Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.35 MB, 228 trang )
bộ môn khoa học khác.
2.2.2 Vai trò
Toán học có vai trò lớn trong đời sống, trong khoa học và trong công nghệ
thhiện đại, kiến thức toán học là công cụ để học sinh học học tốt các môn khoa học
khác, giúp học sinh hoạt động có hiệu quả trong mọi lĩnh vực. Các-Mác nói “Một
khoa học chỉ thực sự phát triển nếu nó có thể sử dụng được phương pháp của toán
học” [5,tr.5].
Môn toán có khả năng to lớn giúp học sinh phát triển các năng lực trí tuệ
như: phân tích, tồng hợp, so sánh, đặc biệt hóa, khái quát hóa,…Rèn luyện những
phẩm chất, đức tính của người lao động mới như: tính cẩn thận, chính xác, tính kỉ
luật, khoa học, sáng tạo…
Ở trường phổ thông, dạy toán là dạy hoạt động toán học. Đối với học sinh
có
thể xem việc giải toán là hình thức chủ yếu của hoạt động toán học.
Trong dạy học toán, mỗi bài tập toán học được sử dụng với những dụng ý
khác nhau, có thể dùng để tạo tiền đề xuất phát, để gợi động cơ, để làm việc với nội
dung mới, để củng cố hoặc kiểm tra,...
Ở thời điểm cụ thể nào đó mỗi bài tập chứa đựng tường minh hay ẩn tàng
những chức năng khác nhau (chức năng dạy học, chức năng giáo dục, chức năng
phát triển, chức năng kiểm tra), những chức năng này đều hướng tới việc thực hiện
các mục đích dạy học.
Tuy nhiên trên thực tế các chức năng này không bộc lộ một cách riêng lẻ và
tách rời nhau, khi nói đến chức năng này hay chức năng khác của một bài tập cụ thể
tức là có ý nói chức năng ấy được thực hiện một cách tường minh, công khai.
Bài tập toán học có vai trò quan trọng trong môn toán. Điều căn bản là bài
tập có vai trò mang hoạt động của học sinh. Thông qua giải bài tập, học sinh phải
thực hiện những hoạt động nhất định bao gồm cả nhận dạng và thể hiện định nghĩa,
định lý, quy tắc hay phương pháp, những hoạt động toán học phức hợp, những hoạt
động trí tuệ phổ biến trong toán học, những hoạt động trí tuệ chung và những hoạt
động ngôn ngữ. Hoạt động của học sinh liên hệ mật thiết với mục tiêu, nội dung và
phương pháp dạy học, vì vậy vai trò của bài tập toán học được thể hiện cả trên 3
bình diện này.
Trên bình diện mục tiêu dạy học, bài tập toán học ở trường phổ thông là giá
mang những hoạt động mà việc thực hiện các hoạt động đó thể hiện mức độ đạt
mục tiêu. Mặt khác, những bài tập cũng thể hiện những chức năng khác nhau
hướng đến việc thực hiện các mục tiêu dạy học môn toán, cụ thể là:
+ Hình thành, củng cố tri thức, kỹ năng, kỹ xảo ở những khâu khác nhau của quá
trình dạy học, kể cả kỹ năng ứng dụng toán học vào thực tiễn.
+ Phát triển năng lực trí tuệ: rèn luyện những hoạt động tư duy hình thành những
phẩm chất trí tuệ.
+ Bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng, hình thành những phẩm chất đạo
đức của người lao động.
2.2.3 Ý nghĩa
Ở trường trung học phổ thông giải bài tập toán là hình thức tốt nhất để củng
cố, hệ thống hóa kiến thức và rèn luyện kỹ năng, là một hình thức vận dụng kiến
thức đã học vào những vấn đề cụ thể, vào thực tế, vào những vấn đề mới, là hình
thức tốt nhất để giáo viên kiểm tra về năng lực, về mức độ tiếp thu và khả năng vận
dụng kiến thức đã học của học sinh.
Trên bình diện nội dung dạy học, những bài tập toán học là giá mang hoạt
động liên hệ với những nội dung nhất định, một phương tiện cài đặt nội dung để
hoàn chỉnh hay bổ sung cho những tri thức nào đó đã được trình bày trong phần lý
thuyết.
