải quyết mặt bằng
cho sản xuất kinh doanh và khắc phục ô nhiễm môi trường ở làng nghề. Trong
những năm đổi mới, làng nghề ở nông thôn Việt Nam đã có sự phát triển mạnh
và đạt được những thành tích đáng ghi nhận, đó là:
Quy mô và giá trị sản xuất của các làng nghề không ngừng tăng lên qua các
năm.
Nhiều làng nghề mới hình thành, nhiều làng nghề phát triển trở thành xã nghề,
vùng nghề. Theo số liệu điều tra của Tổ chức quốc tế Nhật Bản (2001) cả nước
có 2.017 làng nghề, trong đó làng nghề ở Bắc bộ chiếm 63%, đặc biệt vùng
châu thổ sông Hồng chiếm tới 43% số làng nghề toàn quốc, số làng nghề và lao
động trong các làng nghề đã tăng lên rõ rệt.
Tốc độ tăng giá trị sản xuất ở các làng nghề trong những năm qua đạt khá cao,
vượt qua tốc độ tăng chung của công nghiệp cả nước.
· Nhiều làng nghề đã có sự chuyển đổi cơ cấu sản phẩm phù hợp với yêu cầu
thị trường. Nhiều làng nghề đã chú ý đổi mới công nghệ. Nhìn chung sản xuất
kinh doanh của các làng nghề được duy trì và phát triển, một số sản phẩm được
xuất khẩu ra nước ngoài.
· Về tổ chức sản xuất kinh doanh, ở nhiều làng nghề đã có sự đa dạng hoá các
hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh, thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển.
Theo số liệu của JICA (2001) tại các làng nghề trong cả nước, có 851 doanh
nghiệp (Công ty TNHH, Công ty tư nhân, Công ty cổ phần) và 277 hợp tác xã
hoạt động.
Với sự phát triển “khá nóng” như vậy, các làng nghề đã nổi lên 2 mâu thuẫn lớn
phải giải quyết, đó là:
- Thứ nhất, xãy ra tình trạng thiếu mặt bằng cho duy trì và mở rộng sản xuất
kinh doanh của các làng nghề.
- Thứ hai, cần phải xây dựng chiến lược phát triển làng nghề và giải pháp thích
hợp để giải quyết ô nhiễm môi trường trong quá trình phát triển làng nghề.
Hình thành và phát triển các cụm công nghiệp làng nghề là giải pháp hữu hiệu
để giải quyết hai mâu thuẫn trên trong quá trình phát triển các làng nghề.
Các cụm công nghiệp làng nghề được hình thành và phát triển bằng hai con
đường chính: i) Sự hình thành tự phát từ một cụm sản xuất tiểu thủ công nghiệp
do các hộ, cơ sở sản xuất tự xây dựng, sau đó phát triển thành cụm công
nghiệp làng nghề; ii) Xây dựng mới cụm công nghiệp làng nghề do nhu cầu bức
xúx cần mặt bằng mới, mở rộng hay quy hoạch của địa phương.
2.3. Một số giải pháp củng cố, bảo tồn và phát triển các cụm làng nghề thủ
công
Thời gian qua, nhiều làng nghề vẫn phát huy được vai trò và vị trí trong nền kinh
tế, xã hội nói chung nhưng cũng có nhiều làng nghề đang bị mai một dần, người
dân làng nghề vì nhiều lý do không còn theo nghề truyền thống của cha ông để
lại… Việc một số làng nghề bị mai một dẫn đến mất nghề có nhiều nguyên nhân
như do ngành nghề không thích hợp nhu cầu tiêu dùng của xã hội, tự thân các
làng nghề chưa có cách tiếp cận với cơ chế thị trường để tìm hướng đi phù hợp
hơn. Sản phẩm làm ra không phải không có chất lượng mà vì chưa tiếp thị,
quảng bá tốt, vẫn chủ yếu theo kiểu "hữu xạ tự nhiên hương".
