1. Trang chủ >
  2. Nông - Lâm - Ngư >
  3. Ngư nghiệp >

Chương 3: Những điều kiện nhân tố tác động và quan điểm chủ yếu để phát triển công nghiệp nông thôn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 174 trang )


1.2. Khơi dậy và phát triển các kỹ năng truyền thống của từng vùng nông

thôn

Các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp bao gồm các ngành nghề truyền thống

cũng như các làng nghề mới được hình thành trong những năm đổi mới, tạo

thành bộ phận chủ yếu của công nghiệp nông thôn. Biết khai thác và phát huy

hết những kỹ năng ngành nghề truyền thống được coi là một điều kiện quan

trọng để phát triển công nghiệp nông thôn nước ta hiện nay.

Các ngành nghề tiểu thủ công mang tính chất phụ thêm và bổ sung cho sản

xuất nông nghiệp từ xa xưa trong lịch sử Việt Nam đã là một bộ phận cấu thành

của nền kinh tế nông nghiệp truyền thống. Hầu hết các làng quê Việt Nam đều

có các nghề thủ công ở mức độ chuyên khác nhau. Do tính chất thời vụ của sản

xuất nông nghiệp, người nông dân đã phải kiêm thêm vai trò người thợ thủ công

chỉ trong thời gian họ nhàn rỗi và trong chừng mực đủ để củng cố nền kinh tế

nông nghiệp tự cấp, tự túc. Chỉ trừ một số ít phát triển lên làng nghề, còn đại bộ

phận luôn luôn sẳn sàng quay trở lại để làm nghề nông.

Trong cơ chế cũ, các ngành tiểu thủ công nghiệp nông thôn chỉ được coi là

nghề phụ trong hợp tác xã nông nghiệp, nên không thể phát triển được. Trong

quá trình đổi mới, thực tế đã cho thấy các ngành nghề thủ công truyền thống tuy

còn phát triển tự phát nhưng là bộ phận năng động nhất trong nông thôn. Sự

phát triển của công nghiệp nông thôn ở nhiều địa phương đã bắt đầu từ việc

khôi phục và phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống đã

sẵn có kết hợp với việc du nhập các ngành nghề mới và các loại hình công

nghiệp, dịch vụ khác.

Trong quá trình phát triển, do nhu cầu sống còn của mình, các hộ sản xuất đã

tự liên kết với nhau dưới nhiều hình thức như tổ chức sản xuất liên gia, hiệp hội

nghề nghiệp, hợp tác xã cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn. Các hộ sản xuất

còn liên kết với các hộ làm kinh doanh và dịch vụ, giữa các hộ ở nông thôn và ở

thành thị để sản xuất và bao tiêu sản phẩm. Ở nhiều làng nghề truyền thống đã

có những hộ chuyên làm dịch vụ lo đầu vào (cung cấp nguyên vật liệu) và đầu

ra (thu mua sản phẩm đem bán lại nơi khác) cho các hộ làm sản xuất, thậm chí

đã vươn tới nhiều thị trường nước ngoài như Thái Lan, Singapore, Hồng Kông

và nhiều nước Bắc Âu. Nhiều tổ hợp sản xuất đã tự huy động vốn nhàn rỗi trong

dân mà không trông chờ hoặc ỷ lại vào vốn vay của Nhà nước để đầu tư sản

xuất. Có thể thấy rằng nếu khai thác và phát huy tốt các kỹ năng ngành nghề

truyền thống trong nông thôn nước ta thì đây là điều kiện để phát triển nhanh và

vững chắc công nghiệp nông thôn.

1.3. Thị trường cho phát triển các ngành công nghiệp nông thôn

Trong điều kiện kinh tế thị trường thì thị trường có vai trò quan trọng và là điều

kiện phát triển của ngành nghề, làng nghề hay bất kỳ ngành công nghiệp nông

thôn nào đó. Không thể phát triển được nghề nếu không có thị trường và thị

trường tương đối ổn định để cung ứng nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm của

ngành nghề. Đây là đòi hỏi có tính bắt buộc của hoạt động sản xuất kinh doanh



trong điều kiện cơ chế thị trường đã thể hiện qua thực tiễn giai đoạn đầu chuyển

đổi cơ chế kinh tế ở nước ta.