Trên bình diện phương pháp dạy học, bài tập toán học là giá mang hoạt động
để người học kiến tạo những tri thức nhất định và trên cơ sở đó thực hiện các mục
tiêu dạy học khác. Khai thác tốt những bài tập như vậy sẽ góp phần tổ chức cho học
sinh học tập trong hoạt động và bằng hoạt động tự giác, tích cực, chủ động và sáng
tạo được thực hiện độc lập hoặc trong giao lưu.
Trong thực tiễn dạy học, bài tập được sử dụng với những dụng ý khác nhau
về phương pháp dạy học: Đảm bảo trình độ xuất phát, gợi động cơ, làm việc với nội
dung mới, củng cố hoặc kiểm tra…Đặc biệt là về mặt kiểm tra, bài tập là phương
tiện để đánh giá mức độ, kết quả dạy và học, khả năng làm việc độc lập và trình độ
SVTH: Nguyễn Thị Hương 1100027
21
Lớp: SP Toán học K36
phát triển của học sinh,...
Một bài tập cụ thể có thể nhằm vào một hay nhiều dụng ý trên
2.3 Vị trí và chức năng của bài tập toán học
2.3.1 Vị trí của bài tập toán
Qúa trình giải bài tập toán giúp học sinh vận dụng thành thạo kiến thức đã
học và phát huy tính tích cực, sáng tạo. Do vậy, dạy học giải các bài tập toán có tầm
quan trọng đặc biệt trong dạy học toán.
“Ở trường phổ thông, dạy toán là dạy hoạt động toán. Đối với học sinh có thể
xem giải toán là hình thức chủ yếu của hoạt động toán học. Các bài tập toán ở
trường phổ thông là một phương tiện rất có hiệu quả và không thể thay thế được
trong việc giúp học sinh nắm vững tri thức, phát huy tư duy, hình thành kĩ năng kĩ
xảo, ứng dụng toán học vào thực tiễn. Hoạt động giải bài tập toán là điều kiện để
thực hiện tốt các nhiệm vụ dạy học toán ở trường phổ thông . Vì vậy, tổ chức có
hiệu quả việc dạy giải bài tập toán học có vai trò quyết định đối với chất lượng dạy
toán” [8,tr.206].
Trong thực tiễn dạy học bài tập toán học được sử dụng với những dụng ý
khác nhau. Mỗi bài tập có thể dùng để tạo tiền đề xuất phát để tạo động cơ học tập,
để làm việc với nội dung mới, để củng cố để kiểm tra kiến thức,…Tất nhiên, việc
dạy để giải một bài tập cụ thể thường không chỉ nhằm vào một ý đơn thuần nào đó
mà thường bao hàm những ý đồ nhiều mặt như đã nêu. Giải bài tập toán là hình
thức chủ yếu tập dược cho học sinh vận dụng kiến thức và kỹ năng toán học vào đời
sống và lao động sản xuất. Đồng thời việc giải bài tập giúp giáo viên kiểm tra học
sinh và học sinh tự kiểm tra mình về mức độ nắm vững kiến thức đã học, về khả
năng vận dụng chúng vào giải quyết các vấn đề cụ thể. Giải bài tập toán có tác dụng
giáo dục cho học sinh đức tính của người lao động mới, bồi dưỡng các phương pháp
suy luận, phương pháp suy nghĩ tìm tòi sáng tạo,…
2.3.2 Chức năng của bài tập toán
Dạy học toán là dạng hoạt động toán học, đối với học sinh có thể xem việc
giải toán là hình thức chủ yếu của hoạt động toán học. Các bài toán ở trường phổ
thông là một phương tiện rất có hiệu quả và không thể thay thế được trong việc giúp
học sinh nắm vững tri thức, phát triển năng lực tư duy, hình thành kĩ năng, kĩ xảo,
ứng dụng toán học vào thực tiễn. Hoạt động giải bài tập toán là điều kiện để thực
hiện tốt các mục đích dạy học ở trường phổ thông. Vì vậy tổ chức có hiệu quả việc
dạy học giải bài tập toán có vai trò quyết định đối với chất lượng dạy học toán.
Trong thực tiễn dạy học, bài tập toán được sử dụng với những dụng ý khác
nhau. Một bài tập có thể dùng để tạo tiền đề xuất phát, để gợi động cơ, để làm với
nội dung mới, để củng cố ôn tập hoặc kiểm tra,… Tất nhiên, việc giải một bài tập cụ
thể thường không chỉ nhằm vào một nội dụng ý đơn nhất nào đó mà thường bao
hàm những ý đồ nhiều mặt như đã nêu [8,tr.206].