Các tác động của kinh tế thị trường cũng tạo cho thế hệ thanh niên nông thôn
có xu hướng di dân ra thành thị, thích làm trong các ngành nghề mới, thu nhập
cao và không phải tốn nhiều công sức rèn luyện tay nghề như các nghề tiểu thủ
công mỹ nghệ.
Mỗi một làng nghề đều có lịch sử hình thành và phát triển lâu đời, làm nghề
theo kiểu cha truyền con nối, dòng tộc truyền lại. Làm thế nào để bảo tồn và
phát triển làng nghề trong cơ chế thị trường, đây là bài toán khó cho các cơ
quan quản lý. Để phát triển các làng nghề, có một định hướng đang được quan
tâm hiện nay là xây dựng làng nghề tập trung kết hợp với kinh doanh dịch vụ và
du lịch.
Các làng nghề cần được các chính sách hỗ trợ để xây dựng tập trung, tạo ra
những điểm du lịch hấp dẫn khách trong và ngoài nước, tạo các điều kiện về
vốn, bổ sung công nghệ phù hợp, thay đổi mẫu mã, bao bì, nâng cao tay nghề,
tiếp thị sản phẩm… nhằm duy trì nghề truyền thống, tạo công ăn việc làm, xoá
đói giảm nghèo ở các vùng nông thôn. Phát triển làng nghề kết hợp với du lịch
là hướng đi thuận lợi cho các làng nghề, để làm được việc này cần sự phối hợp
đồng bộ giữa các cấp, ngành, địa phương, Tổng cục Du lịch Việt Nam trong việc
sắp xếp các tua du lịch cho khách tham quan, xây dựng cơ sở hạ tầng...
Sau khi có Quyết định số 132/2000/QĐ-TTg ngày 24/11/2000 của Thủ tướng
Chính phủ về một số chính sách khuyến khích phát triển ngành nghề nông thôn,
cụm công nghiệp làng nghề rất phát triển ở các địa phương có nhiều làng nghề.
Từ thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh thời gian qua cho thấy cụm công
nghiệp làng nghề có ưu điểm và lợi ích rõ rệt sau đây:
- Thúc đẩy phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp ở các địa phương, góp
phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế các tỉnh.
- Tạo mặt bằng cho mở rộng và tăng quy mô sản xuất của nhiều làng nghề.
Như vậy, có thể coi cụm công nghiệp làng nghề là cứ điểm, là khâu đột phá
trong phát triển làng nghề ở trình độ mới quy mô nâng lên, hạn chế ô nhiễm môi
trường và nâng cao chất lượng sự phát triển.
Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển và nâng cao vai trò cụm công nghiệp
làng nghề trong quá trình hội nhập.
Quy hoạch phát triển các cụm công nghiệp làng nghề.
Phải coi trọng công tác quy hoạch phát triển các cụm công nghiệp làng nghề vì
khâu này phải đi trước và nó ảnh hưởng quyết định đến sự phát triển lâu dài
của cụm. Tư tưởng cần quán triệt trong quy hoạch là: phải tính toán mục tiêu và
hiệu quả của cụm công nghiệp làng nghề. Về mục tiêu thành lập cụm công
nghiệp làng nghề là hạn chế ô nhiễm môi trường và phát triển sản xuất kinh
doanh, trong đó nhấn mạnh trước hết đến mục tiêu hạn chế ô nhiễm môi
trường. Ngành nào, sản phẩm nào để lại sản xuất phân tán ở làng nghề (thêu
ren, mây tre đan...) có hiệu quả thì không nhất thiết phải thành lập cụm công
nghiệp làng nghề. Ngành nào, sản phẩm nào nếu sản xuất phân tán ở làng xã
làm môi trường bị ảnh hưởng thì kiên quyết thành lập cụm công nghiệp làng
nghề để tách khu vực sản xuất ra khỏi khu dân cư. Cần tránh tình trạng biến
cụm công nghiệp làng nghề thành một khu dân mới và nhân rộng ô nhiễm môi
trường ra nơi mới.