Nhìn lại thành tựu phát triển hiện nay ở các hợp tác xã ngành nghề, các làng

nghề cũng như các ngành công nghiệp nông thôn khác, chúng ta đều thấy có

điểm chung nhất là họ phải tìm được thị trường tiêu thụ hoặc phải có thị trường

tiêu thụ.

1.4. Sự phát triển nhất định của các yếu tố cơ sở hạ tầng

Để hướng sự phát triển và thúc đẩy mạnh mẽ các ngành công nghiệp nông thôn

cần phải phát triển các yếu tố cơ sở hạ tầng, nhất là năng lượng và giao thông.

Việc đầu tư xây dựng và phát triển chợ nông thôn, các kho hàng, bến xe, bến

ghe tàu, hệ thống đường giao thông nông thôn (thuỷ, bộ)… từng bước đáp ứng

nhu cầu đầu tư và phát triển nông thôn mới ở nước ta.

1.5. Những điều kiện về thể chế, chính sách quản lý

Đó là những mối quan hệ xã hội nảy sinh, tồn tại trong quá trình phát triển đã

được điều chỉnh và pháp chế hoá về mặt Nhà nước ở những mức độ khác nhau

(Hiến pháp, luật, các chính sách, các cơ quan quản lý chuyên môn.. ). Nòng cốt

của những mối quan hệ trên là các quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu, quan hệ

thị trường, quan hệ tổ chức giữa các chủ thể trong quá trình phát triển.

Có sự khác nhau nhất định về điều kiện tự nhiên, kinh tế- xã hội và văn hoá cho

sự phát triển công nghiệp nông thôn ở từng vùng nông thôn khác nhau, đây là

vấn đề đòi hỏi phải được xem xét trong quá trình phát triển. Tuy nhiên, trước hết

cần xem xét những điều kiện có tính phổ biến cho phát triển công nghiệp nông

thôn nói chung.

Những điều kiện có tính phổ biến đó là: sự phát triển ở một trình độ nhất định

của sản xuất nông nghiệp; khả năng khơi dậy và phát huy các kỹ năng truyền

thống ở từng vùng nông thôn; điều kiện về thị trường, mức độ phát triển của các

yếu tố cơ sở hạ tầng và những điều kiện về thể chế. Nói chung thì mức độ tạo

ra và phát huy những điều kiện chủ yếu trên chi phối nội dung, định hướng, tiến

độ và khả năng phát triển của công nghiệp nông thôn ở nước ta.

Những nhân tố tác động đến công nghiệp nông thôn

2.1. Điều kiện tự nhiên của nông thôn nước ta và tác động của nó tới công

nghiệp nông thôn

Nông thôn nước ta hiện chiếm khoảng 297.900 km2 , tức là trên 90% diện tích

cả nước, bao gồm nhiều dạng địa hình khác nhau. Điều kiện sản xuất nông

nghiệp ở mỗi vùng cũng rất khác nhau.

Tất cả những yếu tố và đặc điểm thuộc điều kiện tự nhiên ở nông thôn vừa tạo

điều kiện thuận lợi và động lực thúc đẩy đối với việc phát triển công nghiệp

nông thôn, vừa tạo ra những bất lợi và khó khăn cho sự phát triển của khu vực

kinh tế này. Trước hết, chúng làm cho có thể phát triển công nghiệp nông thôn



ở mọi nơi, do ở đâu cũng có những tài nguyên, nguyên liệu có thể khai thác để

tiến hành các hoạt động sản xuất công nghiệp.

Việc sản xuất phân tán cũng là một yếu tố buộc phải tiến hành các hoạt động

công nghiệp chế biến ngay tại chỗ để tránh hư hỏng, thất thoát trên đường vận

chuyển. Tuy nhiên chính điều này dễ làm cho công nghiệp nông thôn sẽ chỉ là

“sản xuất phụ” ở nông thôn, nếu không có những tác động có chủ đích để tạo ra

những vùng nguyên liệu lớn hoặc những cụm công nghiệp có khả năng tập hợp

các nguồn lực để tiến hành sản xuất ở quy mô lớn. Hơn nữa, việc phát triển

phân tán như vậy gây khó khăn cho việc quy hoạch tổng thể và đầu tư một cách

tập trung.