Mỗi bài tập toán cụ thể được đặt ra ở thời điểm nào đó của quá trình dạy học
đều chứa đựng một cách tường minh hay không tường minh những chức năng khác
nhau. Những chức năng này đều hướng tới việc thực hiện các mục đích dạy học.
Trong môn toán, các bài tập mang các chức năng sau (Vũ Dương Thụy 1980):
a) Chức năng dạy học
Bài tập toán nhằm hình thành, củng cố cho học sinh những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo
ở các giai đoạn khác nhau của quá trình dạy học.
b) Chức năng giáo dục
Bài toán nhằm hình thành cho học sinh thế giới quan duy vật biện chứng, hứng thú
học tập, niềm tin và phẩm chất đạo đức của người lao động mới.
c) Chức năng phát triển
Bài tập toán nhằm phát triển năng lực tư duy của học sinh, đặc biệt rèn luyện
những
thao tác trí tuệ hình thành những phẩm chất của tư duy khoa học.
d) Chức năng kiểm tra
Bài tập toán còn nhằm đánh giá mức độ về kết quả dạy và học, đánh giá khả năng
độc lập học toán và trình độ phát triển của học sinh.
Trên thực tế, các chức năng không bộc lộ một cách riêng lẻ và tách rời nhau.
Khi nói đến chức năng này hay chức năng khác của một bài tập cụ thể tức là hàm ý
nói việc thực hiện các chức năng ấy được tiến hành một cách tường minh và công
khai. Hiệu quả của việc dạy toán ở trường phổ thông phải phụ thuộc vào việc khai
thác và thực hiện một cách đầy đủ các chức năng có thể có của một bài tập mà
người viết sách giáo khoa đã có dụng ý đưa vào chương trình. Người giáo viên phải
có nhiệm vụ khám phá và thực hiện dụng ý của tác giả bằng năng lực sư phạm và
trình độ nghệ thuật dạy học sư phạm của mình.
Ta hãy minh họa điều vừa trình bày bằng một ví dụ. Ở chương 1 sách Hình
học 10 (Văn Như Cương 1990) có bài tập sau "Cho tam giác ABC có trọng tâm G.
Hãy dựng vectơ tổng GA + GB . Từ đó suy ra GA + GB + GC = 0 ".
Bài toán này trước hết nhằm củng cố kĩ năng dựng vectơ tổng theo theo quy
tắc hình bình hành, củng cố các tri thức về tính chất trung tuyến tam giác, tính chất
tâm của hình bình hành, tính chất trung điểm của đoạn thẳng. Điều đó thể hiện
tường minh chức năng dạy học của bài tập này.
Khi dạy giải bài tập này, người giáo viên hướng dẫn học sinh liên
tưởng đến
kết quả một bài tập đã giải trước đó về tính chất trung điểm của đoạn thẳng (nếu O
là trung điểm của đoạn thẳng AB thì OA + OB = 0 ), biết thay thế tổng GA + GB ở
đẳng thức phải chứng minh là GD để đưa về đẳng thức mới phải chứng minh là
GD + GC = 0 , tức là biết vận dụng kĩ thuật chứng minh, đồng thời thấy được sự
thống nhất giữa tính chất trung điểm đoạn thẳng với tính chất trọng tâm tam
giác.
Như vậy là khai thác được chức năng giáo dục của bài toán trên.
Mặt khác từ sự thống nhất nêu trên giữa tính chất của một điểm và trung
điểm của đoạn thẳng (hai điểm) với một điểm là trọng tâm tam giác (ba điểm) gợi
lên một ý tưởng khái quát đối với một tứ diện ABCD (bốn điểm), một ngũ giác hay
một đa giác nói chung có hay không một điểm O sao cho: OA + OB + OC + OD = 0
Rõ ràng nếu ABCD là hình bình hành thì O chính là tâm của nó. Như thế chức
năng phát triển của bài toán đã cho được thể hiện rõ ràng, luyện tập cho học sinh kĩ
năng vận dụng tương tự hóa, khái quát hóa, phát triển ở học sinh tư duy biện chứng,
khả năng dự đoán khoa học…
Ví dụ trên càng làm sáng tỏ thêm rằng các chức năng của mỗi bài tập toán
phụ thuộc nội dung cũng như vào phương pháp khai thác hóa lời giải của nó. Điều
đó định hướng việc lựa chọn bài toán của giáo viên, tránh tình trạng ra bài toán cho
học sinh một cách tùy hứng hoặc chỉ chú trọng đến số lượng thuần túy.
