1. Trang chủ >
  2. Văn Hóa - Nghệ Thuật >
  3. Điêu khắc - Hội họa >

BÀI 6: THÀNH TỰU NGHỆ THUẬT CỔ ĐIỂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.89 MB, 116 trang )


"Cái chết của Socrate" của Họa sĩ Jaques-Louis-David

Do ảnh hưởng cổ điển, các nghệ sĩ cũng diễn tả những tư tưởng hướng về Hy

Lạp và La Mã. Họa sĩ Jaques-Louis-David đã vẽ bức danh họa " chết của Socrates "

theo cảm hứng từ nghệ thuật và văn hóa Cổ Hy Lạp. Các cuốn tiểu thuyết của Samuel

Richardson, Henry Fielding, Laurence Stern và Tobias Smolett... đã chứa đựng các

tình cảm trưởng giả, giống như thơ phú của Thomas Gray, Oliver Goldsmith và

William SCowper.

Nhưng dưới ánh vẻ hào nhoáng của các vương triều và trong các xã hội mà

quyền uy đã được coi như thiên mệnh, đang âm thầm các sức mạnh bộc phá, làm lung

lay nền móng của các chế độ cai trị. Cuộc Cách Mạng Hoa Kỳ là một đòn mạnh đánh

vào chủ thuyết thần quyền của các vị vua chúa, rồi Cuộc Cách Mạng Pháp đã làm rung

chuyển toàn thể châu Au. Thời kỳ cổ điển đã chứng kiến ngày tàn của các thể chế cũ

và bình minh của châu Au hiện ra với các biến đổi chính trị, kinh tế, nhờ đó quyền lực

được chuyển từ giai cấp quý tộc sang giai cấp trung lưu. Chế độ tư bản đang bành

trướng nhờ Cuộc Cách Mạng Kỹ Nghệ với các tiến bộ về Khoa Học, Kỹ Thuật, nhờ

năng lực hơi nước, đường xe lửa,các nhà máy, các hầm mỏ . . .

Vào giữa thế kỷ 18, nhiều phát minh khoa học đã ra đời chẳng hạn như máy se

sợi của Hargreaves năm 1760, máy hơi nước của James Watt năm 1765, máy dệt của

Cartwright năm 1785, máy cán bông gòn của Eli Whitney năm 1793... Bộ môn Khoa

Học Thuần Lý đã có sự đóng góp của Benjamin Franklin tìm ra Điện Lực năm 1752,

Priestly khám phá ra Oxygen năm 1774 , Bác Sĩ Jenner hoàn chỉnh cách Chủng Ngừa

năm 1796, nhà toán học Laplace đã tính toán cách vận hành của Vũ Trụ và pin Điện

Cực được Alessandro Volta phát minh vào năm 1800. Sinh hoạt trí thức cũng có các

đóng góp đáng kể như cuốn sách "Lịch sử nghệ thuật cổ" của Winckelman xuất bản

35



năm 1764, Từ Điển Bách Khoa Pháp (1751-52) và Từ Điển Bách Khoa Britanica với

ấn bản đầu tiên vào năm 1771.

Sinh hoạt trí thức của thời Cổ Điển như vậy đang đứng trước hai trào lưu đối

nghịch. Một xu hướng là nghệ thuật cổ điển đang được tinh luyện trong đời sống

nhưng cũng đang đi dần tới kết thúc, xu hướng kia là một cách sống mới đang vật lộn

để chào đời.

Thế kỷ 18 còn được gọi là Thời Đại của Lý Trí (the Age of Reason). Các nhà

triết học người Pháp như Voltaire, Diderot, Rousseau, Condorcet, d'Alembert . . . đã

tạo nên Bộ Từ Điển Bách Khoa như một dụng cụ Khai Sáng, đã đề cao Lý Trí với mục

đích tấn công vào nền trật tự đang hiện hữu trong khi giai cấp trung lưu chiếm dần các

vị trí quan trọng trong cuộc nổi dậy.

Văn Hóa của thế kỷ 18 đã được đặt dưới sự bảo trợ của giới quý tộc vì Nghệ

Thuật được coi là một thứ trang hoàng cho đời sống vương giả. Cuộc sống của các ông

hoàng, các mệnh phụ được diễn ra nơi lâu đài, với các yến tiệc, các lễ nghi đòi hỏi tới

sự lịch duyệt trong phong cách và vẻ đẹp trong kiểu mẫu. Các nghệ sĩ của thế kỷ 18 đã

sống trong khung cảnh đó. Họ là những người phục vụ cho các vương triều, các ông

hoàng bà chúa, để có được sự an toàn kinh tế và địa vị xã hội. Các nghệ sĩ vì thế đã

sáng tác ra các tác phẩm theo đòi hỏi của giới quý tộc.