Từ những đặc điểm này có thể rút ra một kết luận quan trọng là: ở một chừng

mực nhất định, đặc biệt là trong giai đoạn đầu, công nghiệp nông thôn ở một địa

phương có thể phát triển một cách tự phát; thậm chí việc “để mặc” cho nó tự

phát triển có thể tạo ra sự phát triển nhanh hơn so với việc quản lý nó một cách

chặt chẽ. Tuy nhiên, khi đã đạt tới một quy mô và trình độ nhất định, việc phát

triển tự phát lại tạo ra những khó khăn làm hạn chế sự phát triển của công

nghiệp nông thôn.

2.2. Nguồn lực lao động là điều kiện cho sự phát triển công nghiệp nông

thôn nước ta

Lao động phổ thông là nguồn lực quan trọng nhất ở nông thôn.

Quy mô của các hộ sản xuất có xu hướng giảm đi trong thời gian qua: mỗi hộ

chỉ bao gồm bình quân 4,77 nhân khẩu, trong đó có 2,29 lao động. Các chỉ số

tương ứng năm 1989 là 4,83 người và 2,35 lao động. Lực lượng này vượt quá

nhu cầu sử dụng của nông nghiệp, làm cho hệ số sử dụng ngày công của lao

động thuần nông là rất thấp: Chỉ có 18% lao động nông nghiệp có số ngày công

từ 210 ngày/năm, 21% số lao động chỉ làm việc 90 ngày/năm với tổng thời gian

bình quân 4-5 giờ/ngày. Trong khi đó, nếu chỉ thuần tuý sản xuất nông nghiệp,

các hoạt động dịch vụ và thương mại khác cũng hầu như không phát triển, nhu

cầu sử dụng lao động vì thế rất thấp. Điều này làm cho lực lượng lao động nông

thôn không được coi là nguồn lực, mà là một gánh nặng, tạo ra một sức ép lớn

về mặt xã hội, đòi hỏi không chỉ riêng vùng nông thôn mà cả nước cùng phải

giải quyết.

Đặc điểm chung của lực lượng lao động nông thôn là:

- Trình độ văn hoá chung khá cao, có điều kiện thuận lợi để tiếp thu các kinh

nghiệm sản xuất, kinh doanh, tiếp thu các tiến bộ khoa học- công nghệ. Không

những thế, những tiến bộ nhanh chóng trong lĩnh vực nông nghiệp và việc áp

dụng chúng vào sản xuất trong thời gian vừa qua đã bước đầu tạo cho người

lao động ở nhiều vùng nông thôn thói quen và những kinh nghiệm nhất định

trong việc tìm tòi và áp dụng tiến bộ kỹ thuật - công nghệ vào sản xuất. Tuy

nhiên, kiến thức và trình độ tay nghề về sản xuất thủ công nghiệp của người lao

động ở nông thôn còn rất hạn chế. Tỷ lệ lao động có kỹ thuật, được đào tạo

nghề không quá 10% tổng số lao động nông thôn.



- Những kỹ năng, kinh nghiệm, hiểu biết về kinh doanh và thị trường của người

lao động nói chung còn hạn chế, thiếu tính hệ thống, chậm được cập nhật. Việc

tìm hiểu, truyền đạt các thông tin thường chậm và phải qua nhiều kênh hành

chính. Tác động của các yếu tố truyền thống, tập quán và những quan hệ dòng

họ, gia đình chi phối rất lớn đến các hoạt động sản xuất - kinh doanh.