2.4 Cách tiếp cận một bài toán
Thông thường người giải toán hay có thói quen bắt tay vào giải ngay khi
đứng trước một bài toán vì họ dựa vào một cách thức đơn giản. Chúng ta có nhiều
phương pháp tiếp cận bài toán.
2.4.1 Nhận biết câu hỏi hay bài toán
• Bạn có hiểu ngôn từ dùng diễn đạt bài toán không? (có cái bẫy nào không?).
• Bài toán là một dạng đã biết?
• Cái gì đã cho?
2.4.2 Tìm những ý tưởng liên quan
• Bài toán thuộc dạng nào?
• Bài toán nào tương tự như bài toán nào?
2.4.3 Giới hạn bài toán
• Có thể đơn giản hóa bài toán bởi thực hiện một số phép toán không?
• Có chi tiết nào được cho là thừa không?
• Bài toán có thể biến đổi thành một phương trình hay mô tả hình học không?
2.4.4 Chiến lược giải
• Dữ liệu bài toán có thể tổ chức thành một mô hình không?
• Bài toán này khác với các bài toán đã giải trước đây ở những điểm nào?
• Có thể bổ xung những điều kiện nào để làm bài toán đơn giản hơn?
2.4.5 Dùng các tài liệu tham khảo
• Có bài toán nào tương tự trong sách giáo khoa không?
• Những công thức hay định lí nào sẽ được áp dụng vào bài toán loại này?
• Sau khi giải một bài toán, nhiều giáo viên và học sinh phát triển nó đến một
mức cao hơn. Như vậy, một bài toán sau khi được giải sẽ có giá trị đối với
người giải hơn. Sau đây là một số câu hỏi có thể áp dụng cho việc phát triển
một bài toán.
• Kết quả này có thể áp dụng vào một bài toán tương tự?
• Trong các điều kiện nào thì bài toán này giải được? Không giải được?
vô nghĩa?
• Có thể tổng kết hóa bài toán này không?
• Những lập luận nào đã được dùng?
2.5 Giải bài toán là gì?
Giải bài toán là quá trình tìm cách khắc phục sự không phù hợp hay mâu
thuẫn giữa các điều kiện và các yêu cầu của bài toán biến đổi chúng để cuối cùng đi
đến sự thống nhất. Giải toán là việc thực hiện một hệ thống hành động phức tạp, vì
bài toán là sự kết hợp đa dạng nhiều khái niệm, nhiều quan hệ toán học, cần có sự
chọn lọc sáng tạo các phương pháp giải quyết vấn đề hay nói một cách khác có thể
hiểu giải bài tập toán tức là tìm kiếm một cách có ý thức phương tiện thích hợp để
đạt tới một mục đích của bài toán. Đó là quá trình tìm tòi sáng tạo huy động kiến
thức, kĩ năng, thủ thuật và các phẩm chất của trí tuệ để giải quyết bài toán đã cho.
Ngoài ra việc giải bài toán còn dựa trên mối quan hệ chủ yếu giữa người giải
và cấu trúc của bài toán trong đó phương tiện của người giải là chủ yếu.
Theo Howard Gardner, G. Polya, … thì tiến trình lao động của học sinh khi giải một
bài toán có thể theo các hướng sau:
- Hướng tổng quát hóa: Hướng này dựa trên quan điểm tổng hợp, chuyển từ
một tập hợp đối tượng trong bài toán sang một tập hợp khác lớn hơn và chứa đựng
tập hợp ban đầu.
- Hướng cụ thể hóa: Hướng này dựa trên quan điểm phân tích, chuyển bài toán
ban đầu thành những bài toán thành phần có quan hệ logic với nhau. Chuyển tập
hợp các đối tượng trong bài toán ban đầu sang một tập hợp con của nó, rồi từ tập
con đó tìm ra lời giải của bài toán hoặc một tình huống hữu ích cho việc giải bài
toán đã cho.
- Hướng chuyển bài toán về bài toán trung gian: Khi gặp bài toán phức tạp,
học sinh có thể đi giải các bài toán trung gian để đạt đến từng điểm một, rồi giải bài
toán đã cho hoặc có thể giả định điều đối lập với bài toán đang tìm cách giải và xác
định hệ quả của điều khẳng định kia hay đưa về bài toán liên quan dễ hơn, một bài
toán tương tự hoặc một phần bài toán, từ đó rút ra những điều hữu ích để giải bài
toán đã cho.
