Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.89 MB, 116 trang )
Hội tụ tất cả những yếu tố trên là điều kiện tuyệt vời cho sự phát triển của văn
hoá, nghệ thuật Hy Lạp. Nghệ thuật Hy Lạp nhất là kiến trúc và điêu khắc đã đạt tới
đỉnh cao chỉ sau hơn 200 năm, từ thế kỷ VII đến V TCN.
2. Một số thành tựu nghệ thuật cơ bản
2.1. Nghệ thuật hội họa
Nghệ thuật hội hoạ Hy Lạp hầu như không còn giữ được tác phẩm nào,
các tác giả, tác phẩm danh tiếng của họ còn được lưu truyền trong sách, truyện
ta biết được tên tuổi: Apenlơ, Giơxít, Pôlinhơ… với đề tài chủ yếu là lịch sử và thần
thoại Hy Lạp. Các tác phẩm được vẽ với phong cách tả thực, sinh động.
Ngoài ra có một nguồn tài liệu khá phong phú cho nghệ thuật vẽ hình
mang tính đồ hoạ, đó là những hình vẽ trên những chiếc bình cổ Hy Lạp. Bình
cổ Hy Lạp có nhiều kiểu dáng đẹp. Điều đáng chú ý là các hình vẽ trang trí trên
đồ gốm cổ Hy Lạp có hai cách trang trí: Hình vẽ đen trên nền trắng sáng hoặc
hình vẽ màu đỏ trên nền gốm đen. Các hoạ sĩ trang trí lưu ý đặc biệt đến yếu tố
nét, mảng trong các hình vẽ. Đề tài thay đổi qua các thời kỳ: Thần thoại, duyên
dáng và đa tình, lịch sử.
Tính chất tôn giáo, thần thoại bộc lộ ở nội dung, đề tài. Nhưng qua các hình
tượng nhân vật các tác giả lại muốn ca ngợi vẻ đẹp của con người, một vẻ đẹp hoàn
thiện cả về ngoại hình và nội tâm. Các nghệ sĩ Hy Lạp đã bỏ được công thức chi phối
trong nghệ thuật tạo hình buổi ban đầu, những ước lệ tạo hình cơ sở để tiến tới một
nền nghệ thuật hiện thực giàu tính nhân văn. Các loại hình nghệ thuật tạo hình đều
phát triển và có thành tựu cao, để lại cho nhân loại nhiều tác phẩm vô giá. Đó là nền
móng, là cơ sở cho nghệ thuật tạo hình châu âu sau này.
1.2 Nghệ thuật điêu khắc và trang trí kiến trúc
Trong đời sống của người Hy Lạp thời cổ đại, tôn giáo đóng vai trò quan trọng.
Họ thờ rất nhiều vị thần. Thể loại kiến trúc phát triển là kiến trúc đền thờ gần như toàn
thể các công trình xây dựng có giá trị nghệ thuật, to đẹp nhất thuộc về tôn giáo. Kích
thước đền thờ vừa phải, không quá lớn đồ sộ. Nó cũng giống nghệ thuật kiến trúc Ai
Cập ở chỗ kiến thức kiến trúc chính là kiến thức cột. Kiến trúc Hy Lạp có 3 thức cột
chính:
Thức Đôríc, thức Iônic, và thức Corinthian
Sự khác nhau giữa các thức cột này được phân biệt bởi phần đầu cột và các khía
rãnh. Cột Đôríc có hai mươi khía rãnh khá rộng. Hai mươi bốn đôi khi là bốn tám khái
của cột Ioníc sâu hơn, khít hơn. Cột Đôríc ra đời sớm nhất và phát triển ở Pðloponnêse
và các khu dân cư ở miền Nam ý và đảo Sixin (Sicile). Phong cách Iôníc thanh mảnh
và duyên dáng hơn. Phần đầu cột được trang trí bằng hình guột cột Đôríc Iônic
11
Côranhtiêng trang trí. ở thời Hy Lạp hoá thức Cô ranh tiếng được sử dụng nhiều. Phần
đầu cột được trang trí bằng những hoạ tiết và cách điệu mềm mại và trang nhã.