2.3. Điều kiện kinh tế - xã hội ở vùng nông thôn nước ta

Nông thôn nước ta có những điều kiện kinh tế thuận lợi nhưng cũng có nhiều

điểm hạn chế sự phát triển của công nghiệp nông thôn. Hiện nay, về cơ bản,

kinh tế nông thôn vẫn là nông nghiệp. Theo số liệu thống kê năm 2000, trong số

gần 12 triệu hộ gia đình ở nông thôn, có 9,35 triệu hộ sản xuất nông nghiệp,

chiếm 79,58% tổng số hộ, giảm không đáng kể so với số liệu điều tra trong cuộc

điều tra dân số năm 1989 (80%). Tuy nhiên, sự phân hoá giữa các vùng đã khá

lớn: Trong khi ở vùng Đồng bằng sông Hồng tỷ lệ này là 91,2%, vùng Đồng

bằng sông Cửu Long chỉ là 69,94% và vùng Đông Nam Bộ chỉ 48,42%. Số các

hộ sản xuất công nghiệp và xây dựng chiếm 1,6% tống số hộ nông dân toàn

quốc.

Các yếu tố văn hoá - xã hội ở nông thôn cũng tác động một cách mạnh mẽ tới

sự phát triển của công nghiệp nông thôn.

Những yếu tố đóng vai trò quan trọng ở đây là: Tập quán kinh doanh; các quan

hệ gia đình, dòng họ; tính chất khép kín trong sản xuất ở mỗi vùng và trình độ

văn hoá chung ở nông thôn và mỗi vùng nông thôn. Các yếu tố này làm hạn chế

tính chất sản xuất hàng hoá của sản xuất nói chung cũng như của công nghiệp

nông thôn nói riêng.

Trong thời gian qua, do điều kiện giao lưu được cải thiện, những tác động tiêu

cực phần nào được khắc phục, nhưng quá trình chuyển đổi cơ cấu ngành kinh

tế thiếu một cơ sở kinh tế và văn hoá vững chắc để có thể duy trì tác động của

chúng một cách bền vững và phát huy tác động tích cực của chúng. Hơn nữa,

những tác động này là những tác động hai chiều, bao gồm cả yếu tố tích cực và

các yếu tố tiêu cực, kìm hãm sự phát triển của việc du nhập những ngành nghề

mới vào nông thôn.

2.4. Thị trường của công nghiệp nông thôn

Thị trường là nhân tố quan trọng nhất chi phối sự phát triển của công nghiệp

nông thôn Việt Nam hiện nay và trong nhiều năm tới.

Thị trường sản phẩm của công nghiệp nông thôn, như trên đã trình bày, có tính

chất địa phương. Tính chất đó xuất phát từ sự tồn tại của một thời kỳ khá dài

sản xuất tự cấp tự tiêu. Sự hạn chế của thị trường công nghiệp nông thôn thể

hiện qua những điểm sau:

- Nhu cầu về các sản phẩm và dịch vụ đang ở trình độ thấp và đang có sự phân

hoá mạnh mẽ.

- Sức mua hạn chế do các nguồn thu nhập hạn chế (chủ yếu từ nông nghiệp,

đặc biệt là sản xuất lương thực). Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã tạo ra những



thay đổi trong cơ cấu thu nhập nhưng chưa đáng kể. Tại một số làng nghề

truyền thống, thu nhập từ các hoạt động phi nông nghiệp chiếm tỷ lệ lớn trong

tổng thu nhập của dân cư.

Nguyên nhân khác dẫn tới sự hạn chế sức mua là thu nhập bình quân đầu

người thấp. Năm 1988, thu nhập bình quân hàng tháng ở những vùng nông

thôn kinh tế tương đối khá chỉ mới từ 15.000 đến 35.000 đ/người.

Qua khảo sát ở nhiều địa phương, có thể thấy các doanh nghiệp vừa và nhỏ

thường phải đáp ứng những yêu cầu chủ yếu và phổ biến sau đây trong việc

huy động và sử dụng vốn:

1. Đảm bảo lượng vốn cần thiết, đúng thời điểm, đúng số lượng với những điều

kiện thuận lợi cho sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp.

2. Các hình thức huy động và biện pháp sử dụng vốn phải phù hợp với những

điều kiện về tổ chức và quản lý của doanh nghiệp.