Quy hoạch phát triển cụm công nghiệp làng nghề cần chú ý kết hợp với:
i) Quy hoạch phát triển ngành nghề trong chiến lược lâu dài;
ii) Quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội của địa phương;
iii) Quy hoạch sử dụng đất đai của tỉnh;
iv) Quy hoạch phát triển các khu công nghiệp tập trung, khu công nghiệp vừa và
nhỏ trên địa bàn tỉnh.
Thực hiện các giải pháp giảm ô nhiễm môi trường.
Trên thực tế, chưa có tiến bộ và thay đổi đáng kể trong giải quyết ô nhiễm môi
trường ở các làng nghề khi thành lập cụm công nghiệp làng nghề.
Để giảm ô nhiễm môi trường ở các làng nghề và các cụm công nghiệp làng
nghề, cần có giải pháp đồng bộ về: Quy hoạch, công nghệ sản xuất, xử lý môi
trường và chính sách kèm theo.
- Về quy hoạch: Thành lập và phát triển các cụm công nghiệp làng nghề để tách
khu vực sản xuất ra khỏi khu vực dân cư và tạo điều kiện mở rộng, phát triển
sản xuất. Trong mỗi một cụm công nghiệp làng nghề, cần giành một diện tích
đất đai nhất định để trồng cây xanh.
- Về công nghệ sản xuất: Cần thay đổi và đổi mới công nghệ sản xuất theo
hướng áp dụng công nghệ ít gây ô nhiễm môi trường, ví dụ: dùng lò ga thay lò
hộp sử dụng than củi trong các làng và các cụm công nghiệp sản xuất gốm sứ.
- Về xử lý ô nhiễm: Tại các cụm công nghiệp làng nghề có thể thành lập các xí
nghiệp xử lý chất thải và áp dụng các phương tiện xử lý chất thải. Nên có các
giải pháp để nâng cao ý thức và trách nhiệm của mỗi người lao động. Mỗi cơ sở
sản xuất kinh doanh phải có giải pháp xử lý tập trung phế thải ở cụm công
nghiệp làng nghề với sự hỗ trợ có hiệu quả của nhà nước.
- Về chính sách, nên có chính sách đầu tư hỗ trợ xử lý ô nhiễm môi trường.
Tổ chức bộ máy quản lý đối với cụm công nghiệp làng nghề.
Để quản lý cụm công nghiệp làng nghề có hiệu lực và hiệu quả, vấn đề mấu
chốt là phân định rõ chức năng quản lý nhà nước và chức năng quản lý nội bộ
cụm. Trong đó sẽ phân công phân cấp: chức năng quản lý nhà nước và chức
năng quản lý nội bộ cụm công nghiệp làng nghề cần phân biệt rõ.
Bộ máy chính quyền các cấp (tỉnh, huyện, xã) - với cơ quan giúp việc là các cơ
sở ban, ngành của tỉnh và các phòng, ban của huyện là cơ quan quản lý nhà
nước đối với các cụm công nghiệp làng nghề; chịu trách nhiệm về quy hoạch,
chỉ đạo thực hiện quy hoạch, ban hành, chỉ đạo và kiểm tra thực hiện các quy
định, hướng dẫn có tính pháp quy về xây dựng và phát triển cụm công nghiệp
làng nghề.
Ban Quản lý dự án cụm công nghiệp làng nghề ở các huyện là ban chuyên môn
do nhà nước tổ chức ra để lo việc: đầu tư, triển khai xây dựng kết cấu hạ tầng
và đưa cụm công nghiệp làng nghề vào hoạt động.
Ban điều hành hoạt động cụm công nghiệp làng nghề (thực chất là Ban quản lý
nội bộ cụm) là một tổ chức do cụm công nghiệp làng nghề thành lập, sau khi
công tác xây dựng hạ tầng kỹ thuật của cụm về cơ bản hoàn thành. Ban này
hoạt động như một đơn vị sự nghiệp có thu hoặc một đơn vị thực hiện hạch
toán kinh tế.
· Hoàn thiện môi trường thể chế cho phát triển và quản lý các cụm công nghiệp
làng nghề.