- Đền thờ Pác tê non (Partenon) được khởi công trên đồi Acrôpôn (Acropolis)
thờ nữ thần Atêna (Athena): là đền thờ kết hợp hài hoà giữa sự khoẻ khoắn của thức
Đô níc và sự duyên dáng nhẹ nhàng của thức Iônic. Vẻ đẹp của Pác tê non thể hiện
trong sự cân đối, hài hoà về tỷ lệ giữa các bộ phận kiến trúc. Nó còn bộc lộ trong sự
đơn giản, trang nhã của khối kiến trúc chủ yếu dựa trên những đường thẳng với trang
trí bằng các tác phẩm điêu khắc và phù điêu dạng trụ ngang. Kiến trúc cân đối hài hoà
của Pác tê non được trang điểm thêm đẹp đẽ, lộng lẫy bằng các tác phẩm điêu khắc
của Phi đi át và các học trò của ông. Tác giả của Pác tê non là Ichtinốt và Can Li Crát.
- Ngoài Pác tê non, Hy Lạp còn rất nhiều đền thờ nổi tiếng: Đền thờ thần Dớt ở
Péc Gam Ô Lym Pia và đền thờ thần biển cả Pô Dây Đon (Poseidon) ở phía Nam
Aten,…
Đền Pác-Tê-Nong
Cho tới thế kỷ VI TCN, các đền thờ của Hy Lạp đều được làm bằng gỗ hoặc
gạch. Đến thế kỷ V, người Hy Lạp chuyển sang các kiến trúc đá cẩm thạch lộng lẫy và
sang trọng, với bốn mặt đền là các hàng cột đá. Kiến trúc tôn giáo là thể loại biểu hiện
tài năng của người Hy Lạp. Bên cạnh đó họ còn quy hoạch đô thị, xây dựng các nhà
hát, thành luỹ… vào thời kỳ các thế kỷ IV – II TCN. Từ thế kỷ IV trong kiến trúc Hy
Lạp còn phát triển loại kiến trúc lăng mộ, có những lăng lớn, đẹp đẽ được xếp vào một
trong 7 kỳ quan của thế giới cổ đại như lăng vua Mô xô lơ (Mausole) ở Halicácnat
(Halicrnasse)
12
Kiến trúc Hy Lạp nói chung là vẻ đẹp trang nhã, mực thước, trong sáng với kết
cấu kiến trúc chính là phong cột trên mặt bằng hình chữ nhật.
Cũng giống như kiến trúc, điêu khắc Hy Lạp cũng được phát triển qua 3 thời kỳ.
ở thời kỳ cổ sơ hình tượng điêu khắc rất đơn giản, trước đó nghệ thuật điêu khắc Hy
Lạp đã bắt đầu những bước đi dò dẫm từ thế kỷ X - VIII. Phần lớn là các tượng nhỏ
bằng đồng thanh, đồng nung, hoặc ngà voi thể hiện một cách sơ lược hình tượng
các con vật, con người hay các quái vật trong sự kết hợp giữa người và vật. Đôi khi
còn có những tượng bằng gỗ, diễn tả các vị thần. Điêu khắc thời kỳ này gắn liền với
tôn giáo.
Thời cổ sơ (Thế kỷ VII – VI trước công nguyên)
Trong nghệ thuật điêu khắc Hy Lạp xuất hiện 2 loại tượng: Tượng nam khoả
thân và nữ mặc áo dài. Những tượng này được thể hiện trong dáng đứng thẳng, hai tay
buông theo thân. Tượng trong dáng tĩnh, nghiêm trang cân đối. Tỷ lệ cơ thể cũng như
hình khối chưa chuẩn mực, chất liệu sử dụng là đá.
Thời gian này, trong điêu khắc Hy Lạp vẫn thấy những ảnh hưởng của ước lệ
tạo hình phương Đông. Tượng “nhìn ngay ngó thẳng” và gắn liền với tôn giáo tín
ngưỡng. Sang thế kỷ VI trong phong cách làm tượng đã có sự chuyển biến. Các tượng
thẳng đứng như cây cột dần được thay thế bằng những pho tượng dáng động từ đơn
giản đến phức tạp dần. Nửa đầu thế kỷ V, điêu khắc Hy Lạp được đánh dấu bằng các
tác phẩm chạm nổi ở đền thờ thần diễn tả 12 chiến công người anh hùng Hecquyn
(Hercules). Con người được diễn tả ở nhiều tư thế vận động khác nhau, sinh động.