3. Những điều kiện huy động và sử dụng vốn phải phù hợp với điều kiện kinh tế

của cơ sở, đảm bảo sản xuất - kinh doanh của cơ sở có hiệu quả kinh tế cao,

đảm bảo khả năng phát triển của cơ sở.

4. Việc huy động và sử dụng vốn phải cho phép cơ sở khai thác tốt các cơ hội

kinh doanh trên thị trường.

5. Vốn phải được bảo toàn và phát triển trong quá trình sản xuất kinh doanh của

doanh nghiệp.

2.5. Cơ sở hạ tầng của công nghiệp nông thôn

Đánh giá một cách khái quát, hệ thống cơ sở hạ tầng ở nông thôn nước ta còn

kém phát triển, không đồng bộ, không thích hợp với những thiết bị và công nghệ

hiện đại, mặc dù đã có những đầu tư và cải thiện đáng kể trong thời gian qua.

Tình trạng kém phát triển, không đồng bộ của hệ thống cơ sở hạ tầng không

những trực tiếp tác động bất lợi cho công nghiệp nông thôn trong giai đoạn hiện

nay mà cả trong thời gian tới. Đồng thời, nó cũng tác động xấu tới đời sống của

dân cư nông thôn, qua đó ảnh hưởng tiêu cực tới nguồn lực lao động cho công

nghiệp nông thôn sau này.

Qua phân tích thực trạng các yếu tố cấu thành cơ sở hạ tầng nông thôn, có thể

thấy một số đặc trưng cơ bản sau đây:

Hệ thống giao thông vận tải đang được cải thiện mạnh mẽ nhưng còn lạc

hậu, chắp vá và chư đồng bộ:

+ Hệ thống đường sá vừa ít về số lượng, vừa có các thông số kỹ thuật thấp

+ Hệ thống phương tiện vận tải ở nông thôn có năng lực thấp.

+ Hệ thống kho tàng, bến bãi chưa được thiết kế và xây dựng một cách chủ

động, theo quy hoạch thống nhất.



Hệ thống phục vụ cung cấp các dịch vụ cho sản xuất và tiêu dùng ở nông thôn

cũng còn kém phát triển

+ Giá điện quá cao so với khả năng thanh toán của nông dân, hạn chế việc

dùng điện của nông dân.

+ Hệ thống phụ tải chưa được thiết kế thích hợp: Những thiết bị sử dụng điện

có nhiều nguồn gốc, tính năng khác nhau, hệ thống trạm biến áp cũng đã chưa

đủ đáp ứng yêu cầu sử dụng.

+ Hệ thống chợ nông thôn còn phát triển tự phát, chưa đáp ứng nhu cầu tiêu

thụ, phân phối nông sản hàng hoá và sản phẩm công nghiệp nông thôn.

Hệ thống cấp thoát nước hầu như chưa được xây dựng. Nhiều vùng vẫn còn sử

dụng nước tự nhiên (nước ao hồ, sông suối,…) cho mục đích sinh hoạt và sản

xuất.

Hệ thống thông tin liên lạc chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế- xã

hội. Điện thoại về cơ bản đã phủ kín được vùng nông thôn ở đồng bằng nhưng

chưa đảm bảo phủ kín hết được khu vực nông thôn trung du và miền núi.

2.6. Thị trường tiến bộ kỹ thuật và công nghệ của công nghiệp nông thôn

Có thể nhận xét ở nước ta mới hình thành thị trường công nghệ và tiến bộ kỹ

thuật. Nhu cầu về tiến bộ khoa học – công nghệ của công nghiệp nông thôn

(cũng như của toàn nền kinh tế quốc dân nói chung) là rất lớn và đa dạng mà

hiện nay thị trường công nghệ và kỹ thuật chưa đáp ứng một cách thích hợp.

Trong toàn quốc, số lượng các cơ sở làm công tác nghiên cứu, triển khai tiến bộ

khoa học- công nghệ phục vụ nông thôn đã bắt đầu hình thành và phát triển.

Nước ta cũng đã có những cơ sở làm công tác nghiên cứu, nhập nội và thích

ứng hoá những công nghệ nhập nội.