Theo G. Polya, việc giải toán xem như thực hiện một hệ thống hành động: hiểu
rõ bài toán, xây dựng một chương trình giải, thực hiện chương trình khảo sát lời giải
đã tìm được. Theo ông điều quan trọng trong quá trình giải bài toán là qua đó học
sinh nảy sinh lòng say mê, khát vọng giải toán, thu nhận và hình thành tri thức mới,
đặc biệt là tiếp cận, phát hiện và sáng tạo.
2.6 Yêu cầu đối với lời giải bài toán
Để phát huy tác dụng của bài tập toán học, trước hết cần nắm vững các yêu
cầu của lời giải. Nói một cách vắn tắt, lời giải phải đúng và tốt. Nói như vậy là bao
hàm đủ các ý cần thiết, nhưng quá cô đọng. Để thuận tiện cho việc thực hiện các
yêu cầu của lời giải trong quá trình dạy học và đánh giá học sinh, có thể cụ thể hoá
các yêu cầu, đương nhiên phải chấp nhận những yếu tố trùng lặp nhất định trong các
yêu cầu chi tiết.
2.6.1 Lời giải không có sai lầm
Kết quả đúng, kể cả ở các bước chung gian. Kết quả cuối cùng phải là một
đáp số đúng, một biểu thức, một hàm số, một hình vẽ,... thoã mãn các yêu cầu đề ra.
Kết quả các bước chung gian cũng phải đúng. Như vậy, lời giải không thể chứa
những sai lầm tính toán, vẽ hình, biến đổi biểu thức,…
Yêu cầu này có ý nghĩa là lời giải không có sai sót về kiến thức toán học, về
phương pháp suy luận, về kĩ năng tính toán, về kí hiệu, hình vẽ, kể cả không có sai
lầm về ngôn ngữ diễn đạt. Giáo viên cần phải rèn luyện cho học sinh thói quen xem
xét kiểm tra lại kết quả giải bài toán và lời giải của mình, qua đó giáo dục ý thức
trách nhiệm đối với công việc, đồng thời phát triển óc phê phán. Cần giúp học sinh
biết kiểm tra kết quả bằng cách đối chiếu bài làm với từng câu hỏi của đề bài, xét
tính hợp lí của đáp số với đầu bài hoặc bằng cách tìm một phương pháp giải khác
nếu có thể, rồi so sách các kết quả giải được theo các phương pháp khác nhau. Cũng
cần yêu cầu học sinh kiểm tra lại bằng hình thức vận dụng linh hoạt nhưng kiến
thức đã học chứ không chỉ đơn thuần bằng cách so sánh với đáp số cho sẵn như
nhiều học sinh vẫn làm.
Chẳng hạn khi giải phương trình x2 −11x − 60m2 = 0 ( m là tham số) nếu học
sinh tìm được hai nghiệm là 4m và 15m thì bằng cách áp dụng định lí Vi-et, phải
2
thấy ngay là sai, vì ở phương trình này các hệ số a = 1 và c = - 60m trái dấu nên hai
nghiệm phải trái dấu.
Chỉ ra những sai lầm trong lời giải của học sinh là cần thiết , song điều quan
trọng hơn là phân tích được nguyên nhân chính dẫn đến sai sót đó, bởi vì "con
người phải biết học ở những sai lầm và những thiếu sót của mình" (Pôlya 1975).
Nguyên nhân chủ yếu về mặt kiến thức dẫn đến sai lầm là học sinh nắm không vững
chắc các định nghĩa, định lí, quy tắc… Vận dụng chúng một cách máy móc, không
chú ý đến điều kiện ấy hạn chế phạm vi tắc dụng của chúng.
tan 3x
Ví dụ, với bài toán "Giải phương trình
là có sai lầm:
tan 3x
sin x
= 0 ⇒ tan 3x = 0 ⇒ x =
sin x
k
= 0 " thì lời giải sau đây của học sinh
3
Ở đây học sinh đã quên đặt điệu kiện sin x ≠ 0
cho phương trình nên không loại
được những giá trị không thích hợp khi k = 3.