Hình tượng điêu khắc đã thoát khỏi sự chi phối của ước lệ tạo hình cơ sở. Nghệ thuật
điêu khắc Hy Lạp bước vào thời kỳ mới.
Thời cổ điển (Thế Kỷ V – IV trước công nguyên)
Từ giữa thế kỷ V thành bang A ten đã phát triển trở thành trung tâm lớn
của Hy Lạp cả về chế độ xã hội cũng như văn hoá nghệ thuật. Người đứng đầu
về điêu khắc thời này là Phi đi át (Phiđias), Pô ly clét (Polycléte) và Mirông.
Pô ly clét dành nhiều thời gian cho nghiên cứu và sáng tạo của mình cho việc
tìm ra tỷ lệ chuẩn cân đối, hài hoà của cơ thể nam giới. Tiêu biểu là tượng Đôripho
(Doryphore) người lực sỹ vác giáo: có tỷ lệ 7 đầu, cân đối, hài hoà của các tỷ lệ giữa
đầu, thân, tay, chân, sự mềm mại, sống động của hệ thống cơ, chất đá đã biến thành da
thịt, có cảm nhận được sự vững chắc của cơ thể, sự chuẩn xác về giải phẫu tạo hình kết
hợp với cái đẹp của đường nét, hình khối.
Mirông lại nghiên cứu dáng động của hình tượng con người. Tiêu biểu là tượng
“người ném đĩa” cho ta hình ảnh của một lực sĩ cường tráng đang vận động hết sức
của cơ thể để vung tay ném đĩa, ở đó có sự phối hợp cái đẹp về dáng, về hình, về tỷ lệ.
13
Trong sự phối hợp phần chân nghiêng và thân nhìn chính diện. Sự kết hợp đã tạo ra sự
chuyển động và vẻ đẹp hoàn mỹ cho tác phẩm.
Người ném đĩa- Mi-ron
Sang thế kỷ IV, điêu khắc Hy Lạp lại tiến thêm một bước, nếu ở thời kỳ trước
các tác giả muốn đạt đến độ mẫu mực về tỷ lệ, hình khối, tạo dáng động thì thế kỷ này
họ lại muốn tăng thêm chất liệu thực cho tượng, bớt chất lý tưởng hoá với đại biểu là:
Xcopa (Scopas), Pra Xi Ten (Praxitéle), Li Xíp (Lisippe), Mô Xô Lơ… tác phẩm của
ông như (Hernes), Héc Mét, tượng nữ thần săn bắn ác Tê Mít và đặc biệt là các tượng
vệ nữ như vệ nữ của cơ thể nữ. Đến đây các nghệ sĩ Hy Lạp đã phô diễn vẻ đẹp tuyệt
mỹ mà tạo hoá đã ban tặng cho “phái yếu” qua những pho tượng khoả thân. Có lẽ cũng
vì lẽ đó mà khi tìm thấy hai pho tượng vô danh: Vệ nữ Mi lô và tượng nữ thần chiến
thắng ở Xa Mô Crát: Hai phong cách và hai vẻ đẹp khác nhau: Một lý tưởng hoà và
một tràn đầy, hiện thực.
Thời kỳ Hy Lạp hoá (thế kỷ III – II trước công nguyên)
Ở thời kỳ này, Aten không còn là trung tâm cường thịnh duy nhất như thời
trước, trên những miền đất mới ở Tiểu á và Bắc phi mọc lên những trung tâm mới.
Điêu khắc cũng như điêu khắc đều muốn tìm đến một phong cách mới. Hoặc tiếp tục
phong cách của giai đoạn trước nhưng đẩy cao hơn về mặt biểu hiện những tình cảm
đau thương, bi thảm như những tác phẩm “người lính Gô loa bị trọng thương” hay
người chiến binh gô loa giết vợ và tự sát”… Trong pho tượng này gây ấn tượng mạnh
cho thị giác và cảm xúc. Hoặc phức tạp hơn trong phong cách diễn tả, hoặc cường điệu
14
hoá. Thể loại thường gặp trong điêu khắc thời Hy Lạp hoá là nhóm tượng và phù điêu
lớn
Phù điêu trên diềm mũ cột đền thờ Pðcgam dài khoảng 120m, bao quanh đền
thờ, diễn tả cuộc giao chiến giữa các thần linh và những người khổng lồ. Mọi hình
tượng đều được diễn tả bằng kỹ thuật điêu luyện, hình khối mạnh mẽ, cường độ dữ dội
trong động tác.