2.7. Sự phát triển không đồng đều giữa công nghiệp nông thôn và kinh tế

nông thôn

Cũng như nền kinh tế nói chung, công nghiệp nông thôn nước ta phát triển

không đồng đều, thậm chí còn có sự khác biệt khá lớn giữa các vùng, các khu

vực.

Trong khi các vùng có trình độ phát triển khác nhau thì bản thân mỗi vùng cũng

có sự phát triển không đồng đều về cơ cấu kinh tế, cơ cấu ngành nghề CNNT.

Sự khác biệt về quy mô và trình độ phát triển giữa các vùng khá lớn. Nếu so

sánh các tỉnh có dân số và diện tích tương đương, sự chênh lệch về trình độ

phát triển có thể lên tới 2-3 lần.

Công nghiệp nông thôn sẽ tác động đối với tình trạng nghèo đói và phân hoá xã

hội ở nông thôn. Trước hết, do thu nhập bình quân trong công nghiệp nông thôn

cao hơn nhiều so với thu nhập bình quân trong nông nghiệp nên sự phân hoá

tất yếu sẽ lớn hơn. Những hộ kinh doanh ngành nghề thủ công nghiệp và dịch

vụ sẽ có thu nhập cao hơn,có khả năng tích luỹ cao hơn, có mức sống cao hơn.



2.8. Yếu tố văn hoá, truyền thống và tác động của nó tới sự phát triển của

công nghiệp nông thôn

Trong hầu hết các làng nghề thủ công lâu đời, nổi tiếng ở nước ta đều có quy

chế, hoặc thành văn bản riêng hoặc thể hiện trong một số điều khoản của

hương ước. Thậm chí mỗi phường nghề trong cùng một nghề ở cùng một làng

cũng có quy chế riêng, luật lệ riêng (các “luật nghề” hoặc các quy chế nghề

nghiệp, thường do các thợ cả, các thầy dạy nghề thuộc các thế hệ trước truyền

lại cho các thế hệ sau) cho các thợ thủ công đối với một số nghề nhất định, đặc

biệt là những nghề truyền thống được truyền lại từ nhiều thế hệ. Trong số các

quy định loại này, những quy định có tính tập quán quan trọng nhất là sự truyền

các bí quyết nghề nghiệp chủ chốt cho những đối tượng nhất định và những

quy định có liên quan tới đạo đức nghề nghiệp ở phần lớn các làng nghề truyền

thống, nhất là ở nông thôn Bắc bộ.

Quan hệ họ hàng, gia tộc cũng là một đặc điểm có ảnh hưởng nhất định tới sự

phát triển của các làng nghề nông thôn.

Việc truyền nghề giữa những cá nhân trong cùng gia đình, dòng tộc cũng rộng

rãi, chu đáo hơn so với người ngoài gia đình, dòng tộc. Quan điểm “truyền nghề

cho con quan trọng hơn cấp tiền cho con” của các thợ thủ công có một vai trò

thực sự tích cực trong việc phát triển công nghiệp nông thôn.

Vai trò của các quan hệ xã hội trong các cộng đồng làng- xã, các tổ chức chính

quyền-đoàn thể xã hội ở cơ sở cũng có tác động rất to lớn trong môi trường thể

chế cho phát triển công nghiệp và dịch vụ nông thôn. Thiết chế xã hội nông thôn

Việt Nam trong lịch sử cũng như ngày nay cho thấy các quan hệ xã hội trong

cộng đồng làng-xã cũng như bộ máy chính quyền các thôn-xã có vai trò rất

quan trọng đối với sự phát triển kinh tế- xã hội nói chung, đối với sự phát triển

công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn nói riêng.

Tập quán, thói quen trong sản xuất - kinh doanh của mỗi vùng có ảnh hưởng to

lớn tới sự hình thành và phát triển của công nghiệp nông thôn. Nơi nào có

truyền thống sản xuất tiểu thủ công nghiệp, không những việc du nhập nghề

mới dễ dàng hơn, mà những tính toán về đầu tư, khả năng nắm bắt cơ hội kinh

doanh, sự nhạy cảm đối với sự biến động của thị trường thường cũng cao hơn.