2.2. Nghệ thuật Kiến trúc

Nghệ thuật kiến trúc của thế kỷ 18 mang các dấu ấn đặc thù, với các lâu đài

nguy nga và các khu vườn rộng lớn, tất cả được xây dựng theo tỉ lệ cân đối, với các chi

tiết trang hoàng tỉ mỉ. Vào giữa thế kỷ này, Vua Louis 15 của nước Pháp đã chủ xướng

các lễ hội xa hoa tại Cung Điện Versailles, đồng thời các vương triều khác cũng ngự

trị tại các quốc gia láng giềng: Frederic Đại Đế cai trị nước Phổ, Catherine là Nữ Hoàng của

nước Nga và Maria Thérésa trị vì nước Ao. Tại châu Au thời đó, giai cấp cai trị đã nắm

quyền lực nhờ vào đặc quyền thừa kế. Xã hội của thời kỳ này tôn trọng quá khứ, đề

cao truyền thống và hiện trạng được duy trì. Các nhà quý tộc đã coi trọng hình ảnh của

các thần linh cổ xưa, đề cao thành tích của các vua chúa, các anh hùng hiệp sĩ vì đây là

phản ánh của chính họ, của những gì quý phái, cao sang.

2.3. Nghệ thuật sân khấu

Về âm nhạc và sân khấu, sự phân chia rõ ràng giữa cổ điển và lãng mạn đã

không có một mốc thời gian nhưng khi xét các khuynh hướng nghệ thuật của thế kỷ

18, các nhà phê bình cho rằng thế kỷ đó đã có những dấu nét đặc biệt, khác biệt với

trào lưu nghệ thuật của thế kỷ sau. Nghệ thuật đã trở thành sự mẫu mực mà ở sân khấu

người nghệ sĩ cụ thể hóa cuộc đời và xã hội. Về âm nhạc, các nhạc sĩ nam nữ thời đó

sống nhờ vào các cung đình, họ là ca sĩ, nhạc công và giáo sư âm nhạc cho các gia

36



đình quý tộc giàu có. Họ viết nhạc để phục vụ tôn giáo, hoặc soạn ra các bài thực tập

âm nhạc dành cho nhạc sinh, hoặc sáng tác ra các bản nhạc để hát, để đàn trong các

buổi giao tế xã hội của giới quyền quý. Thời kỳ Cổ Điển của bộ môn Âm Nhạc có thể

được coi là từ năm 1750 tới năm 1825 với các tác phẩm của bốn bậc Thầy tiêu biểu,

thuộc trường phái Vienna là Haydn, Mozart, Beethoven và Schubert. Trong thời kỳ

này, nghệ thuật Am Nhạc đã kết nụ, nở hoa vì những thí nghiệm và khám phá, và các

nhạc sĩ đã phải đứng trước ba thử thách, thứ nhất là thám hiểm vào phạm vi rộng lớn

của hệ thống âm giai trưởng-thứ, thứ hai là làm hoàn chỉnh ngành âm nhạc tuyệt đối

(the absolute instrumental music) và thứ ba là tận dụng các thể loại âm nhạc mới với

các sonata đơn và kép, các trio, quartet, concerto, thể loại giao hưởng (symphony) và

các loại nhạc thính phòng. Nếu nói rằng các nhạc sĩ bậc thầy như Haydn, như

Beethoven, thuộc trường phái cổ điển thì cũng chưa hẳn chính xác. Các nhạc sĩ thuộc

trường phái Vienna đã thí nghiệm một cách táo bạo và không ngừng dùng các vật liệu

âm nhạc trong tầm tay. Lúc đầu họ phải quy phục các nguyên tắc của các thể loại đã có

từ trước, rồi về sau đã diễn tả tình cảm nội tâm qua các tác phẩm. Cũng vì thế các bản

nhạc của Haydn hay của Beethoven vào thời kỳ đầu đã mang nhiều sắc thái cổ điển

hơn, trong khi Schubert ở cuối giai đoạn lại mang màu sắc trữ tình. Cho nên danh từ

Cổ Điển có thể bao hàm ý nghĩa của sự toàn hảo, sự huy hoàng của Am Nhạc vì các

bậc Thầy của thời đó đã trình bày, đã sáng tác ra các bản giao hưởng, concerto, sonata,

trio, quartet mà sau này được coi là những mẫu mực không vượt qua được.