Sau khi có Quyết định số 132/2000/QĐ-TTg ngày 24/11/2000 của Thủ tướng
Chính phủ về một số chính sách khuyến khích phát triển ngành nghề nông thôn,
nhiều chính quyền địa phương (tỉnh, huyện) đã ban hành các văn bản pháp quy
để tiến hành xây dựng và phát triển cụm công nghiệp làng nghề.
Các văn bản pháp quy này đã tạo cơ sở pháp lý để triển khai khá nhanh các
công việc liên quan đến hình thành, phát triển các cụm làng nghề. Tuy nhiên,
còn nhiều vấn đề cần có quy định thống nhất của nhà nước để tạo môi trường
thể chế cho quản lý, hoạt động, phát triển các cụm công nghiệp làng nghề, đó
là:
- Cần ban hành về mặt pháp quy các tiêu chí đánh giá làng nghề và cụm công
nghiệp làng nghề. Nên thống nhất khái niệm: cụm công nghiệp làng nghề.
- Xây dựng cơ chế cho việc thành lập, phát triển, quản lý các cụm công nghiệp
làng nghề.
- Nên có chính sách khuyến khích, hỗ trợ của nhà nước đối với hình thành và
phát triển cụm công nghiệp làng nghề. Ví dụ, nhà nước hỗ trợ việc xây dựng hạ
tầng cơ sở ngoài hàng rào, cấp điện, nước đến cụm công nghiệp làng nghề, hỗ
trợ kinh phí lập quy hoạch chi tiết cụm công nghiệp làng nghề, ưu tiên trong việc
tính giá thuê đất, hỗ trợ công tác đào tạo và nghiên cứu, ứng dụng khoa học
công nghệ, hỗ trợ công tác tiếp thị...
· Phát triển các hoạt động dịch vụ với sự hỗ trợ của nhà nước.
Các hoạt động dịch vụ như: đào tạo, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công
nghệ, tư vấn chất lượng, xúc tiến thương mại, tài chính ngân hàng đóng vai trò
rất quan trọng đối với đẩy nhanh sự phát triển, nâng cao hiệu quả sự phát triển
các cụm công nghiệp làng nghề.
Trên thực tế, các hoạt động dịch vụ trên còn rất nhỏ bé, chưa phát triển và phần
lớn do cơ sở tự lo hoặc do tổ chức trung gian đảm nhận.
2.4. Kinh nghiệm phát triển ngành tiểu thủ công nghiệp trong nông thôn ở
một số nước châu Á và bài học đối với Việt Nam
Nhận thức được tầm quan trọng của các ngành nghề tiểu, thủ công nghiệp
trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội nông thôn, các nước Nhật Bản, Hàn
Quốc, Trung Quốc, Ấn Độ… đều tập trung nỗ lực của mình vào phát triển các
ngành tiểu, thủ công nghiệp trong nông thôn và đưa ra những giải pháp phát
triển như: Xác định hướng phát triển các ngành tiểu, thủ, nhiệm vụ được đặt ra
là bảo tồn và phát triển nghề thủ công truyền thống theo hướng hiện đại và vận
dụng lợi thế của các xí nghiệp nhỏ và vừa vào phát triển ngành tiểu công
nghiệp.
Tổ chức quản lý các ngành tiểu, thủ công nghiệp, nhiệm vụ đặt ra là lựa chọn
hướng sản xuất và lựa chọn kỹ thuật, đào tạo nguồn nhân lực, tổ chức các dịch
vụ tư vấn công nghiệp, thiết lập mối quan hệ sản xuất gia công công nghiệp,
giữa nền sản xuất tiểu công nghiệpv à nền sản xuất đại công nghiệp. Trên cơ
sở những kinh nghiệm đó, một số bài học về phát triển ngành tiểu, thủ công
nghiệp cho nông thôn Việt nam trong thời gian tới.