Vì vậy, sự phát triển của công nghiệp nông thôn ở những vùng này thường ít

gặp rủi ro hơn các vùng khác.

Ngoài các yếu tố nói trên, nhiều vấn đề xã hội khác cũng tác động mạnh mẽ tới

sự hình thành và phát triển của công nghiệp nông thôn, đặc biệt là:

 Trình độ văn hoá, giáo dục ở các địa phương;

 Sự phân tầng xã hội ở mỗi vùng;

 Các tệ nạn xã hội ở nông thôn.

Câu hỏi thảo luận

1. Hãy chọn một huyện nông thôn mà sinh viên hiểu biết; thảo luận và tìm các

điều kiện, nhân tố tác động tích cực và tiêu cực đến sự phát triển của công

nghiệp nông thôn ở địa phương đó.



2. Giả sử anh chị sinh viên dự định đầu tư (làm chủ) một cơ sở sản xuất công

nghiệp (một nghề cụ thể nào đó) ở nông thôn; thảo luận và tìm hiểu các yếu tố

cần chú ý để có thể phát triển cơ sở, đạt hiệu quả khi sản xuất. Thảo luận nhóm

tìm hiểu xem đó là những vấn đề gì?



Chương 4: Quản lý nhà nước đối với phát triển công nghiệp

nông thôn

1.Vai trò nhà nước trong phát triển công nghiệp nông thôn

Sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp nông thôn là kết quả của sự vận động

có tính hai mặt: Sự vận động phát triển tự thân và sự vận động phát triển nhờ

các tác động thuận lợi từ phía Nhà nước. Bản thân công nghiệp nông thôn có

thể tự tiến hoá theo những xu thế khách quan, tự nó không thể cưỡng lại được

nhưng Nhà nước với vai trò là người xây dựng và vận hành thể chế có thể thúc

đẩy các ngành công nghiệp nông thôn phát triển nhanh và mạnh mẽ hơn.

Trong giai đoạn phát triển hiện nay của các ngành công nghiệp nông thôn Việt

Nam, vai trò của Nhà nước thể hiện trên một số mặt chủ yếu sau đây:

1.1. Quy hoạch định hướng phát triển công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp

nông thôn

Một mục tiêu quan trọng của quy hoạch định hướng phát triển công nghiệp và

tiểu thủ công nghiệp nông thôn là nhằm hạn chế sự tự phát trong xây dựng và

phát triển gây lãng phí vốn đầu tư, gây hậu quả về môi trường hoặc những bức

xúc khác về kinh tế và xã hội. Dựa trên việc phân tích những điều kiện cụ thể

của từng vùng nông thôn, từng địa phương và dự báo các nhu cầu thị trường;

quy hoạch định hướng chỉ vạch ra những nét lớn trong việc hình thành các

ngành hàng cũng như các cụm công nghiệp nông thôn.

Nội dung chủ yếu của quy hoạch định hướng là:

- Định hướng sự hình thành và phát triển các ngành hàng công nghiệp, tiểu thủ

công nghiệp nông thôn có lợi thế và tiềm năng phát triển với khối lượng hàng

hoá lớn, nhất là hàng hoá xuất khẩu. Dự kiến quy mô sản xuất của ngành hàng,

mô hình tổ chức sản xuất của ngành hàng, những vùng sản xuất tập trung chủ

yếu.

- Định hướng phát triển các cụm công nghiệp nông thôn. Ở đây những nội dung

quan trọng là định hướng chuyên môn hoá của cụm kết hợp với đa dạng hoá,

địa điểm bố trí cụm và các điều kiện về cơ sở hạ tầng để hình thành cụm; dự

kiến các doanh nghiệp đầu đàn hoặc nòng cốt trong quá trình phát triển tương

lai.