Âm Nhạc của trường phái Vienna còn có các giai điệu vừa lịch lãm, vừa ca

ngợi, thường căn cứ vào các câu 4 nhịp đối xứng có đoạn kết rõ ràng nhờ đó âm nhạc

dễ dàng thâm nhập vào tâm hồn thính giả. Các giai điệu cổ điển này vừa có thể dùng

để ca hát, vừa dùng cho nhạc cụ, đã đi từng bước ngắn, nhẩy các quãng hẹp lại bám rễ

vững vàng vào cung khóa (key). Sự trong sáng của bản nhạc được nổi bật nhờ các câu

nhạc lặp lại và nhờ cách dùng thường xuyên các tiếp khúc (sequence) hay sự nhắc lại

một mẫu câu nhạc bằng giọng cao hơn hay trầm hơn. Các câu nhạc vừa đối xứng, vừa

cân đối nên dễ làm cho người nghe thưởng thức được phong vị của giai điệu.



37



BÀI 7: THÀNH TỰU NGHỆ THUẬT THẾ KỶ XVIII

1. Đặc điểm văn hóa, xã hội

Trung tâm văn hóa, nghệ thuật phương tây thế kỷ XVIII tập trung chủ yếu ở

Pháp. Xã hội Pháp trước Cách mạng phân hoá làm 3 đẳng cấp (tu sĩ, quý tộc, bình dân)

đã tạo nên sự bất bình đẳng sâu sắc, bất hợp lý về cơ cấu kinh tế, xã hội, văn hoá tinh

thần, tư pháp, chính trị, giáo dục.

Triều đình Louis XVI của Pháp sống xa xỉ và phung phí đã dẫn đến khủng

hoảng tài chính rồi khủng hoảng chính trị.

Cuộc Cách mạng Pháp với khẩu hiệu "Tự do - Bình đẳng - Bác ái" là mơ ước

của nhân dân Pháp, nhưng họ đã hoàn toàn tan vỡ khi họ phải chứng kiến một thời kỳ

dài đầy biến động liên tiếp: Quốc ước hội nghị (1792-1795) thành lập Đệ nhất cộng

hoà, Chấp chánh hội nghị (1795-1799), Chế độ Tổng tài (1799-1804), sự kiện 1793

(phái Jacobin cực đoan nắm quyền với chính sách tàn sát đẫm máu).

Năm 1804 Napoléon Bonaparte làm cuộc chính biến thành lập Đế chế thứ nhất

và lên ngôi hoàng đế. Đế chế thứ nhất kéo dài 10 năm (1804-1814) với những sự kiện

đáng chú ý: sự ra đời của bộ dân luật (code civil), chiến thắng Austerlitz năm 1805...,

đây là những niềm tự hào của Đế chế.

Sự tan vỡ của huyền thoại Napoléon về khát vọng anh hùng, khát vọng chiến

thắng được phản ánh trong nhiều tác phẩm lãng mạn và hiện thực đương thời như:

Chiến tranh và Hoà bình, Tội ác và trừng phạt...

2. Một số thành tựu nghệ thuật

2.1 Nghệ thuật Hội họa

Hội họa hình thành hai khuynh hướng một là nghệ thuật hướng thiện hai là nghệ

thuật tân cổ điển. Nghệ thuật pháp ở vương triều Lu-I XVIII.(Khuynh hướng nghệ

thuật Pháp thể kỳ XVIII :khuynh hướng Hướng thiện,khuynh hướng Tân cổ điển.

2.2 Nghệ thuật điêu khắc

Nghệ thuật điêu khắc lấy tiêu chí từ thời kỳ cổ đại làm kim chỉ nam cho những

sáng tạo nghệ thuật. Chất liệu chính chủ yếu vẫn là đá, đồng. Những hình mẫu của con

người thời kỳ này là những công dân thành bang anh hùng hoặc những nhân vật phi

phàm.