Nhóm tượng Lao Cun: Mang đầy chất bi tráng, diễn tả một cảnh tượng khủng
khiếp về số phận con người. Nhóm tượng diễn tả 3 nhân vật, mỗi người mang một nét
đẹp riêng. Ngoài cái đẹp lý tưởng về hình thể, tác giả còn muốn nhấn mạnh vẻ đẹp về
tính cách, về sự bộc lộ nội tâm. Qua hình dáng, thái độ khác nhau của 3 nhân vật đã
bộc lộ nỗi khiếp sợ, đau đớn, kiệt sức của 3 cha con. Sức căng vặn của 3 cơ thể, kết
hợp với đường cong ngoằn ngoèo của hai con rắn đã tạo nên nhóm tượng có bố cục
chặt chẽ, gắn bó thể hiện nội dung sâu sắc
2.3 Nghệ thuật sân khấu
Hy lạp là quốc gia xuất hiện nền văn minh khá sớm, người Hy lạp đặc biệt chú
trọng đến đời sống tinh thần, những nhà hát ngoài trời, thư viện quốc gia
(Aleccxăngđria) chứa hơn 40 vạn cuốn sách là một minh chứng cho sự phát triển văn
hóa cộng đồng của người Hy Lạp. Nghệ thuật hát và biểu diễn ngoài trời phục vụ các
công dân Hy lạp đã được người Hy Lạp rất hưởng ứng vì thế nó nhanh chóng trở thành
loại hình nghệ thuật san khấu phát triển mạnh mẽ cho tới tận thời kỳ Hylạp hóa
2.4 Nghệ thuật văn học
Văn chương là nguồn nuôi dưỡng tinh thần của người Hy lạp, những câu
chuyện thần thoại chính là ước mơ mà người Hy lạp gửi gắm mong ước một xã hội
nhân văn chỉ có niềm vui, một thế giới tinh thần mơ mộng của con người. Các thể loại
chính: thần thoại, bi kịch, anh hùng ca
15
BÀI 3: THÀNH TỰU NGHỆ THUẬT LA MÃ CỔ ĐẠI
1. Văn hóa, xã hội thời kỳ La Mã cổ đại
Nền mỹ thuật La mã được hình thành do nhiều nguồn ảnh hưởng. Có hai
nguồn nghệ thuật chính tạo nên dòng văn hoá La mã cổ đại là Hy Lạp và nghệ
thuật của người Êtơrúcxcơ, một tộc người sống ở các quốc gia đô thị ở Bắc mỹ
và chịu ảnh hưởng của người Hy Lạp, họ có thành tựu về đúc đồng. Điều đó
góp phần tạo nên sự phát triển của La mã về điêu khắc, nhất là tượng chân
dung.
Người La mã đã học theo người Hy Lạp rất nhiều lĩnh vực về thần thoại, văn
học, sử thi… Mặc dù vậy, trong nghệ thuật và nhiều lĩnh vực khác La mã có những
sáng tạo riêng và góp rất lớn cho khoa học và nghệ thuật tạo hình. Nhất là nghệ thuật
kiến trúc.
Sự phát triển và giàu có của La mã góp phần thúc đẩy sự ra đời và đạt đến đỉnh
cao của một số loại hình nghệ thuật mang đặc điểm đặc trưng của La mã. Vì vậy có thể
khẳng định rằng, nền văn hoá La mã là nơi hội tụ của nhiều tinh hoa văn hoá của nhiều
vùng khác nhau trên thế giới. Song nó vẫn có những sáng tạo riêng rất về nghệ thuật.
2. Nghệ thuật Kiến trúc
Có thể nói nghệ thuật kiến trúc La mã đã phát triển phù hợp với nhu cầu của
người La mã. Nó có nhiều điểm khác với Hy Lạp và nhất là Ai Cập. ở Hy Lạp những
công trình xây dựng to lớn và tráng lệ thì nhà ở La mã lại nhỏ bé khiêm tốn. ở Ai Cập
cũng chỉ chú ý đến các kiến trúc “nhà ở cho linh hồn”, và thần linh, còn nhà cho con
người cũng đơn giản. Với La mã thì khác, họ xâm chiếm được vùng nào, họ cho xây
dựng, quy hoạch đô thị, tạo tiện nghi cho cuộc sống của mình. Trong kiến trúc La mã,
kiến trúc thế tục được đặc biệt chú trọng và phát triển.