2
x < 3 thì ngay một số học sinh lớp 10
Một ví dụ khác, khi giải bất phương trình
trung bình thường đi đến kết quả x < ± 3
. Họ đã áp dụng "nguyên văn" cách giải
phương trình bậc hai vào giải bất phương trình bậc hai nên dẫn đến sai lầm.
Những sai lầm về mặt suy luận học sinh thường khó thấy hơn. Chẳng hạn trong Đại
số lớp 10 (Ngô Thúc Lanh…1990) có bài toán "Chứng minh rằng với mỗi số thực
2
2
2
không âm bất kì a, b, c ta có bất dẳng thức a + b + c ≥ ab + bc + ca" mà có học
sinh đã giải như sau:
2
2
2
2
"Từ a + b + c ≥ ab + bc + ca 2(a + b
2
2
2
2
+ c ) - 2(ab + bc + ca) ≥ 0
2
Hay (a-b) + (b-c) + (c-a) ≥ 0
Bất đẳng thức sau cùng này đúng, do bất đẳng thức phải chứng minh cũng đúng".
Lời giải này sai vì đã coi phép suy ngược tiến (phép phân tích đi xuống) là một
phép chứng minh.
Trong giải toán, học sinh còn có thể mắc sai lầm do hấp tấp, cẩu thả, sơ suất trong
tính toán, không ghi chép đúng và không xem xét kĩ đầu bài…
2.6.2 Lập luận phải có căn cứ chính xác
Lập luận chặt chẽ, đặc biệt là lời giải phải tuân thủ các yêu cầu sau:
+ Luận đề phải nhất quán, luận cứ phải đúng, luận chứng phải hợp logic.
Yêu cầu này đòi hỏi từng bước biến đổi trong lời giải phải có cơ sở lí luận, phải dựa
vào các định nghĩa, định lí, quy tắc, công thức…đã học, đặc biệt phải chú ý đảm
bảo thỏa mãn điều kiện nêu trong giả thiết của định lí. Chẳng hạn khi giải bất
phương trình sau trong đại số lớp 10 (Ngô Thúc Lanh 1990)
1
1
>
(x −1)(x − 2) (x +
2
3)
Một số học sinh mắc sai lầm khi lập luận rằng theo quy tắc so sánh hai phân số có
2
cùng tử số, từ bất phương trình đã cho suy ra (x-1)(x-2) < (x+3) . Nguyên nhân sai
lầm là do học sinh không biết rằng quy tắc so sánh hai phân số thực hiện với các
phân số mà tử số và mẫu số đều là số tự nhiên và mẫu số đương nhiên phải khác
không.
+ Một sai lầm loại khác là đánh tráo luận đề, tức thực chất đã thay đổi mục tiêu của
lời giải.
2
Ví dụ, với bài toán "Tìm các giá trị của m để phương trình sin x + msinx - m +1=0
có nghiệm", có học sinh giải như sau: Đặt t = sinx, bài toán đưa về tìm các giá trị
2
của m để phương trình t + mt - m + 1 = 0 có nghiệm. Đó là các giá trị của m làm
cho ∆ = m2 + 4m − 4 ≥ 0 ⇒ m ≤ −2 2
−2
hoặc m ≥ −2 + 22 .
Thật ra, bài toán tương đương với bài toán đã cho phải là:
Tìm các giá trị của m để phương trình t 2 + mt − m + 1 = 0 có ít nhất một nghiệm thỏa
mãn điều kiện −1 ≤ t ≤ 1. Học sinh trên đã phạm sai lầm đánh tráo luận đề khi không
nói gì đến điều kiện của t.
2.6.3 Lời giải phải đầy đủ
Yêu cầu này có nghĩa là lời giải không được bỏ sót một trường hợp, một khả
năng, một chi tiết cần thiết nào. Cụ thể là giải phương trình không được thiếu
nghiệm, phân chia trường hợp không được thiếu một khả năng nào...
Muốn vậy, cần chú ý tập cho học sinh trong quá trình giải toán phải luôn suy
xét và tự trả các câu hỏi như: Ta đang phải xem xét cái gì? Như vậy đã đủ chưa?
Còn trường hợp nào nữa không? Đã đủ các trường hợp đặc biệt chưa?
Học sinh thường bộc lộ thiếu sót là không xét được đầy đủ các trường hợp,
các khả năng xảy ra ở một tình huống, nhất là các bài toán có tham biến, những bài
toán đòi hỏi phải biện luận…