- Định hướng phát triển kỹ thuật và công nghệ của ngành hàng và của cụm

công nghiệp nông thôn. Tương ứng với tính đa dạng về quy mô và hình thức tổ

chức sản xuất, trình độ kỹ thuật và công nghệ của các ngành công nghiệp, tiểu

thủ công nghiệp nông thôn sẽ rất đa dạng với sự kết hợp chặt chẽ giữa thủ



công truyền thống với hiện đại, đáp ứng được nhu cầu của thị trường hiện nay

là các sản phẩm tiểu thủ công nghiệp nhưng phải hiện đại, các sản phẩm thủ

công nghiệp nhưng phải tinh xảo. Chỉ có như vậy, sự phát triển công nghiệp tiểu

thủ công nghiệp nông thôn mới vững chắc trên cơ sở thoả mãn những đòi hỏi

ngày càng cao của nhu cầu thị trường, kể cả thị trường trong nước và quốc tế.

Trên cơ sở quy hoạch định hướng, Nhà nước cần xây dựng và đầu tư thực hiện

một số dự án trọng điểm phát triển công nghiệp nông thôn. Trong quá trình thực

hiện dự án, cần huy động sức lực của các ngành, các cấp có liên quan và sự

tham gia tích cực của người dân, đặc biệt là các đối tượng thụ hưởng kết quả

của dự án.

1.2. Xây dựng và thực hiện hệ thống chính sách phù hợp khuyến khích

phát triển công nghiệp nông thôn

Việc phân tích các yếu tố môi trường thể chế phát triển nông nghiệp, nông thôn

nước ta hiện nay cho thấy còn ít có chủ trương và những chính sách cụ thể để

thúc đẩy phát triển công nghiệp nông thôn. Nội lực tự thân để phát triển công

nghiệp nông thôn nước ta còn rất hạn chế, tự nó không thể phát triển tốt trong

điều kiện cạnh tranh, do vậy Nhà nước cần xây dựng và thực hiện hệ thống

chính sách khuyến khích phát triển lĩnh vực này. Hệ thống chính sách nói trên

cần hướng vào việc giải quyết những vướng mắc chủ yếu hiện nay là:

- Chính sách về việc cấp đất, cho thuê đất làm địa điểm sản xuất, địa điểm làm

cửa hàng bán và giới thiệu sản phẩm…

- Chính sách hỗ trợ về tài chính cho phát triển công nghiệp nông thôn như: Cho

vay ưu đãi và dài hạn; miễn, giảm thuế có thời hạn…

- Khuyến khích sự phát triển và trợ cấp cho các hoạt động của các tổ chức tư

vấn, đào tạo chuyên gia hoặc thợ lành nghề cho công nghiệp nông thôn.

Xây dựng và thực hiện các chích sách khuyến khích tinh thần khác như công

nhận và tôn vinh các nghệ nhân; khuyến khích bảo tồn và phát huy bản sắc văn

hoá dân tộc của các sản phẩm do công nghiệp nông thôn sản xuất…

1.3. Nhà nước khuyến khích đầu tư phát triển các khu công nghiệp vừa và

nhỏ, các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong phát triển công nghiệp nông

thôn.

Hiện nay trong nông thôn, các cơ sở sản xuất kinh doanh của công nghiệp nông

thôn chủ yếu tồn tại dưới hình thức kinh tế gia đình, sản xuất kinh doanh diễn ra

ngay tại nơi ở của các hộ gia đình, tại đó vừa là nơi ở, vừa là nơi sản xuất nên

nhà xưởng quá chật hẹp, môi trường bị ô nhiễm, cơ sở hạ tầng yếu kém và

không phù hợp, không có khả năng mở rộng sản xuất kinh doanh. Trong tương

lai phải tách khu vực sản xuất ra khỏi khu vực nhà ở bằng cách phát triển các

khu công nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn. Đây thực chất là các cụm công

nghiệp nông thôn được Nhà nước chủ động xây dựng xuất phát từ những nhu

cầu tất yếu nảy sinh trong quá trình phát triển nông thôn mới ngày nay. Trong

quá trình xây dựng và phát triển các cụm công nghiệp mới này, vai trò “bà đỡ”

của Nhà nước là rất quan trọng, đặc biệt là các cấp chính quyền địa phương.



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (174 trang)

×