Các thể loại kiến trúc phong phú. Trong đó nổi lên là các kiến trúc công cộng
như trụ sở Viện nguyên lão, đề thờ, cửa hàng, kho chứa, nhà tắm… Ngoài ra còn có
kiến trúc phục vụ cho nhu cầu về mặt tinh thần cho con người, nhất là để tôn vinh
chiến công, chiến tích của các hoàng đế La mã, như các khải hoàn môn, trụ biểu, đấu
trường, nhà hát… Bên cạnh đó họ còn sáng tạo trong thể loại nhà ở tập thể. Đi theo với
kiến trúc, trong quy hoạch đô thị người La mã đã chú ý đến các công trình cấp thoát
nước.
Đấu trường Côlidê (Colisée) – Rôma: Là một đấu trường lớn nhất La mã cổ
đại, được xây dựng theo hình dạng elíp: vòng ngoài có kích thước 188 x 156m. Sân
đấu bên trong là 86 x 54m. Mặt ngoài cao 49m gồm 4 tầng, 3 tầng dưới mỗi tầng có 80
16
vòm uốn. Sức chứa của đấu trường lên tới 50.000 người. Đây là sự kết hợp các thể
thức kiến trúc của Hy Lạp. Tầng 1 là biến thể của thức Đôníc, tầng 2 là một cột theo
kiểu Iôníc, tầng 3 là kiểu thức Côranhtiêng, tầng 4 sử dụng mảng đặc là chính. Thỉnh
thoảng có chỗ cửa nhỏ, kết cấu theo kiểu nhẹ dần lên. Bên cạnh những hàng cột theo
kiểu Hy Lạp là các vòm cuốn bán nguyệt mang đặc trưng kiến trúc La mã. Sự kết hợp
đó đã tạo cho mặt ngoài đấu trường một dáng vẻ đặc biệt, phản ánh được một cách rõ
nét đặc điểm của nghệ thuật La mã.
Đấu trường Co-li-de
Khải hoàn môn: Thường được bố cục 3 cổng vòm. Nổi bật là cổng chính ở
giữa, hai bên là hai cổng nhỏ. Chúng thường có kích thước lớn, độ rộng và sử dụng
nhiều vòm, vòng cung, thường được xây bằng gạch, đá vôi, ngoài bọc bằng đá cẩm
thạch… Khải hoàn môn thường được xây dựng để tôn vinh và ghi lại chiến thắng của
các hoàng đế La mã. Vì vậy trang trí ở đây là phù điêu và chỉ phủ kín mặt ngoài kiến
trúc. Nó không mang giá trị vật chất cụ thể mà là biểu trưng cho các hoàng đế, khẳng
định quyền bá chủ dành cho người chiến thắng: Khải hoàn môn Trujan (114 – 129),
Titus, Séptimiút (203)…
Trong tất cả thể loại kiến trúc La mã, họ đều sử dụng vòm cuốn nhiều kiểu.
Người La mã tỏ ra có biệt tài trong việc xây dựng mái vòm với kỹ thuật điêu luyện, có
sự kết hợp của nhiều vật liệu: Gạch, đá… Họ xây dựng nhiều nhà tắm công cộng,
phong tranh, thư viện, … phục vụ cho nhu cầu của con người.
Cầu dẫn nước: Qua sông Gard, cao 49m, dài 274m, gồm 3 tầng móng, lớp dưới
có 6 cống vòm, lớp 2 có 11 cổng vòm, trên cùng là 35 cổng vòm, các cổng vòm này
không giống nhau. Cầu móng có độ nghiêng thích hợp để lúc nào cũng có nước chảy.
Được xây bằng gạch, đá để mộc. Điều này tạo vẻ đẹp cho tác phẩm nghệ thuật này. Do
tướng quân và thống đốc La mã Aguriba, bạn và anh em cọc chèo với hoàng đế
Augustua xây dựng.
17