Có thê nói điêu khắc Pháp thế kỷ XVIII mang phẩm chất anh hùng

2.3. Nghệ thuật văn học

Alexandre Dumas là một nhà văn có sức sáng tác mạnh mẽ. Ông để lại khoảng

250 tác phẩm, gồm 100 là tiểu thuyết, số còn lại là 91 vở kịch, rồi bút ký, phóng sự,

hồi ký. Dumas có cả một đội ngũ cộng sự, đặc biệt là Auguste Maquet, người góp

38



phần vào nhiều thành công của Dumas. Trong những tiểu thuyết của ông, nổi tiếng

hơn cả là Ba chàng lính ngự lâm, còn được dịch Ba chàng ngự lâm pháo thủ (Trois

Mousquetaires) và Bá tước Monte Cristo (Le Comte de Monte-Cristo) năm 1844.

Đương thời, Dumas bị chê trách là người ham ăn, ham chơi. Ông thường xuyên

thết đãi thịnh soạn bạn bè, người thân, công chúng hâm mộ, với những bữa tiệc sang

trọng khiến ngay cả Paris cũng loá mắt, trầm trồ. Ông còn để lại một công trình đặc

biệt, cuốn Đại từ điển ăn uống, mà ông muốn được hậu thế coi là đỉnh cao sự nghiệp

văn chương của mình. Trong đời mình Dumas kiếm được 18 triệu franc vàng, song

ông luôn luôn nợ nần, nhiều lần trốn nợ, thậm chí ra nước ngoài, những năm cuối đời,

phải đến tá túc ở nhà con.

Dumas nức tiếng là người thay nhân tình như thay áo. Quả thật, ông cưới vợ chỉ

một lần, gia đình này tan vỡ rất nhanh. Ông dan díu với 25 người đàn bà, có nhiều con

hoang, mỗi con của một mẹ. Chỉ 3 con được công khai, trong đó con trai, cũng tên

Alexandre Dumas, thường được gọi Alexandre Dumas con, trở nên một nhà văn lừng

danh. Con gái thứ hai thì cuộc đời lỡ làng, con gái út – mà mẹ cô trẻ hơn Dumas đến

gần 40 tuổi – thì chết cô đơn năm 1936 ở một làng quê trong nghèo khổ và không được

ai biết đến là con gái cưng của một trong những vĩ nhân của nước Pháp. Mãi gần đây,

người ta mới vỡ lẽ rằng Dumas đến với nhiều phụ nữ là do thương họ. Ông đồng thời

chu cấp tiền nong đầy đủ cho vài người.

Dumas là người hết sức quý trọng tình bạn. Trừ Balzac và Musset, các nhà văn

cùng thời đều chơi với ông, thân nhất là Victor Hugo, người đã đánh giá chính xác vai

trò của ông ngay khi ông qua đời. Hugo viết: "Trong thế kỷ này, không ai được dân

chúng yêu mến sâu rộng và thắm thiết bằng Alexandre Dumas. Các thành công của

ông đều tầm cỡ hơn thành công nói chung nhiều. Đó là những đại thắng lợi. Đó là

những ngọn đèn pha". Ông cũng là người đại lượng, năm 1831, do ghen tức với thành

công của vở Antony của ông, Hugo cho người viết báo chê bai. Hai người giận nhau.

Song năm 1834, ông chủ động giảng hoà.

Để hoàn toàn chủ động trong hoạt động sân khấu, ông bỏ ra một món tiền lớn để

xây dựng Nhà hát kịch lịch sử của riêng ông. Khán giả rất nồng nhiệt, song không bù

đắp nổi chi phí bỏ ra, nên cuối cùng nhà hát đóng cửa. Từ năm 1848, ông đã ra tờ báo

đầu tiên. Sau đó, ông còn ra nhiều tờ báo nữa. Nhưng do quản lý kém, bị kiểm duyệt

gây khó dễ, các tờ báo ấy tồn tại không bền, và ngốn của ông rất nhiều công sức và

tiền bạc. Ông cũng hai lần ứng cử vào Nghị viện đều thất bại, ứng cử vào Hội quốc

ước thì chỉ được 261 phiếu, trong khi các đối thủ được 220.000, rồi phải sang Bỉ lưu

vong năm 1851, sau cuộc đảo chính của Napoléon III. Ông mất năm 1870 ở Puys,

vùng Dieppe. Thi hài của ông được chuyển về Điện Panthéon năm 2002, bất chấp ý

nguyện cuối đời của ông: "trở về bóng đêm của tương lai cùng nơi tôi ra đời" (rentrer

39



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.doc) (116 trang)

×