2.4.1. Xác định hướng phát triển các ngành nghề tiểu, thủ công nghiệp
* Bảo tồn, đổi mới và phát triển nghề thủ công truyền thống ở nông thôn: Đây là
vấn đề trọng tâm trong hát triển ngành nghề tiểu, thủ công nghiệp trong nông
thôn ở các nước châu Á điển hình là Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc,
vùng lãnh thổ Đài Loan, Thái Lan… Các nước đã tập trung nhiều nỗ lực vào
việc bảo tồn, đổi mới và phát triển nghề thủ công truyền thống. Nghề thủ công
muốn phát triển phải có sự thích nghi với xu thế mới, phải được đổi mới và hiện
đại hoá. Đây là hai điều kiện quyết định cho mọi kỳ vọng phát triển. Trường hợp
Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc cho Việt Nam kinh nghiệm tiêu biểu về khả
năng thích nghi của nền thủ công nghiệp truyền thống với công cuộc hiện đại
hoá nền kinh tế. Người thợ thủ công ở những nước này đã được đổi mới, mang
tính cách mới.
Quan niệm về người thợ thủ công không còn theo nghĩa cổ điển là làm bằng tay
mà đã được hiểu theo nghĩa tính chất sản xuất cá thể hoá của họ. Người thợ
thủ công hiện đại có thể sử dụng các dụng cụ cơ khí như máy khoán, cưa điện
và máy móc hiện đại. Kinh nghiệm các nước cho thấy bảo tồn và phát triển một
giá trị truyền thống một nghề thủ công nào đó hoàn toàn không có nghĩa duy trì
một kỹ thuật thô sơ không cần đến máy móc và không nên duy trì một quan hệ
cạnh tranh giữa sản phẩm thủ công với sản phẩm công nghiệp hiện đại, nền
sản xuất thủ công nghiệp phải được hiện đại, hướng đến một quan hệ bổ sung
đối với nền sản xuất đại công nghiệp và hướng đến các khu vực dịch vụ hiện
tại.
* Vận dụng lợi thế và ưu điểm của xí nghiệp nhỏ và vừa vào phát triển ngành
tiểu, thủ công nghiệp trong nông thôn: Các nước có nền công nghiệp hiện đại
như Nhật Bản, Ấn Độ, Trung Quốc, Hàn Quốc, vùng lãnh thổ Đài Loan… rất
quan tâm đến phát triển các xí nghiệp nhỏ và vừa trong các ngành tiểu, thủ
công nghiệp trong nông thôn, vì nó có nhiều lợi thế và ưu điểm. Kinh nghiệm
vận dụng lợi thế và ưu điểm của xí nghiệp nhỏ được thể hiện qua một số nội
dung như:
- Vận dụng lợi thế vật chất kỹ thuật của quy mô sản xuất nhỏ để sản xuất những
sản phẩm đòi hỏi độ chính xác tương đối; Vận dụng lợi thế về địa điểm sản xuất
và chi phí vận chuyển thấp.
- Sử dụng công nhân có tay nghề, trong xí nghiệp nhỏ để sản xuất hàng loạt
những bộ phận đặc biệt và phụ tùng để hoàn chỉnh sản phẩm, sản phẩm sản
xuất từng lô nhỏ, không thể tiêu chuẩn hoá, phụ thuộc vào nhu cầu, thị hiếu của
khách hàng, thị trường hạn chế.
- Vận dụng tính mềm dẻo, linh hoạt trong các hoạt động sản xuất kinh doanh,
khả năng giảm bớt các chi phí trung gian, các quan hệ cá nhân chặt chẽ, trực
tiếp trong nội bộ xí nghiệp trong việc nâng cao năng suất lao động, khai thác
những điểm mạnh trong dịch vụ bán hàng như sự nhanh nhậy, trực tiếp, chu
đáo, phản ứng nhạy bén đối với khả năng phát triển sản xuất sản phẩm mới và
dễ nắm bắt thời cơ kinh doanh hơn là các xí nghiệp lớn.
2.4.2. Tổ chức quản lý các ngành tiểu, thủ công nghiệp.
Kinh nghiệm của các nước cho thấy, những thành công về phát triển các ngành
nghề tiểu, thủ công nghiệp trong nông thôn phần lớn phụ thuộc vào yếu tố tổ
chức quản lý sản xuất, trong đó tập trung vào những điểm mấu chốt như: